BÀI GIẢNG
NHẬP MÔN INTERNET
VÀ E-LEARNING
Biªn so¹n: Ths. NguyÔn Duy Ph−¬ng
Ths. D−¬ng TrÇn §øc
KS. §μo Quang chiÓu
KS. Ph¹m thÞ huÕ
KS. NguyÔn ThÞ Ngäc H©n
0 LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, Internet trở nên gần gũi và quen thuộc với hàng triệu người ở Việt Nam, đặc biệt ở
khu vực thành thị, trong giới trí thức và giới trẻ. Sự tồn tại của Internet đã thay đổi cách thức làm
việc, trao đổi thông tin, kể cả cách học tập, nghiên cứu của nhiều người. Trên phạm vi toàn cầu,
Internet chứa một khối lượng thông tin khổng lồ phân tán ở hàng chục ngàn mạng con thuộc hàng
trăm nước trên thế giới. Các dịch vụ Internet cũng ngày càng trở nên đa dạng và hữu ích hơn. Chính
vì thế, sự hiểu biết về Internet và khả năng sử dụng, khai thác thông tin trên Internet cũng ngày càng
trở nên quan trọng và thiết thực cho mỗi người.
Để triển khai đào tạo hệ đại học từ xa qua mạng tin học- viễn thông, Học viện Công nghệ
Bưu chính Viễn thông đã xây dựng một hệ thống đa dạng các bài giảng trên mạng, các bài giảng
điện tử đa phương tiện, và sử dụng Internet như một trong các phương tiện chính để truyền tải và
tạo môi trường dạy và học cho bậc đại học từ xa. Do đó, Internet đóng một vai trò quan trọng
trong quá trình việc cung cấp học liệu, bài giảng và tổ chức hướng dẫn học tập, trao đổi qua mạng.
Chính vì vậy, việc biên soạn tập sách hướng dẫn học tập môn “Nhập môn Internet và E-
Learning” cho các sinh viên năm thứ nhất nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức và kỹ
năng cơ bản về Internet, cách sử dụng các dịch vụ của Internet để phục vụ cho quá trình tự học, tự
nghiên cứu và trao đổi kiến thức theo hình thức giáo dục từ xa là một việc làm cần thiết. Tài liệu
cũng giới thiệu các kiến thức cơ bản về E-Learning, các khái niệm, các đặc điểm, cấu trúc của hệ
thống cũng như phương pháp và quy trình học E-Learning.
Tài liệu có cấu trúc gồm 3 chương. Chương 1 giới thiệu tổng quan về Internet, các khái
niệm, định nghĩa, kiến trúc chung của mạng Internet. Chương 2 giới thiệu về các dịch vụ trên
Internet, hướng dẫn chi tiết cách sử dụng các dịch vụ. Chương cuối cùng giới thiệu tổng quan về
E-Learning giúp cho sinh viên nắm được các kiến thức về công nghệ đào tạo sử dụng E-learning
mà các cơ sở đào tạo hiện đang sử dụng.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, nội dung chính của tập tài liệu chỉ đề cập đến những vấn đề có
liên quan thiết thực nhất đến việc khai thác, sử dụng Internet cho việc học tập trong môi trường
giáo dục điện tử. Sinh viên có thể tham khảo, nghiên cứu sâu hơn về những nội dung có liên quan
ở những giáo trình, tài liệu và trang Web mà cuối mỗi chương nhóm tác giả đã liệt kê. Sinh viên
cũng có thể nghiên cứu những nội dung của môn học này thông qua việc sử dụng bộ bài giảng
điện tử được đóng gói trong đĩa CD-ROM do Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông
biên soạn.
Mặc dù các tác giả cũng đã có nhiều cố gắng, song do nhiều lý do các thiếu sót còn tồn tài
trong tập tài liệu là điều khó tránh khỏi. Nhóm tác giả xin chân thành chờ đón sự đóng góp ý kiến
của các bạn đồng nghiệp, sinh viên xa gần và xin cảm ơn về điều đó để tập tài liệu ngày càng hoàn
thiện hơn ở những lần xuất bản sau.
Nhóm tác giả
Chương 1: Tổng quan về Internet
0 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ INTERNET
GIỚI THIỆU
Vào những thập kỉ trước, rất ít người trong chúng ta biết về Internet. Cho tới năm 1997, khi
Internet chính thức được đưa vào cung cấp cho người sử dụng ở Việt Nam, thuật ngữ Internet bắt
đầu được nhiều người biết tới, và trở thành một dịch vụ truyền thông hữu ích cho nhiều người.
Ngày nay, Internet trở nên gần gũi và quen thuộc với hàng triệu người ở Việt Nam, đặc biệt
ở khu vực thành thị, trong giới trí thức và giới trẻ. Sự tồn tại của Internet đã thay đổi cách thức
làm việc, trao đổi thông tin, kể cả cách học tập, nghiên cứu của nhiều người. Trên phạm vi toàn
cầu, Internet chứa một khối lượng thông tin khổng lồ phân tán ở hàng chục ngàn mạng con thuộc
hàng trăm nước trên thế giới. Các dịch vụ Internet cũng ngày càng trở nên đa dạng và hữu ích
hơn. Chính vì thế, sự hiểu biết về Internet và khả năng sử dụng, khai thác thông tin trên Internet
cũng ngày càng trở nên quan trọng và thiết thực cho mỗi người.
Trong chương này, chúng ta sẽ cùng từng bước nghiên cứu, tìm hiểu những nội dung cơ bản
nhất, cũng như ứng dụng Internet trong đời sống và công việc, đặc biệt là việc sử dụng Internet
trong trao đổi thông tin, nghiên cứu và học tập.
Nội dung chương này sẽ đề cập đến bao gồm
• Các kiến thức tổng quan về Internet, lịch sử phát triển
• Cấu trúc của Internet, các giao thức trên Internet, v.v…
• Các khái niệm và định nghĩa có liên quan đến Internet, các cách kết nối, các khái niệm
về địa chỉ IP, tên miền,
Để nắm được nội dung của chương này một cách tốt nhất, người đọc cần có một số vốn từ
tiếng Anh cũng như đã biết các thao tác sử dụng máy tính đơn giản.
Cuối chương, người đọc có thể tự đánh giá những kiến thức đã thu lượm được của mình
bằng cách trả lời các câu hỏi và làm một số bài tập.
1.1.
KHÁI QUÁT
1.1.1.
Lịch sử phát triển
Internet được hình thành từ cuối thập kỉ 60 của thế kỷ trước, từ một dự án nghiên cứu của
Bộ quốc phòng Mỹ. Tháng 7 năm 1968, Cơ quan quản lý dự án nghiên cứu cấp cao của Bộ Quốc
phòng Mỹ (ARPA-Advanced Research Project Agency) đã đề nghị liên kết 4 địa điểm: Viện
Nghiên cứu Standford, Trường Đại học tổng hợp California ở LosAngeles, UC - Santa Barbara và
Trường Đại học tổng hợp Utah. Bốn điểm trên được nối thành mạng vào năm 1969 đã đánh dấu
sự ra đời của Internet ngày nay. Mạng này được biết đến dưới cái tên ARPANET.
5
Chương 1: Tổng quan về Internet
ARPANET là một mạng thử nghiệm phục vụ các nghiên cứu quốc phòng. Một trong những
mục đích của nó là xây dựng một mạng máy tính có khả năng khắc phục các sự cố. Mạng máy
tính này có những đặc trưng sau :
• Có thể tiếp tục hoạt động ngay khi có nhiều kết nối bị hư hỏng.
• Phải đảm bảo các máy tính với các phần cứng khác nhau đều có thể sử dụng mạng.
• Có khả năng tự động điều chỉnh hướng truyền thông tin, bỏ qua những phần bị
hư hỏng.
• Có đặc tính là mạng của các mạng máy tính, nghĩa là có khả năng mở rộng liên kết
dễ dàng.
