Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu "Hồi trống Cổ Thành" - La Quán Trung docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.15 KB, 7 trang )

"Hồi trống Cổ Thành" - La Quán Trung




Bên cạnh kho tàng văn học dân gian rất đồ sộ với tác phẩm Kinh Thi nổi tiếng,
nhân dân Trung Quốc còn rất tự hào với hai đỉnh cao chói lọi là thơ Đường và tiểu
thuyết Minh – Thanh. Văn học Minh  Thanh là giai đoạn phát triển cuối cùng của
văn học cổ điển Trung Quốc. Đây là thời kì nền văn học Trung Quốc khá đa dạng,
phong phú và đạt nhiều thành công về mặt nghệ thuật. Trong đó có sự lên ngôi đầy vẻ
vang của tiểu thuyết. Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là một loại truyện dài, được kể
thành chương hồi và theo trật tự trước sau của sự việc. Khái niệm tiểu thuyết trong
văn học Minh Thanh khác với tiểu thuyết hiện đại sử dụng ngày nay. Có thể kể đến
những đỉnh cao tiêu biểu của tiểu thuyết Minh  Thanh đã rất quen thuộc với chúng ta
ngày nay như Tây du kí, Nho lâm ngoại sử, Thuỷ hử truyện, Tam quốc diễn nghĩa,
Hồng lâu mộng… Trong đó, Tam quốc diễn nghĩa là tác phẩm phản ánh một thời kì
dài và đầy biến động của lịch sử Trung Quốc, đó là thời Tam quốc. La Quán Trung
viết tác phẩm này dựa trên ba nguồn tư liệu chính là sử liệu (cuốn sử biên niên Tam
quốc chí của Trần Thọ đời Tấn và cuốn Tam quốc chí của Bùi Tùng Chi người Nam
Bắc triều) ; dã sử, truyền thuyết trong dân gian ; tạp kịch, thoại bản đời Nguyên (cuốn
Tam quốc chí bình thoại). Vì thế tác phẩm vừa là một thiên sử kí, vừa là một tác phẩm
văn học có giá trị nghệ thuật.
Qua việc kể lại những câu chuyện về cuộc chiến tranh cát cứ giữa ba tập đoàn
phong kiến Nguỵ, Thục, Ngô, bằng nhãn quan chính trị của mình, La Quán Trung đã
bày tỏ khát vọng về một xã hội công bằng, ổn định với vua hiền tướng giỏi, nhân dân
ấm no. Mặc dù, lấy đề tài từ những câu chuyện lịch sử đã lùi sâu vào quá khứ nhưng
tác giả đã khắc hoạ một thế giới nhân vật sinh động trong những mối quan hệ rất chặt
chẽ, với đủ những nét tính cách khác nhau. Không một nhân vật nào trùng lặp nhân
vật nào trong thế giới hàng nghìn nhân vật ấy. Đoạn trích Hồi trống Cổ Thành đã phần
nào bộc lộ một trong những nét tính cách tiêu biểu của hai nhân vật xuất hiện khá
nhiều trong tác phẩm là Quan Vân Trường và Trương Phi. Đoạn trích rất ngắn so với


sự đồ sộ của tác phẩm nhưng cũng đã thể hiện được một đặc trưng bút pháp nghệ
thuật của La Quán Trung cũng như đặc điểm chung của tiểu thuyết cổ điển Minh –
Thanh.
Đoạn trích Hồi trống Cổ Thành có kết cấu hoàn chỉnh và đầy kịch tính. Đây là
một đặc điểm trong nghệ thuật trần thuật của tiểu thuyết cổ điển, mỗi chương hồi
thường là một câu chuyện có giới thiệu, mở mối, mở nút và thắt nút như kết cấu một
vở kịch. Sau khi giới thiệu nhân vật và sự việc thì mở ra mâu thuẫn, rồi mâu thuẫn
được đẩy lên đỉnh điểm rồi được giải quyết bằng một hành động nào đó. Trong đoạn
Hồi trống Cổ Thành, mở đầu tác giả giới thiệu việc Quan Công đang trên đường tìm
về Nhữ Nam gặp Lưu Bị, ngang qua Cổ Thành biết được Trương Phi ở đó bèn đưa hai
chị dâu vào. Đồng thời tác giả cũng giới thiệu cảnh ngộ của Trương Phi. Mâu thuẫn
bắt đầu khi Trương Phi nghe tin Quan Công đến, vác xà mâu, lao ngựa ra đánh Quan
Công, và được đẩy lên cao hơn khi quân mã Sái Dương xuất hiện. Là câu chuyện đậm
màu chiến trận nên mọi mâu thuẫn giữa các nhân vật đều được giải quyết bằng hành
động. Mâu thuẫn giữa Quan Công và Trương Phi xuất phát từ sự hiểu lầm của Trương
Phi nhưng cũng được giải quyết bằng hành động. Hành động chém đầu tướng giặc.
Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi đầu Sái Dương rơi xuống đất, còn mọi lời giải
thích đều không có ý nghĩa gì. Về mặt nội dung, đoạn trích là một câu chuyện hoàn
chỉnh, đặc điểm này giúp cho việc nắm bắt nội dung dễ dàng hơn. Mỗi hồi của tiểu
thuyết chương hồi thường giải quyết hoàn chỉnh một mâu thuẫn hoặc hoàn thành diễn
biến một sự kiện, đồng thời lại mở ra một câu chuyện mới tạo nên phần nối kết với hồi
sau. Vì thế kết thúc mỗi hồi bao giờ cũng có câu : "muốn biết sự việc thế nào xem hồi
sau sẽ rõ". Mỗi hồi đều được kết thúc khi mâu thuẫn đang ở cao trào là một kiểu tạo
sức hấp dẫn của nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết cổ điển.
Vốn là những truyện kể dân gian được sưu tầm và ghi chép lại nên phương
thức trần thuật của Tam quốc diễn nghĩa mang đặc điểm truyện kể rất rõ. Truyện được
kể theo trật tự thời gian trước sau của sự việc. Nếu sự việc xảy ra đồng thời hoặc
muốn chuyển từ nhân vật này sang nhân vật khác thì dùng từ chuyển "lại nói". Truyện
kể ít quan tâm đến diễn biến tâm lí và suy nghĩ nội tâm của nhân vật. Tính cách nhân
vật được bộc lộ qua hành động và cử chỉ. Tác giả ít xen vào lời giới thiệu hoặc bình

