Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn tập tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.92 KB, 28 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Những cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Bài làm:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm tồn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại… nhằm giải phóng dân tộc. Để đi đến được khái niệm về tư tưởng HCM, ta
phải trải qua quá trình nhận thức lâu dài và đã có rất nhiều định nghĩa. Tuy
nhiên, chúng ta khơng thể bỏ qua cơ sở lý luận hình thành nên tư tưởng HCM.
- Các giá trị truyền thống của dân tộc:
Đó là chủ nghĩa yêu nước, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc dân tộc
Việt Nam, là động lực, sức mạnh giúp dân tộc Việt Nam tồn tại vượt qua mọi
khó khăn trong dựng nước và giữ nước mà phát triển và hơn hết, đó là nền tảng
tư tưởng, điểm xuất phát và động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu
nước để tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lênin. “Khơng có gì q hơn độc lập tự do” –
chân lý lớn của thời đại được Hồ Chí Minh khẳng định, đồng thời cũng chính là
một điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong truyền thống dân tộc Việt Nam thường trực một niềm tự hào về lịch
sử, trân trọng văn hoá, phong tục tập qn, về tinh thần đồn kết, nhân nghĩa.
Đó chính là một cơ sở hình thành nên tư tưởng, phẩm chất văn hố kiệt xuất Hồ
Chí Minh với chủ trương văn hoá là mục tiêu, động lực cách mạng.
- Tinh hoa văn hóa nhân loại: Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa
phương Đơng với các thành tựu hiện đại của văn minh phương Tây chính là nét
đặc sắc trong q trình hình thành tư tưởng, văn hóa, nhân cách Hồ Chí Minh
Đối với Nho giáo: Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng dùng nhân trị, đức trị để
quản lý xã hội, xây dựng một xã hội bình dị, hòa đồng, về một thế giới đại đồng
với những triết lý nhân sinh, nhưng bên cạnh đó, Người cũng hạn chế những
khuyết điểm của Nho giáo như trọng nam khinh nữ, coi thường lao động chân
tay.
Đối với Phật giáo: Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị


tha, yêu thương con người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác; đề
cao quyền bình đẳng của con người và chân lý; khuyên con người sống hồ
đồng, gắn bó.
1


Đối với Lão Giáo: Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão
Tử, khuyên con người nên sống gắn bó với thiên nhiên, biết bảo vệ mơi trường
sống. Hồ Chí Minh tổ chức “Tết trồng cây” để bảo vệ mơi trường sinh thái cho
chính cuộc sống con người. Người khun cán bộ ít lịng tham muốn về vật
chất; thực hiện cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư.
Khơng những vậy, Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo các quan điểm về
dân tộc, dân quyền, dân sinh của Tôn Trung Sơn trong cách mạng dân chủ tư sản
thành tư tưởng đấu tranh cho Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc của con người và
cách mạng Việt Nam theo con đường cách mạng vơ sản. Chính Người là một
biểu tượng cao đẹp của sư tích hợp tinh hoa văn hố phương Đơng và phương
Tây.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đã đọc được “Luận cương
về những vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Từ đây Người sáng tỏ được
nhiều điều đã tìm ra con đường để giải phóng dân tộc mình. Người đã rút ra kết
luận: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con
đường cách mạng vơ sản. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai
cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại nhằm đi tới mục
tiêu cao cả là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã trở thành cơ sở lý luận cho hệ tư tưởng Hồ Chí Minh
nói chung và về cách mạng giải phóng dân tộc nói riêng. Việc tiếp thu chủ nghĩa
Mác - Lênin ở Hồ Chí Minh diễn ra trên nền tảng của những tri thức văn hóa
tinh túy được chắt lọc, hấp thụ và vốn hiểu biết phong phú, tích lũy qua thực tiễn

đấu tranh vì mục tiêu cứu nước và giải phóng dân tộc.
2. Quan điểm của HCM về cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi
phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Bài làm:
Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, nhân
dân phải chịu cảnh lầm than. Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị, ông cha
ta đã sử dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác
nhau, sử dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau. Mặc dù rất khâm phục tinh
thần cứu nước của các vị tiền bối nhưng Người nhận thấy con đường của Phan
Bội Châu chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau": con đường của
2