Ban đầu, máy tính và đường liên lạc có khả năng xử lý rất chậm, với đường dây dài thì tốc
độ chuyển tín hiệu nhanh nhất là 50 kbits/giây. Số lượng máy tính nối vào mạng rất ít (chỉ 200
máy chủ vào năm 1981).
ARPANET càng phát triển khi có nhiều máy nối vào - rất nhiều trong số này là từ các cơ
quan của Bộ quốc phòng Mỹ hoặc những trường đại học nghiên cứu với các đầu nối vào Bộ quốc
phòng. Đây là những giao điểm trên mạng. Trong khi ARPANET đang cố gắng chiếm lĩnh mạng
quốc gia thì một nghiên cứu tại Trung tâm nghiên cứu Palo Alto của công ty Xerox đã phát triển
một kỹ thuật được sử dụng trong mạng cục bộ là Ethernet.
Theo thời gian, Ethernet trở thành một trong những chuẩn quan trọng để kết nối trong các
mạng cục bộ. Cũng trong thời gian này, DARPA (đặt lại tên từ ARPA) chuyển sang hợp nhất
TCP/IP (giao thức được sử dụng trong việc truyền thông trên Internet) vào phiên bản hệ điều hành
UNIX của trường đại học tổng hợp California ở Berkeley. Với sự hợp nhất như vậy, những trạm
làm việc độc lập sử dụng UNIX đã tạo nên một thế mạnh trên thị trường, TCP/IP cũng có thể dễ
dàng tích hợp vào phần mềm hệ điều hành. TCP/IP trên Ethernet đã trở thành một cách thức thông
dụng để trạm làm việc nối đến trạm khác.
Trong thập kỷ 1980, máy tính cá nhân được sử dụng rộng rãi trong các công ty và trường
Đại học trên thế giới. Mạng Ethernet kết nối các máy tính cá nhân (PC) trở thành phổ biến. Các
nhà sản xuất phần mềm thương mại cũng đưa ra những chương trình cho phép các máy PC và
máy UNIX giao tiếp cùng một ngôn ngữ trên mạng.
Vào giữa thập kỷ 1980, giao thức TCP/IP được dùng trong một số kết nối khu vực-khu vực
(liên khu vực) và cũng được sử dụng cho các mạng cục bộ và mạng liên khu vực.
Thuật ngữ "Internet" xuất hiện lần đầu vào khoảng 1974 trong khi mạng vẫn được gọi là
ARPANET. Vào thời điểm này, ARPANET (hay Internet) còn ở qui mô rất nhỏ.
Mốc lịch sử quan trọng của Internet được chọn vào giữa thập kỷ 1980, khi Quỹ khoa học
quốc gia Mỹ NSF (National Science Foundation) thành lập mạng liên kết các trung tâm máy tính
lớn với nhau gọi là NSFNET. Mạng này chính là mạng Internet. Điểm quan trọng của NSFNET là
cho phép mọi người cùng sử dụng. Trước NSFNET, chỉ các nhà khoa học, chuyên gia máy tính và
nhân viên các cơ quan chính phủ được kết nối Internet.
Nhiều doanh nghiệp đã chuyển từ ARPANET sang NSFNET. Chính vì vậy, sau gần 20 năm
ARPANET trở nên không còn hiệu quả và đã ngừng hoạt động vào khoảng năm 1990.
6
Chương 1: Tổng quan về Internet
Ngày nay, mạng Internet phát triển mạnh mẽ hơn các phương tiện truyền thông truyền
thống khác như phát thanh và truyền hình, do sự cải tiến và phát triển không ngừng. Các công
nghệ đang áp dụng trên Internet giúp cho Internet trở thành mạng liên kết vô số kho thông tin toàn
cầu, có dịch vụ phong phú về nội dung, hình thức. Đó cũng chính là điều thúc đẩy chúng ta nên
bắt đầu ngay với hành trình khám phá thế giới mới - thế giới Internet.
11 triệu máy tính kết nối
NSFNET thay thế ARPANET
ARPANET sử dụng bộ giao thức TCP/IP
ARPANET được thành lập
1
1
9
9
6
6
9
9
1
1
9
9
8
8
3
3
1
1
9
9
8
8
6
6
1
1
9
9
9
9
6
6
Hình 1.1: Sơ đồ lịch sử phát triển Internet
2
2
0
0
0
0
4
4
800 triệu máy tính
kết nối
1.1.2.
Internet là gì ?
Internet (Inter-network) là một mạng máy tính rất rộng lớn kết nối các mạng máy tính khác
nhau nằm rải rộng khắp toàn cầu. Một mạng (Network) là một nhóm máy tính kết nối nhau, các
mạng này lại liên kết với nhau bằng nhiều loại phương tiện, tốc độ truyền tin khác nhau. Do vậy
có thể nói Internet là mạng của các mạng máy tính. Các mạng liên kết với nhau dựa trên bộ giao
thức (như là ngôn ngữ giao tiếp) TCP/IP (Transmision Control Protocol
- Internet Protocol): Giao
thức điều khiển truyền dẫn- giao thức Internet. Bộ giao thức này cho phép mọi máy tính liên kết,
giao tiếp với nhau theo một ngôn ngữ máy tính thống nhất giống như một ngôn ngữ quốc tế (ví dụ
như Tiếng Anh) mà mọi người sử dụng để giao tiếp.
Mạng Internet không chỉ cho phép chuyển tải thông tin nhanh chóng mà còn giúp cung cấp
thông tin. Nó cũng là diễn đàn trao đổi và là thư viện toàn cầu đầu tiên.
1.1.2.1. Cấu trúc mạng Internet
Internet là một liên mạng, tức là mạng của các mạng con. Để kết nối hai mạng con với
nhau, có hai vấn đề cần giải quyết :
- Vấn đề thứ nhất: Về mặt vật lý, hai mạng con chỉ có thể kết nối với nhau khi có một thiết
bị có thể kết nối với cả hai mạng này. Việc kết nối đơn thuần về vật lý chưa thể làm cho hai mạng
con có thể trao đổi thông tin với nhau.
- Vấn đề thứ hai: Thiết bị kết nối được về mặt vật lý với hai mạng con phải hiểu được cả hai
giao thức truyền tin được sử dụng trên hai mạng con này và các gói thông tin của hai mạng con sẽ
được gửi qua nhau thông qua thiết bị đó. Thiết bị này được gọi là cổng nối Internet (Internet
Gateway) hay Bộ định tuyến (Router).
7
Chương 1: Tổng quan về Internet
Hình 1.2: Hai mạng Net 1 và Net 2 kết nối thông qua Router R.
Khi kết nối mạng đã trở nên phức tạp hơn, các Router cần phải biết về sơ đồ kiến trúc của
các mạng kết nối.
Ví dụ trong hình sau đây cho thấy nhiều mạng được kết nối bằng 2 Router.
Hình 1.3: 3 Mạng kết nối với nhau thông qua 2 router
Như vậy, Router R1 phải chuyển tất cả các gói thông tin đến một máy nằm ở mạng Net 2
hoặc Net 3. Với kích thước lớn như mạng Internet, việc các Router quyết định chuyển các gói
thông tin cho các máy trong các mạng sẽ trở nên phức tạp hơn.
Để các Router có thể thực hiện được công việc chuyển một số lớn các gói thông tin thuộc
các mạng khác nhau, người ta đề ra quy tắc là: các Router chuyển các gói thông tin dựa trên địa
chỉ mạng nơi đến, chứ không phải dựa trên địa chỉ của máy nhận. Như vậy, dựa trên địa chỉ mạng
nên tổng số thông tin mà Router phải lưu giữ về sơ đồ kiến trúc mạng sẽ tuân theo số mạng trên
Internet chứ không phải là số máy trên Internet.