luận. Nếu bình luận một trận đánh hoặc một sự việc, hành động nào đó của nhân vật
thì tác giả trích một bài thơ, một bài vịnh nào đó của người đời sau. Và tên mỗi
chương bao giờ cũng là câu văn đối ngẫu tóm tắt sự việc chính xảy ra trong hồi đó.
Nội dung của câu chuyện Hồi trống Cổ Thành được tóm tắt trong câu : "Chém Sái
Dương anh em hoà giải ; Hồi Cổ Thành tôi chúa đoàn viên". Đoạn trích này đã thể
hiện khá rõ những đặc sắc nghệ thuật trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của
Tam quốc diễn nghĩa. Những nét tính cách không thường nổi bật trong tác phẩm của
hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã được thể hiện trong đoạn trích. Quan Công
vốn rất tự phụ, ít khi nhún nhường ai, nhưng trong trường hợp đặc biệt này, trước cơn
giận của Trương Phi, lại rất nhũn nhặn, mềm mỏng. Ở đây hiện lên một Quan Công
oai hùng trong tư thế chém đầu tướng giặc nhưng cũng lại là một người anh chín chắn,
đúng mực. Còn Trương Phi tính tình vốn xốc nổi, đơn giản nhưng mối nghi ngờ đã
làm cho vị anh hùng này thận trọng hơn. Đó là những nét tính cách khác tạo nên sự đa
chiều trong nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật của tác giả. Dù thế nào thì mỗi
nhân vật của Tam quốc diễn nghĩa vẫn có một tính cách đặc trưng rất cá tính, không
thể trộn lẫn vào đâu được. Đoạn trích này ca ngợi tài năng phi thường của Quan Công,
lòng dạ thẳng ngay của Trương Phi và trên hết là lòng trung nghĩa sắt son của cả hai
người.
Trương Phi nổi tiếng là người ngay thẳng, nóng nảy và trung thực. Nên mọi lí
lẽ với Trương Phi đều không có sức thuyết phục. Người như Trương Phi không bao
giờ chấp nhận và cũng khó có thể hiểu được những uẩn khúc trong việc Quan Công về
ở với Tào Tháo. Vì thế khi nghe tin Quan Công đến Cổ Thành, Trương Phi đã phản
ứng rất quyết liệt : "Phi nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác
mâu lên ngựa…". Nhìn thấy Quan Công thì không thèm nói một lời, "Trương Phi mắt
trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan
Công". Không có lời bình luận, không miêu tả tâm lí nhân vật nhưng tính nóng nảy và
sự tức giận của Trương Phi được thể hiện rất rõ qua hành động, nét mặt, lời nói. Phản
ứng của Trương Phi thể hiện tính trung thực, yêu ghét rõ ràng. Lời thanh minh của
Quan Công, lời giải thích của Cam phu nhân, Mi phu nhân đều chỉ như dầu đổ vào
lửa. Trương Phi không thích nghe lí lẽ, chỉ tin vào những điều mắt trông thấy. Cơn