Trên Internet, tất cả các mạng đều có quyền bình đẳng cho dù chúng có tổ chức hay số
lượng máy có sự khác nhau. Bộ giao thức TCP/IP của Internet hoạt động tuân theo quan điểm sau:
tất các các mạng con trong Internet như là Ethernet, một mạng diện rộng như NSFNET Backbone
hay một liên kết điểm-điểm giữa hai máy duy nhất đều được coi như là một mạng. Điều này xuất
phát từ quan điểm đầu tiên khi thiết kế giao thức TCP/IP là có thể liên kết giữa các mạng có kiến
trúc hoàn toàn khác nhau. Khái niệm "mạng" đối với TCP/IP bị ẩn đi phần kiến trúc vật lý của
mạng. Đây chính là điểm giúp cho TCP/IP trở lên rất mạnh. Như vậy, người dùng trong Internet
hình dung Internet là một mạng thống nhất và bất kỳ hai máy nào trên Internet đều được nối với
nhau thông qua một mạng duy nhất.
Hình sau mô tả kiến trúc tổng thể của Internet.
8
Chương 1: Tổng quan về Internet
Các máy được nối với nhau thông qua một mạng duy nhất.
(a) Mạng Internet dưới con mắt người sử dụng.
Máy
chủ
Mạng
v
ậ
t l
ý
Máy
chủ
(b) Kiến trúc tổng quát của mạng Internet.
Các RRouter cung cấp các kết nối giữa các mạng.
Hình 1.4: Kiến trúc tổng thể của Internet
9
Chương 1: Tổng quan về Internet
1.1.2.2. Giới thiệu các giao thức kết nối mạng
a) Đặc điểm một số bộ giao thức kết nối mạng :
¾ NetBEUI
- Bộ giao thức nhỏ, nhanh và hiệu quả được cung cấp theo các sản phẩm của hãng IBM,
cũng như sự hỗ trợ của Microsoft.
- Bất lợi chính của bộ giao thức này là không hỗ trợ định tuyến và sử dụng giới hạn ở mạng
dựa vào Microsoft.
¾ IPX/SPX
- Đây là bộ giao thức sử dụng trong mạng Novell.
- Ưu thế: nhỏ, nhanh và hiệu quả trên các mạng cục bộ đồng thời hỗ trợ khả năng định
tuyến.
¾ DECnet
- Đây là bộ giao thức độc quyền của hãng Digtal Equipment Corpration.
- DECnet định nghĩa mô tả truyền thông qua mạng cục bộ LAN, mạng MAN (mạng đô thị),
WAN (mạng diện rộng). Giao thức này có khả năng hỗ trợ định tuyến.
¾ TCP/IP
- Ưu thế chính của bộ giao thức này là khả năng liên kết hoạt động của nhiều loại máy tính
khác nhau.
- TCP/IP đã trở thành tiêu chuẩn thực tế cho kết nối liên mạng cũng như kết nối Internet
toàn cầu.
Hiện nay, TCP/IP được sử dụng rộng rãi trong các mạng cục bộ cũng như trên mạng
Internet. Vì vậy chúng ta sẽ tìm hiểu tổng quan về bộ giao thức TCP/IP.
b) TCP/IP- ( Transmission Control Protocol / Internet Protocol): Là một tập hợp các giao
thức kết nối sử dụng cho việc truyền thông tin từ máy tính này sang máy tính khác và từ mạng
máy tính này sang mạng máy tính khác.
Một máy tính tương tác với thế giới thông qua một hoặc nhiều ứng dụng. Những ứng dụng
này thực hiện các nhiệm vụ cụ thể và quản lý dữ liệu vào-ra. Nếu máy tính đó là một phần của hệ
thống mạng thì một trong số các ứng dụng trên sẽ có thể giao tiếp với các ứng dụng trên các máy
tính khác thuộc cùng hệ thống mạng. Bộ giao thức mạng là một hệ thống các quy định chung giúp
xác định quá trình truyền dữ liệu phức tạp. Dữ liệu đi từ ứng dụng trên máy này, qua phần cứng
về mạng của máy, tới bộ phận trung gian và đến nơi nhận, thông qua phần cứng của máy tính đích
rồi tới ứng dụng.
Các giao thức TCP/IP có vai trò xác định quá trình liên lạc trong mạng và quan trọng hơn
cả là định nghĩa “hình dáng” của một đơn vị dữ liệu và những thông tin chứa trong nó để máy tính
đích có thể dịch thông tin một cách chính xác. TCP/IP và các giao thức liên quan tạo ra một hệ
10
Chương 1: Tổng quan về Internet
thống hoàn chỉnh giúp quản lý quá trình dữ liệu được xử lý, chuyển và nhận trên một mạng
sử dụng TCP/IP. Một hệ thống các giao thức liên quan, chẳng hạn như TCP/IP, được gọi là bộ
giao thức.
Thực tế của quá trình định dạng và xử lý dữ liệu bằng TCP/IP được thực hiện bằng bộ lọc
của các hãng sản xuất. Ví dụ, Microsoft TCP/IP là một phần mềm cho phép Windows NT xử lý
các dữ liệu được định dạng (format) theo TCP/IP và vì thế có thể hoà vào mạng TCP/IP. Tuy
nhiên có sự khác biệt giữa các chuẩn TCP/IP như sau :
• Một chuẩn TCP/IP là một hệ thống các quy định quản lý việc trao đổi trên các mạng
TCP/IP.
• Bộ lọc TCP/IP là một phần mềm có chức năng cho phép một máy tính hoà vào mạng
TCP/IP.
• Mục đích của các chuẩn TCP/IP là nhằm đảm bảo tính tương thích của tất cả bộ lọc
TCP/IP thuộc bất kỳ phiên bản nào hoặc của bất kỳ hãng sản xuất nào.
• Một hệ thống giao thức như TCP/IP phải đảm bảo khả năng thực hiện những công việc
sau:
o Cắt thông tin thành những gói dữ liệu để có thể dễ dàng đi qua bộ phận truyền
tải trung gian.
o Tương tác với phần cứng của card mạng.
o Xác định địa chỉ nguồn và đích: máy tính gửi thông tin đi phải có thể xác định
được nơi gửi đến. Máy tính đích phải nhận ra đâu là thông tin gửi cho mình.
o Định tuyến: hệ thống phải có khả năng hướng dữ liệu tới các mạng con, cho
dù mạng con nguồn và đích khác nhau về mặt vật lý.
o Kiểm tra lỗi, kiểm soát đường truyền và xác nhận: đối với một phương tiện
truyền thông tin cậy, máy tính gửi và nhận phải xác định và có thể sửa chữa
lỗi trong quá trình vận chuyển dữ liệu.
o Chấp nhận dữ liệu từ ứng dụng và truyền nó tới mạng đích. Để có thể thực
hiện các công việc trên, những người sáng tạo ra TCP/IP đã chia nó thành
những phần riêng biệt, hoạt động độc lập với nhau. Mỗi thành phần đảm
nhiệm một chức năng riêng biệt trong hệ thống mạng.
TCP/IP bao gồm bốn tầng như sau :
•
Tầng truy cập mạng (Network Access Layer)- Là tầng thấp nhất trong mô hình
TCP/IP, bao gồm các thiết bị giao tiếp mạng và chương trình cung cấp các thông tin cần thiết để
có thể hoạt động, truy cập đường truyền vật lý qua thiết bị giao tiếp mạng đó.
•
Tầng liên mạng (Internet Layer)- Cung cấp địa chỉ logic, độc lập với phần cứng, để dữ
liệu có thể lướt qua các mạng con có cấu trúc vật lý khác nhau. Cung cấp chức năng định tuyến để
giảm lưu lượng giao thông và hỗ trợ việc vận chuyển liên mạng. Thuật ngữ liên mạng được dùng
11
Chương 1: Tổng quan về Internet
để đề cập đến các mạng rộng lớn hơn, kết nối từ nhiều LAN. Tạo sự gắn kết giữa địa chỉ vật lý và
địa chỉ logic. Các giao thức của tầng này bao gồm: IP (Internet Protocol), ICMP (Internet Coltrol
Message Protocol), IGMP (Internet Group Message Protocol).
•
Tầng giao vận (Transport Layer) - Giúp kiểm soát luồng dữ liệu, kiểm tra lỗi và xác
nhận các dịch vụ cho liên mạng. Tầng này đóng vai trò giao diện cho các ứng dụng mạng. Tầng
này có hai giao thức chính: TCP (Transmisson Control Protocol) và UDP (User Datagram
Protocol).
•
Tầng ứng dụng (Application Layer) - Là tầng trên cùng của mô hình TCP/IP. Cung
cấp các ứng dụng để giải quyết sự cố mạng, vận chuyển file, điều khiển từ xa, và các hoạt động
Internet, đồng thời hỗ trợ Giao diện Lập trình Ứng dụng (API) mạng, cho phép các chương trình
được thiết kế cho một hệ điều hành nào đó có thể truy cập mạng.
c) Mô hình OSI (Open Systems Interconnection): là tập hợp các đặc điểm kỹ thuật mô tả
kiến trúc mạng dành cho việc kết nối các thiết bị không cùng chủng loại. Mô hình được chia thành
7 tầng. Mỗi tầng bao gồm những hoạt động, thiết bị và giao thức mạng khác nhau.
Chức năng chính của bảy tầng trong mô hình OSI như sau:
• Tầng vật lý (Physical Layer) Chuyển đổi dữ liệu sang các dòng xung điện, đi qua bộ
phận truyền tải trung gian và giám sát quá trình truyền dữ liệu.
•
Tầng liên kết dữ liệu (Data Link Layer) Cung cấp giao diện cho bộ điều hợp mạng,
duy trì kết nối logic cho mạng con.
•
Tầng mạng (Network Layer) Hỗ trợ địa chỉ logic và định tuyến.
•
Tầng giao vận (Transport Layer) Kiểm tra lỗi và kiểm soát việc lưu chuyển liên mạng.
•
Tầng phiên (Session Layer) Thiết lập các khu vực cho các ứng dụng tương tác giữa các
máy tính.
•
Tầng trình diễn (Presentation Layer) Dịch dữ liệu sang một dạng tiêu chuẩn, quản lý
việc mã hoá và nén dữ liệu.
• Tầng ứng dụng (Application Layer) Cung cấp giao diện cho các ứng dụng; hỗ trợ ứng
dụng gửi file, truyền thông…
TCP/IP với OSI :
Khi kiến trúc tiêu chuẩn OSI xuất hiện thì TCP/IP đã trên con đường phát triển. Xét một
cách chặt chẽ, TCP/IP không tuân theo OSI. Tuy nhiên, hai mô hình này có những mục tiêu giống
nhau và do có sự tương tác giữa các nhà thiết kế tiêu chuẩn nên hai mô hình có những điểm tương
thích. Cũng chính vì thế, các thuật ngữ của OSI thường được áp dụng cho TCP/IP.
Mỗi tầng trong TCP/IP có thể là một hay nhiều tầng của OSI. Mối quan hệ giữa chuẩn
TCP/IP bốn tầng và mô hình OSI bảy tầng được thể hiện như ở trong hình sau.
12
Chương 1: Tổng quan về Internet
Mô hình OSI TCP/IP
Hình 1.5: Mối quan hệ giữa OSI và TCP/IP
1.1.3. Các nhà cung cấp dịch vụ Internet
• ISP (Internet Service Provider) - Nhà cung cấp dịch vụ Internet.
Nhà cung cấp dịch vụ Internet cấp quyền truy cập Internet qua mạng viễn thông và các
dịch vụ như: Email, Web, FTP, Telnet, Chat. ISP được cấp cổng truy cập vào Internet bởi IAP.
Hiện tại ở Việt Nam có 16 ISP đăng ký cung cấp dịch vụ, trong đó có các ISP đã chính thức
cung cấp dịch vụ là: Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Công ty đầu tư phát
triển công nghệ FPT, Công ty Netnam - Viện công nghệ thông tin, Công ty điện tử viễn thông
quân đội (Viettel), Công ty cổ phần dịch vụ Internet (OCI), Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính
Viễn thông Sài Gòn (SPT), Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội (HANOITELECOM).
• IAP (Internet Access Provider) - Nhà cung cấp dịch vụ đường truyền để kết nối với
Internet (còn gọi là IXP-Internet Exchange Provider).
Nếu hiểu Internet như một siêu xa lộ thông tin thì IAP là nhà cung cấp phương tiện để đưa
người dùng vào xa lộ. Nói cách khác IAP là kết nối người dùng trực tiếp với Internet. IAP có thể
thực hiện cả chức năng của ISP nhưng ngược lại thì không. Một IAP thường phục vụ cho nhiều
ISP khác nhau.
Các IXP (IAP) tại Việt nam bao gồm: Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam
(VNPT), Công ty đầu tư phát triển công nghệ FPT, Công ty điện tử viễn thông quân đội (Viettel),
Công ty viễn thông điện lực (ETC), Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn
(SPT), Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội (HANOITELECOM).
13
Chương 1: Tổng quan về Internet
• ISP dùng riêng
ISP dùng riêng được quyền cung cấp đầy đủ dịch vụ Internet. Điều khác nhau duy nhất giữa
ISP và ISP dùng riêng là ISP dùng riêng không cung cấp dịch vụ Internet với mục đích kinh
doanh. Đây là loại hình dịch vụ Internet của các cơ quan hành chính, các trường đại học hay viện
nghiên cứu.
• ICP (Internet Content Provider) - Nhà cung cấp dịch vụ nội dung thông tin Internet.
ICP cung cấp các thông tin về: kinh tế, giáo dục, thể thao, chính trị, quân sự (thường xuyên
cập nhật thông tin mới theo định kỳ) đưa lên mạng.
• OSP (Online Service Provider) - Nhà cung dịch vụ ứng dụng Internet.
OSP cung cấp các dịch vụ trên cơ sở ứng dụng Internet (OSP) như: mua bán qua mạng, giao
dịch ngân hàng, tư vấn, đào tạo,….
• USER - Người sử dụng Internet.
Người sử dụng dịch vụ Internet là tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ Internet thông qua nhà
cung cấp dịch vụ Internet (ISP).
Người sử dụng cần thoả thuận với một ISP hay một ISP dùng riêng nào đó về các dịch vụ
Internet được sử dụng và cách thức thanh toán.
Hiện nay có hai cách kết nối phổ biến cho người dùng:
- Kết nối trực tiếp đến đến nhà cung cấp dịch vụ qua đường điện thoại,
- Kết nối thông qua mạng cục bộ đã có nối kết Internet.
Hình 1.6: Các phương thức kết nối Internet phổ biến.
14
Chương 1: Tổng quan về Internet
Mối liên quan giữa các IAP-ISP-ICP- USER được mô tả tổng quát theo sơ đồ sau:
Hình 1.7: Mối liên quan giữa các IAP-ISP-ICP- USER
Leased line: Kênh
thuê riêng
PSTN: Mạng điệ
n
thoại công cộng
Leased line
Leased line
Leased line
Modem
USER
1.2. KHÁI NIỆM VÀ ĐỊNH NGHĨA
1.2.1.
Các phương thức kết nối
Có nhiều phương thức kết nối một máy tính với Internet. Các phương thức này khác nhau
tuỳ theo kiểu của hệ thống máy tính đang được sử dụng.
¾ Kết nối trực tiếp
Trong kết nối trực tiếp, các chương trình Internet chạy trên máy tính cục bộ, và máy tính
này sử dụng các giao thức TCP/IP để trao đổi dữ liệu với một máy tính khác thông qua Internet.
Dạng kết nối này là một tuỳ chọn dành cho một máy tính độc lập vốn không kết nối tới Internet
thông qua một nhà cung cấp dịch vụ Internet. Hiện nay, các kết nối trực tiếp ít phổ biến.