giận đang ngùn ngụt lại trông thấy quân mã kéo tới. Cơn giận của Trương Phi được
đẩy lên đỉnh điểm "múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công". Nhân vật của
tiểu thuyết cổ điển tuy có tính cách rất rõ nét nhưng vẫn mang tính ước lệ của văn học
trung đại. Vì vậy, hành động của nhân vật bao giờ cũng minh hoạ cho tính cách và tư
tưởng giai cấp chứ không nhất thiết tuân theo lôgic tâm lí. Tình nghĩa anh em thuở
hàn vi sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu ai đó bị nghi ngờ là phản bội. Chỉ có lí tưởng trung
nghĩa là nguyên tắc ứng xử duy nhất. Và mọi mâu thuẫn chỉ được giải quyết trên cơ sở
lợi ích cộng đồng. Anh em Quan, Trương đoàn tụ khi đầu Sái Dương rơi xuống đất.
Trương Phi thẳng tay đánh trống giục giã Quan Vũ và "rỏ nước mắt thụp lạy Vân
Trường" khi nỗi nghi ngờ được giải toả. Việc Trương Phi buộc Quan Công phải chém
đầu Sái Dương trong ba hồi trống thể hiện một thái độ dứt khoát và cương quyết, đây
cũng là chi tiết đậm màu sắc Tam quốc nhất. Trương Phi biết rõ tài năng của Quan
Công, Quan Công từng chém rơi đầu Hoa Hùng, một viên tướng giỏi và trở về doanh
trại mà chén rượu vẫn còn nóng. Việc Quan Công chém được Sái Dương không phải
là việc khó nhưng lại rất có ý nghĩa bởi đó là cách duy nhất để Quan Công minh oan.
Sự minh oan cũng không mấy khó khăn nhưng nó thể hiện thái độ dứt khoát và trắng
đen rõ ràng của Trương Phi. Tác giả đã tạo nên một tình huống rất đặc sắc để vừa ngợi
ca tình cảm anh em gắn bó nghĩa tình của Lưu, Quan, Trương vừa bộc lộ rõ tính cách
thẳng ngay của Trương Phi và đức độ của Quan Công.
Trương Phi và Quan Công là những tướng tài của nhà Thục, tiêu biểu cho nhà
Thục. Lưu Bị và nhà Thục là nơi tác giả gửi gắm ước mơ của quần chúng nhân dân về
một ông vua hiền, một triều đình chính nghĩa và nhân đạo.
Với lối kể chuyện dân gian, đơn giản hoá tình tiết trong sự đa dạng của sự kiện,
Tam quốc diễn nghĩa đã đạt đến chuẩn mực của nghệ thuật kể chuyện. Tam quốc diễn
nghĩa là tiểu thuyết cổ điển tiêu biểu ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
Thành công của tác phẩm không chỉ bởi giá trị lớn của tác phẩm về quân sự, lịch sử và
về đạo đức mà còn bởi thế giới nhân vật được xây dựng rất thành công. Những nhân
vật tiêu biểu của Tam quốc diễn nghĩa đã trở nên rất quen thuộc đối với văn hoá và
người đọc phương Đông. Không đi sâu khai thác tính cách bằng diễn biến tâm lí nhân
vật như tiểu thuyết hiện đại mà xây dựng tính cách nhân vật bằng những hành động,

cử chỉ có ý nghĩa khái quát, La Quán Trung vẫn xây dựng được một thế giới nhân vật
đa dạng có khả năng bao quát và tái hiện sinh động một thời kì lịch sử dài gần một
trăm năm với rất nhiều biến động. Qua đây tác giả đã gửi gắm những suy nghĩ và thể
hiện cái nhìn của mình về xã hội Minh Thanh. Chỉ với một đoạn trích Hồi trống Cổ
Thành nhưng hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã nổi lên vẻ đẹp sáng ngời về
lòng nhân nghĩa, sự trung thực và chân thành của tình anh em, tôi chúa. Là tiểu thuyết
khai thác đề tài trận mạc nhưng Tam quốc đã để lại rất nhiều những câu chuyện giáo
dục nghĩa tình, giáo dục lối sống, lối ứng xử theo tiêu chuẩn Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín
của người quân tử phương Đông.
* Lời bình hồi 28 Tam quốc diễn nghĩa của Mao Luân (cha) và Mao Tôn
Cương (con) :
"Người đời chỉ biết Vân Trường hàng Hán, không hàng Tào, thì khen là tiết
tháo, nhưng không biết Dực Đức còn tiết tháo hơn Bởi vì có vua tôi rồi mới có anh
em, nghĩa vua tôi đã đơn sai thì tình anh em cũng đoạn tuyệt. Đã lấy sự công phẫn ghi
trong tờ phiếu gài ở đai áo làm trọng, thì cũng phải lấy lời thề chỗ vườn đào làm
khinh. Suy cái nghĩa ấy mà xem, nếu Dực Đức ở vào cảnh bị vây ở núi Thổ Sơn thì
quyết dấn mình vào lưỡi gươm giáo mà chết chứ không khi nào chịu tòng quyền cơ
biến mà ăn cạnh nằm kề với tên giặc họ Tào.
Dực Đức bình sinh rất ghét Lã Bố, coi là kẻ diệt luân tuyệt lí, cho nên hễ trông
thấy mặt là chửi thằng đi ở ba họ. Đối với Tào Tháo cũng ghét và giận như vậy. Ghét
Lã Bố vì không biết đạo cha con, ghét Tào Tháo vì không trọng đạo vua tôi. Coi vậy,
Dực Đức thật đáng khen là bậc hiếu tử và trung thần.
Dực Đức đánh mất Từ Châu mà bị Vân Trường trách mắng. Vân Trường ở nhờ
Hứa Đô mà bị Dực Đức trách mắng, có đem nghĩa lớn trách mắng nhau như vậy mới
là anh em thật tình".

×