¾ Kết
nối thiết bị cuối ở xa
Một kết nối thiết bị cuối ở xa tới Internet sẽ trao đổi các lệnh và các dữ liệu ở định dạng
văn bản ASCII với một máy tính chủ sử dụng UNIX hoặc một hệ điều hành tương tự. Các chương
trình ứng dụng TCP/ IP và các giao thức TCP/IP đều chạy trên máy chủ. Kiểu kết nối này hoạt
động được đối với một số kiểu máy tính độc lập, nhưng không phổ biến.
15
Chương 1: Tổng quan về Internet
¾ Kết nối cổng nối
Một mạng cục bộ không sử dụng các lệnh và các giao thức TCP/IP, nó vẫn có thể cung cấp
một số dịch vụ Internet, chẳng hạn như thư điện tử hoặc truyền tập tin. Các mạng như vậy sử dụng
các cổng nối để chuyển đổi các lệnh, dữ liệu từ định dạng TCP/IP.
¾
Kết nối thông qua một LAN ( mạng cục bộ)
Khi một LAN có một kết nối Internet, kết nối đó mở rộng tới mọi máy tính trên LAN. Dạng
kết nối này thường được các tổ chức kinh doanh sử dụng để cung cấp khả năng truy cập Internet
cho những người dùng của LAN.
¾
Kết nối thông qua một Modem
Nếu không có LAN tại chỗ, một máy tính có thể kết nối tới Internet thông qua một cổng
truyền thông dữ liệu và một Modem. Các nhà cung cấp dịch vụ (ISP) cung cấp các dịch vụ kiểu
này cho những người dùng gia đình và các tổ chức kinh doanh muốn kết nối tới Internet.
Đa số những người dùng riêng lẻ đều kết nối tới Internet bằng cách sử dụng một đường dây
điện thoại, một modem và một tài khoản (account). Khi đó, tuỳ thuộc vào nhà cung cấp dịch vụ,
máy tính của khách hàng có thể được gán một địa chỉ IP cố định, hoặc địa chỉ IP của nó và có thể
thay đổi mỗi lần khách hàng đăng nhập vào máy phục vụ của ISP.
1.2.2.
Địa chỉ IP và tên miền
1.2.2.1. Địa chỉ IP
Các máy tính trên Internet phải làm việc với nhau theo giao thức chuẩn TCP/IP nên đòi hỏi
phải có địa chỉ IP và địa chỉ này tồn tại duy nhất trong mạng. Cấu trúc của địa chỉ IP bao gồm 32
bit và được chia thành 4 nhóm; các nhóm cách nhau bởi dấu chấm (.), mỗi nhóm gồm 3 chữ số có
giá trị 0 đến 255:
xxx.xxx.xxx.xxx. Ví dụ: 206.25.128.123
Địa chỉ IP đang được sử dụng hiện tại là (IPv4) có 32 bit. Hiện nay một số quốc gia đã đưa
vào sử dụng địa chỉ IPv6 nhằm mở rộng không gian địa chỉ và những ứng dụng mới, Ipv6 bao
gồm 128 bit dài gấp 4 lần của IPv4. Version IPv4 có khả nǎng cung cấp 2
32
= 4 294 967 296 địa
chỉ. Còn Version IPv6 có khả nǎng cung cấp tới 2
128
địa chỉ.
Hiện nay địa chỉ IP được một tổ chức phi chính phủ - InterNIC ( Internet Network Center)
cung cấp để đảm bảo không có máy tính kết nối Internet nào bị trùng địa chỉ.
()
1.2.2.2. Tên miền
Người sử dụng sẽ khó nhớ được địa chỉ IP dẫn đến việc sử dụng dịch vụ từ một máy tính
nào đó là rất khó khǎn vì thế hệ thống DNS (Domain Name System - DNS) được giới thiệu ở
phần tiếp theo) sẽ gán cho mỗi địa chỉ IP một cái tên tương ứng mang một ý nghĩa nào đó, dễ nhớ
cho người sử dụng mà thuật ngữ Internet gọi là tên miền.
16
Chương 1: Tổng quan về Internet
Ví dụ: Máy chủ Web Server của VNNIC có địa chỉ là 203.162.57.101, tên miền của nó là
www.vnnic.net.vn. Thực tế người sử dụng không cần biết đến địa chỉ IP mà chỉ cần nhớ tên miền
này là truy cập được.
Như vậy, tên miền là một sự nhận dạng vị trí của một máy tính trên mạng Internet. Nói cách
khác, tên miền là tên của các mạng lưới, tên của các máy chủ trên mạng Internet. Mỗi địa chỉ dạng
chữ này luôn tương ứng với một địa chỉ IP dạng số.
a) Giới thiệu về hệ thống quản lý tên miền (Domain Name System-DNS)
Mỗi máy tính khi kết nối vào mạng Internet thì được gán cho một địa chỉ IP xác định. Địa
chỉ IP của mỗi máy là duy nhất và giúp máy tính xác định đường đi đến một máy tính khác một
cách dễ dàng. Hệ thống DNS ra đời nhằm giúp chuyển đổi từ địa chỉ IP khó nhớ mà máy sử dụng
sang một tên dễ nhớ cho người sử dụng, đồng thời giúp hệ thống Internet ngày càng phát triển.
Hệ thống DNS sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu phân tán và phân cấp hình cây. Vì vậy, việc
quản lý sẽ dễ dàng và thuận tiện cho việc chuyển đổi từ tên miền sang địa chỉ IP và ngược lại. Hệ
thống DNS giống như mô hình quản lý công dân của một nước. Mỗi công dân sẽ có một tên xác
định đồng thời cũng có địa chỉ chứng minh thư để giúp quản lý con người một cách dễ dàng hơn.
- Mỗi công dân đều có số căn cước để quản lý, ví dụ: Ông Nguyễn Văn A có chứng minh
thư: 111200765.
- Mỗi một địa chỉ IP tương ứng với tên miền, ví dụ: trang chủ của nhà cung cấp dịch vụ ISP
lớn nhất Việt Nam hiện tại là VDC có tên miền là: home.vnn.vn , tương ứng với địa chỉ IP là:
203.162.0.12.
b) Hoạt động của hệ thống DNS :
Giả sử người sử dụng muốn truy cập vào trang web có địa chỉ là
Tiến trình hoạt động của DNS như sau:
• Trước hết chương trình trên máy người sử dụng gửi yêu cầu tìm kiếm địa chỉ IP ứng với
tên miền www.google.com tới máy chủ quản lý tên miền (Name Server) cục bộ thuộc mạng của
nó (ISP DNS Server).
• Máy chủ quản lý tên miền cục bộ này kiểm tra trong cơ sở dữ liệu của nó xem có chứa
cơ sở dữ liệu chuyển đổi từ tên miền sang địa chỉ IP của tên miền mà người sử dụng yêu cầu
không. Trong trường hợp máy chủ quản lý tên miền cục bộ có cơ sở dữ liệu này, nó sẽ gửi trả lại
địa chỉ IP của máy có tên miền nói trên (
www.google.com)
• Trong trường hợp máy chủ quản lý tên miền cục bộ không có cơ sở dữ liệu về tên miền
này, nó thường hỏi lên các máy chủ quản lý tên miền ở cấp cao nhất (máy chủ quản lý tên miền
làm việc ở mức Root). Máy chủ quản lý tên miền ở mức Root này sẽ trả về cho máy chủ quản lý
tên miền cục bộ địa chỉ của máy chủ tên miền quản lý các tên miền có đuôi .com.
• Máy chủ quản lý tên miền cục bộ gửi yêu cầu đến máy chủ quản lý tên miền có đuôi
(.com) tìm tên miền www.google.com. Máy chủ quản lý tên miền quản lý các tên miền.com sẽ gửi
lại địa chỉ của máy chủ quản lý tên miền google.com.
17
Chương 1: Tổng quan về Internet
• Máy chủ quản lý tên miền cục bộ sẽ hỏi máy chủ quản lý tên miền google.com này địa
chỉ IP của tên miền www.google.com. Do máy chủ quản lý tên miền google.com có cơ sở dữ liệu
về tên miền www.google.com nên địa chỉ IP của tên miền này sẽ được gửi trả lại cho máy chủ
quản lý tên miền cục bộ.
• Máy chủ tên miền cục bộ chuyển thông tin tìm được đến máy của người sử dụng.
• Máy tính của người dùng sẽ sử dụng địa chỉ IP này để mở một phiên kết nối TCP/IP đến
máy chủ chứa trang web có địa chỉ
Tổ chức Hệ thống DNS theo sự phân cấp tên miền trên Internet được cho ở hình dưới đây.
c) Cấu tạo tên miền (Domain Name): Để quản lý các máy đặt tại những vị trí vật lý khác
nhau trên hệ thống mạng nhưng thuộc cùng một tổ chức, cùng lĩnh vực hoạt động… người ta
nhóm các máy này vào một tên miền (Domain). Trong miền này nếu có những tổ chức nhỏ hơn,
lĩnh vực hoạt động hẹp hơn… thì được chia thành các miền con (Sub Domain). Tên miền dùng
dấu chấm (.) làm dấu phân cách. Cấu trúc miền và các miền con giống như một cây phân cấp.
Ví dụ www.home.vnn.vn là tên miền máy chủ web của VNNIC. Thành phần thứ nhất
‘www‘ là tên của máy chủ, thành phần thứ hai ‘home‘ thường gọi là tên miền cấp 3 (Third Level
Domain Name), thành phần thứ ba ‘vnn‘ gọi là tên miền mức 2 (Second Level Domain Name)
Domain com.vn
Domain sieuthi.com.vn la
domain con của com.vn
khác
Hình 1.8: Tổ chức của hệ thống quản lý tên miền
18
Chương 1: Tổng quan về Internet
thành phần cuối cùng ‘vn‘ là tên miền mức cao nhất (ccTLD - Country Code Top Level Domain
Name).
Hình ảnh mô tả sự phân cấp của tên miền
www. yahoo.com 204.23.43.121 -> địa chỉ IP Æ
tên miền
Cấp cao nhất :
Phân loại theo tổ chức
Gov edu mil com org net int vn
Theo vùng địa lý
msn
yahoo
investor onsale
fpt
vnn
edu
vnu
Hình 1.9: Sự phân cấp của tên miền
Qui tắc đặt tên miền:
Tên miền nên được đặt đơn giản và có tính chất gợi nhớ, phù hợp với mục đích và phạm vi
hoạt động của tổ chức, cá nhân sỡ hữu tên miền.
Mỗi tên miền được có tối đa 63 ký tự bao gồm cả dấu “.”. Tên miền được đặt bằng các chữ
số và chữ cái (a-z A-Z 0-9) và ký tự “-“.
Một tên miền đầy đủ có chiều dài không vượt quá 255 ký tự
19
Chương 1: Tổng quan về Internet
Dưới đây là các tên miền thông dụng :
Domain Mô tả
com Các tổ chức thương mại, doanh nghiệp (Commercial)
edu Các tổ chức giáo dục ( Education)
gov Các tổ chức chính phủ (Government)
int Các tổ chức Quốc tế (International Organisations)
mil Các tổ chức quân sự (Military)
net Một mạng không thuộc các loại phân vùng khác (Network)
org Các tổ chức không thuộc một trong các loại trên (Other orgnizations)
Ngoài ra, mỗi Quốc gia còn có một miền gồm hai ký tự. Ví dụ: “vn” (Việt Nam), “us”
(Mỹ), “ca” (Canada)…
Bảng sau là các ký hiệu tên vùng của một số nước trên thế giới:
Domain Quốc gia tương ứng
at Áo
be Bỉ
ca Canada
fi Phần Lan
fr Pháp
de CHLB Đức
il Israel
it Italia
jp Nhật
vn Việt Nam
* Chi tiết hơn tham khảo tại Website: http:www.iana.org/cctld/cctld-whois.htm
1.2.3. Web và HTML
1.2.3.1. Web
World Wide Web (gọi tắt là Web hay WWW): là mạng lưới nguồn thông tin cho phép khai
thác thông qua một số công cụ, chương trình hoạt động dưới các giao thức mạng.
WWW là công cụ, phương tiện, hay đúng hơn là một dịch vụ của Internet.
Một tài liệu siêu văn bản - được gọi phổ biến hơn là một trang web -, là một tập tin được mã
hoá đặc biệt, sử dụng ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản -HTML (HyperText Markup Languages).
20
Chương 1: Tổng quan về Internet
Ngôn ngữ này cho phép tác giả của một tài liệu nhúng các liên kết siêu văn bản (còn được gọi là
các siêu liên kết -hyperlink) vào trong tài liệu. Các liên kết siêu văn bản là nền móng của World
Wide Web.
Khi đọc một trang web, có thể nhấp chuột vào một từ hay một hình ảnh được mã hoá như
một liên kết siêu văn bản và sẽ lập tức chuyển tới một vị trí khác nằm bên trong tài liệu đó hoặc
tới một trang Web khác. Trang thứ hai có thể nằm trên cùng máy tính với trang đầu, hoặc có thể
nằm bất kì nơi nào trên Internet.
Một tập hợp các trang Web có liên quan được gọi là WebSite. Mỗi WebSite được lưu trữ
trên trên một máy phục vụ Web, vốn là các máy chủ Internet lưu trữ hàng ngàn trang Web riêng
lẻ. Việc sao chép một trang lên một Web Server được gọi là tải (hoặc nạp) lên (uploading) hay
công bố ( publishing).
Hình 1.10: Hình ảnh của 1 trang Web
Web cung cấp thông tin rất đa dạng bao gồm văn bản, hình ảnh, âm thanh, video. Hiện nay
các trang Web sử dụng để phân phối tin tức, các dịch vụ giáo dục, thông tin, danh mục sản phẩm,
cùng nhiều thứ khác. Các trang Web tương tác cho phép các độc giả tra cứu cơ sở dữ liệu, đặt
hàng các sản phẩm và các thông tin, gửi số tiền thanh toán bằng thẻ tín dụng …
Web là một phần của Internet, là một loại dịch vụ đối với những người truy cập tài nguyên
của Internet. Dưới đây là một hình ảnh của một trang Web :
Các trình duyệt Web
Một trình duyệt Web là một phần mềm ứng dụng được thiết kế để tìm các tài liệu siêu văn
bản trên Web rồi mở các tài liệu đó trên máy tính người sử dụng. Hiện nay, các trình duyệt thông
21
Chương 1: Tổng quan về Internet
Hình 1.11: Hình ảnh của cửa sổ trình duyệt Internet Explorer
Hình 1.12: Hình ảnh của cửa sổ trình duyệt Netscape Navigator.
22
Chương 1: Tổng quan về Internet
Ngôn ngữ của WWW được gọi là gọi là ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản - HTML. Vì vậy,
chúng ta cần tìm hiểu HTML là gì và học cách sử dụng các thẻ (tag) của HTML trong phần
tiếp theo.
1.2.3.2. Giới thiệu về HTML
• HTML - Hyper Text Markup Language : ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản
HTML cho phép tạo các trang Web phối hợp hài hoà văn bản thông thường với hình ảnh âm
thanh, video, các mối liên kết đến các trang siêu văn bản khác …
Tên gọi ngôn ngữ đánh dấu siêu dấu siêu văn bản phản ánh thực chất của công cụ này. Các
thuật ngữ đó có thể được hiểu như sau:
- Hyper - (siêu): HTML cho phép liên kết nhiều trang văn bản rải rác khắp nơi trên
Internet. Nó có tác dụng che dấu sự phức tạp của Internet đối với người sử dụng. Người dùng
Internet có thể đọc văn bản mà không cần biết đến văn bản đó đang nằm ở đâu, hệ thống được
xây dựng phức tạp như thế nào. HTML đã thực sự vượt ra khỏi khuôn khổ khái niệm “văn bản”
kinh điển.
- Text –văn bản: HTML đầu tiên và trước hết là để trình bày văn bản và dựa trên nền tảng
là một văn bản.
- Language - Ngôn ngữ: HTML là một ngôn ngữ tương tự như các ngôn ngữ lập trình, tuy
đơn giản hơn. Nó có cú pháp chặt chẽ để viết các lệnh nhằm thực hiện việc trình diễn văn bản.
- Markup - đánh dấu: HTML là ngôn ngữ của các thẻ (Tag) đánh dấu. Các thẻ này xác định
cách thức trình bày đoạn văn bản tương ứng trên màn hình.
• Giới thiệu các thẻ HTML
Trang mã nguồn HTML là văn bản bình thường bao gồm các kí tự ASCII, có thể được tạo
ra bằng bất cứ bộ soạn thảo thông thường nào. Theo quy ước, tất cả các tệp mã nguồn của của
trang siêu văn bản phải có đuôi là.html hoặc.htm
Khi bộ duyệt (Browser) đọc trang mã nguồn HTML, diễn dịch các thẻ lệnh và hiển thị nó
lên màn hình máy tính thì ta thường gọi là trang Web. Vậy trang Web không tồn tại nguyên gốc
trên đĩa cứng của máy tính. Nó là cái thể hiện của trang mã nguồn qua xử lí của bộ duyệt. Như sau
này ta sẽ thấy, các bộ duyệt khác nhau có thể hiển thị cùng một trang mã nguồn không hoàn toàn
giống nhau.
Nói soạn thảo siêu văn bản tức là tạo ra trang mã nguồn HTML đúng quy định để bộ duyệt
hiểu được và hiển thị đúng.
Hiện nay có nhiều công cụ soạn thảo siêu văn bản mạnh như Frontpage2003, Macromedia
Dreamweaver MX,….với giao diện trực quan và tự động sinh mã cho phép soạn thảo siêu văn bản
như soạn thảo thông thường.
Tuy nhiên, việc tìm hiểu cú pháp của HTML, nắm vững ý nghĩa của các thẻ khác nhau vẫn
rất cần thiết để tạo ra các trang Web động, để tương tác với người sử dụng, để phục vụ các ứng
dụng Internet sau này.
23
Chương 1: Tổng quan về Internet
• Các thẻ HTML
Các thẻ (Tag) dùng để báo cho trình duyệt cách thức trình bày văn bản trên màn hình hoặc
dùng để chèn một mối liên kết đến các trang khác, một đoạn chương trình khác Mỗi thẻ gồm
một từ khoá - KEYWORD- bao bọc bới hai dấu "bé hơn" (<) và "lớn hơn" (>). Hầu hết các lệnh
thể hiện bằng một cặp hai thẻ: thẻ mở (<KEYWORD >) và thẻ đóng (</KEYWORD>). Dấu gạch
xiên("/") kí hiệu thẻ đóng. Lệnh sẽ tác động vào đoạn văn bản nằm giữa hai thẻ.
<KEYWORD> Đoạn văn bản chịu tác động của lệnh </KEYWORD>
Một số thẻ không có cặp, chúng được gọi là các thẻ
rỗng hay thẻ đơn. Chỉ có thẻ mở
<KEYWORD > mà thôi.
Cấu trúc của một trang văn bản HTML
Mọi tài liệu HTML đều có khung cấu trúc như sau:
<HEAD><TITLE></TITLE></HEAD>
<BODY>
</BODY>
</HTML>
trong đó: <HTML>, </HTML>: mở đầu và kết thúc một chương trình
<HEAD>, </HEAD>: mở đầu và kết thúc phần đầu chương trình; <BODY>, </BODY>:
mở đầu và kết thúc thân chương trình;
Bài tập ví dụ :
Để hiểu về HTML, chúng ta sẽ bắt đầu với việc soạn thảo một tài liệu HTML đơn giản nhất.
- Chọn một bộ soạn thảo bất kì : NotePad, WordPad, Word
- Hãy nhập vào chính xác như dưới đây, thay nội dung (phần in nghiêng) vào chỗ cần thiết
<HTML>
<HEAD><TITLE>Thanh tiêu đề </TITLE></HEAD>
<BODY>
Nội dung của tài liệu nằm ở đây: bao gồm các hình ảnh, âm thanh, text, video,….
</BODY>
</HTML>
- Ghi lưu với tên tệp là index.htm. Lưu ý dùng chữ in thường cho tên tệp và phần đuôi phải
là .htm
- Khởi động bộ duyệt Web và mở tệp HTML vừa soạn xong để xem kết quả.
Các mức đầu đề trong HTML
Dưới đây sẽ giới thiệu một số thẻ cơ bản của HTML :
- Các tag sử dụng cho toàn bộ cấu trúc : <html >, <head>, <body>
24
Chương 1: Tổng quan về Internet
- Các tag sử dụng cho các tiêu đề và các paragraph : <title>, <h1> đến <h6>, <p>
- Các tag sử dụng cho phần bình chú <! … >
- Các tag sử dụng cho các danh sách <ol>, <ul>, <li> và <dd>
- Tag liên kết HTML (<a> … </a>) và các thành phần khác nhau của nó
- Tag <img > dùng để liên kết hình ảnh trong các trang Web
- Tag <table> dùng để tạo bảng
Về cách sử dụng các thẻ HTML để tìm hiểu sâu hơn có thể tìm đọc tài liệu tham khảo có
liên quan về lập trình Web với HTML (xem tài liệu tham khảo).
1.2.4.
Giới thiệu về các dịch vụ chủ yếu trên Internet
Các dịch vụ Internet ngày càng phong phú và được bổ sung, cải tiến không ngừng. Đến nay,
các dịch vụ chính của Inernet là:
1.2.4.1. Dịch vụ đăng nhập từ xa Telnet
Telnet cho phép người sử dụng đăng nhập từ xa vào hệ thống từ một thiết bị đầu cuối nào
đó trên mạng. Với Telnet người sử dụng hoàn toàn có thể làm việc với hệ thống từ xa như thể họ
đang ngồi làm việc ngay trước màn hình của hệ thống. Kết nối Telnet là một kết nối TCP dùng để
truyền dữ liệu với các thông tin điều khiển.
1.2.4.2. Dịch vụ truyền tệp (FTP)
Dịch vụ truyền tệp (FTP) là một dịch vụ cơ bản và phổ biến cho phép chuyển các tệp dữ
liệu giữa các máy tính khác nhau trên mạng. FTP hỗ trợ tất cả các dạng tệp, trên thực tế nó không
quan tâm tới dạng tệp cho dù đó là tệp văn bản mã ASCII hay các tệp dữ liệu dạng nhị phân. Với
cấu hình của máy phục vụ FTP, có thể qui định quyền truy nhập của người sử dụng với từng thư
mục dữ liệu, tệp dữ liệu cũng như giới hạn số lượng người sử dụng có khả năng cùng một lúc có
thể truy nhập vào cùng một nơi lưu trữ dữ liệu.
1.2.4.3. Dịch vụ Gopher
Trước khi Web ra đời, Gopher là dịch vụ rất được ưa chuộng. Gopher là một dịch vụ truyền
tệp tương tự như FTP, nhưng nó hỗ trợ người dùng trong việc cung cấp thông tin về tài nguyên.
Client Gopher hiển thị một thực đơn, người dùng chỉ việc lựa chọn cái mà mình cần. Kết quả của
việc lựa chọn được thể hiện ở một thực đơn khác.
Gopher bị giới hạn trong kiểu các dữ liệu. Nó chỉ hiển thị dữ liệu dưới dạng mã ASCII mặc
dù có thể chuyển dữ liệu dạng nhị phân và hiển thị nó bằng một phần mềm khác.
1.2.4.4. Dịch vụ WAIS
WAIS (Wide Area Information Serves) là một dịch vụ tìm kiếm dữ liệu. WAIS thường
xuyên bắt đầu việc tìm kiếm dữ liệu tại thư mục của máy chủ, nơi chứa toàn bộ danh mục của các
máy phục vụ khác. Sau đó WAIS thực hiện tìm kiếm tại máy phục vụ thích hợp nhất. WAIS có
thể thực hiện công việc của mình với nhiều loại dữ liệu khác nhau như văn bản ASCII, PostScript,
GIF, TIFF, điện thư,…
1.2.4.5. Dịch vụ World Wide Web
World Wide Web (WWW hay Web) là một dịch vụ tích hợp, sử dụng đơn giản và có hiệu
quả nhất trên Internet. Web tích hợp cả FTP, WAIS, Gopher. Trình duyệt Web có thể cho phép
truy nhập vào tất cả các dịch vụ trên.
25
Chương 1: Tổng quan về Internet
Tài liệu WWW được viết bằng ngôn ngữ HTML. Siêu văn bản là văn bản bình thường cộng
thêm một số lệnh định dạng. HTML có nhiều cách liên kết với các tài nguyên FTP, WAIS server,
Gopher Server và Web Server. Web Server là máy phục vụ Web, đáp ứng các yêu cầu về truy nhập
tài liệu HTML. Web Server trao đổi các tài liệu HTML bằng giao thức HTTP (HyperText Transfer
Protocol) hay còn gọi là giao thức truyền siêu văn bản.
Trình duyệt Web (Web Client) là chương trình để xem các tài liệu Web. Trình duyệt Web
gửi các địa chỉ URL (URL-Uniform Resource Locator: Bộ định vị tài nguyên đồng dạng) đến các
máy phục vụ Web sau đó nhận trang Web từ máy phục vụ Web phiên dịch và hiển thị chúng. Khi
giao tiếp với máy phục vụ Web thì trình duyệt Web sử dụng giao thức HTTP. Khi giao tiếp với
Gopher Server thì trình duyệt Web hoạt động như một Gopher Client và sử dụng giao thức
Gopher. Khi giao tiếp với FTP Server thì trình duyệt Web hoạt động như một FTP client và sử
dụng giao thức FTP. Trình duyệt Web có thể thực hiện các công việc khác như ghi trang Web vào
đĩa, gửi Email, tìm kiếm xâu ký tự trên trang Web,… Hiện nay có hai trình duyệt Web được sử
dụng nhiều nhất là Internet Explorer và Netscape. Ngoài ra, còn có một số trình duyệt khác như
Opera, Mozilla,…
1.2.4.6. Dịch vụ thư điện tử (E-mail)
Dịch vụ thư điện tử là một dịch vụ thông dụng nhất trong mọi hệ thống mạng dù lớn hay
nhỏ. Thư điện tử được sử dụng rộng rãi như một phương tiện giao tiếp hàng ngày trên mạng nhờ
tính linh hoạt và phố biến của nó. Từ các trao đổi thư tín thông thường, thông tin quảng cáo, tiếp
thị, đến những công văn, báo cáo, hay kể cả những bản hợp đồng thương mại, chứng từ, tất cả
đều được trao đổi thông qua thư điện tử.
Hệ thống thư điện tử được chia làm hai phần: MUA (Mail User Agent) và MTA (Message
Transfer Agent). MUA thực chất là một hệ thống làm nhiệm vụ tương tác trực tiếp với người
dùng cuối, giúp họ nhận bản tin, soạn thảo bản tin, lưu các bản tin và gửi bản tin. Nhiệm vụ của
MTA là định tuyến bản tin và xử lý các bản tin đến từ hệ thống của người dùng sao cho các bản
tin đó đến được đúng hệ thống đích.
•
Địa chỉ thư điện tử
Hệ thống địa chỉ thư điện tử hoạt động cũng giống như địa chỉ thư trong hệ thống thư bưu
chính. Một bản tin (message, bản tin) điện tử muốn đến được đích thì địa chỉ người nhận là một
yếu tố không thể thiếu. Trong một hệ thống thư điện tử, mỗi người có một địa chỉ thư. Từ địa chỉ
thư sẽ xác đinh được thông tin của người sở hữu địa chỉ đó trong mạng. Nói chung không có một
quy tắc thống nhất cho việc đánh địa chỉ thư, bới vì mỗi hệ thống thư lại có thể sử dụng một qui
ước riêng về địa chỉ. Để giải quyết vấn đề này, người ta thường sử dụng hai khuôn dạng địa chỉ là
địa chỉ miền (Domain-Base Address) được sử dụng nhiều trên hệ điều hành Windows, và địa chỉ
UUCP (Unix to Unix Copy Command) được sử dụng nhiều trên hệ điều hành Unix. Ngoài hai
dạng địa chỉ trên, còn có một dạng địa chỉ nữa tạo thành bởi sự kết hợp của cả hai dạng địa chỉ
trên, gọi là địa chỉ hỗn hợp.
Địa chỉ miền là dạng địa chỉ thông dụng nhất. Không gian địa chỉ miền có cấu trúc hình cây.
Mỗi nút của cây có một nhãn duy nhất cũng như mỗi người dùng có một địa chỉ thư duy nhất. Các
26
Chương 1: Tổng quan về Internet
địa chỉ miền xác định địa chỉ đích tuyệt đối của người nhận. Do đó, dạng địa chỉ này dễ sử dụng
đối với người dùng: họ không cần biết đích xác đường đi của bản tin như thế nào.
Địa chỉ tên miền có khuôn dạng như sau:
Thông_tin_người_dùng@thông_tin_tên_miền
Phần “thông_tin_tên_miền” gồm một xâu các nhãn cách nhau bởi một dấu chấm (.).
Ví dụ :
• Cấu trúc của một bản tin (Message)
Một bản tin điện tử gồm có những thành phần chính sau đây:
¾
Đầu bản tin (Header): chứa địa chỉ thư của người nhận. MUA sử dụng địa chỉ này để
phân bản tin về đúng hộp thư của người nhận.
To : Địa chỉ của người nhận bản tin.
From : Địa chỉ của người gửi bản tin.
Subject : Mô tả ngắn gọn nội dung của bản tin.
Cc : Các địa chỉ người nhận bản tin ngoài người nhận chính ở trường “To:”.
Bcc : Các địa chỉ người nhận bản tin bí mật, khi người gửi không muốn các người
nhận ở trường “To:” và “Cc:” biết.
¾
Thân bản tin (Body): chứa nội dung của bản tin.
Chương 2 chúng ta sẽ tìm hiểu kĩ hơn về các dịch vụ thông tin trên mạng Internet và cách
sử dụng, khai thác các dịch vụ trên.
1.2.4.7. Dịch vụ Internet Relay Chat (IRC-Nói chuyện qua Internet)
IRC là hình thức hội thoại trực tiếp trên Internet. Với dịch vụ này hai hay nhiều người có
thể cùng trao đổi thông tin trực tiếp qua bàn phím máy tính. Nghĩa là bất kỳ câu đánh trên máy
của người này đều hiển thị trên màn hình của người đang cùng hội thoại.
Có nhiều chương trình hỗ trợ cho phép chat trực tiếp (những người chat đang Online) hoặc
gián tiếp (những người chat đang Offline) với đối phương. Người sử dụng có thể chat bằng chữ
(text), chat bằng âm thanh (voice) hoặc bằng hình ảnh (web-cam) Ngoài chat trên Internet người
sử dụng còn có thể chat với nhau trên mạng LAN.
Textchat và Voice chat
Text chat là gõ phím trên một chương trình chat nào đó một lời nhắn, sau đó gõ Enter. Lời
nhắn lập tức được gửi tới máy của người được gửi và sau đó người gửi có thể nhận ngược lại các
lời nhắn từ người bạn chat đó.
27