Phan Châu Trinh cũng chẳng khác gì "xin giặc rủ lịng thương"; con đường của
Hồng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong
kiến.
Tất cả các phong trào yêu nước vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, mặc
dù đã diễn ra vô cùng anh dũng với tinh thần "người trước ngã, người sau đứng
dậy", nhưng rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu do các phong
trào này chưa tìm được đường lối đấu tranh đúng đắn, còn ảnh hưởng bởi hệ tư
tưởng phong kiến lỗi thời. Cũng chính vì thế mà những phong trào này không
xác định rõ được nhiệm vụ của cuộc đấu tranh là giải quyết những mâu thuẫn cơ
bản nào, khơng có khả năng tập hợp được lực lượng tồn dân tộc. Trong khi đó
chủ nghĩa đế quốc ngày càng bành trướng trở thành một hệ thống thế giới hùng
mạnh. Đất nước lâm vào "tình hình đen tối tưởng như khơng có đường ra". Đó
là tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam vào đầu thế kỷ
XX. Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm một con đường cứu nước mới. Chính
vì vậy, Hồ Chí Minh đã quyết tâm ra đi tìm một con đường mới.
Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dương, đến với nhân loại cần lao
đang tranh đấu ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới. Nguyễn Ái Quốc đã

kết hợp tìm hiểu lý luận và khảo sát thực tiễn, nhất là ở ba nước tư bản phát
triển: Anh. Pháp, Mỹ.
Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc cách
mạng tư sản Mỹ; đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng
Pháp, tìm hiểu cách mạng tư sản Pháp. Người nhận thấy: "Cách mệnh Pháp
cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi,
tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì
nó áp bức thuộc địa" Bởi lẽ đó, Người khơng đi theo con đường cách mạng tư
sản.
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng
có xu hướng tư sản đương thời, năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con đường cách mạng đúng đắn - con đường cách
mạng vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Người nhận ra lựa chọn
con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường Cách mạng Tháng
Mười Nga là con đường đúng đắn. Đây là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và
triệt để. Cuộc cách mạng đó khơng chỉ giải phóng giai cấp, mà cịn là giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội.
3


Hồ Chí Minh xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vơ sản ở chính quốc có chung một kẻ thù đó là chủ nghĩa đế quốc thực
dân. Người nhận định rằng: “Chủ nghĩa đế quốc như một con đỉa hai vòi, một
vòi bám vào chính quốc, một vịi bám vào thuộc địa, chúng bóc lột người lao
động cả hai nơi. Muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc thì phải đồng thời cắt cả
hai vịi của nó đi, tức là phải thực hiện phối hợp chặt chẽ giữa cách mạng vơ sản
ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa”. Người "hoàn toàn
tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba" bởi vì V.I.Lênin và Quốc tế thứ ba đã "bênh
vực cho các dân tộc bị áp bức". Và bởi lẽ ở Việt Nam và các nước thuộc địa có

hồn cảnh lịch sử- chính trị khác với Châu Âu nên giải phóng dân tộc gắn với
giải phóng giai cấp, trong đó giải phóng dân tộc là trước hết, trên hết.
Những sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
mang tính thời đại thể hiện đậm nét ở chỗ đã tác động sâu sắc đến phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới. Nếu như thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 đã thức tỉnh các dân tộc trên thế giới về quyền tự do, độc lập của mỗi
dân tộc, thì thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với
đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm “chấn động địa cầu”, thức tỉnh các
dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ - Latinh vùng lên đánh đuổi thực dân, đế
quốc, giành lại độc lập nước nhà.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã kiên định con đường cách
mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn là: độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH, kiên trì mục tiêu: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Hiện nay, tư tưởng
của Người vẫn soi sáng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam.
Để đạt được điều đó, hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải nắm chắc hạt nhân
tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng con người, nắm vững
phương thức giải quyết mối quan hệ dân tộc - con người trên cơ sở nhận thức
chính xác đặc điểm của dân tộc và sự vận động, phát triển của thời đại. Chỉ có
như vậy, chúng ta mới thành cơng trong nhiệm vụ đưa tư tưởng Hồ Chí Minh
vào cuộc sống để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đó cũng là một
trong những điều kiện quan trọng nhất bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng
Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
3. Quan điểm của HCM về động lực của CNXH ở Việt Nam
Bài làm:
Để hoàn thành được những mục tiêu của CNXH, HCM cần phải nhận thức,
vận dụng và phát huy được tất cả các động lực của CNXH. Động lực ở đây được
4


hiểu là những nhân tố góp phần thúc đẩy sự phát triển KT-XH thông qua hoạt

động của con người. Những động lực đó được biểu hiện rõ nhất trên phương
diện: động lực vật chất và động lực tinh thần trong đó quan trọng nhất là con
người, là nhân dân lao động, nịng cốt là liên minh cơng- nơng- trí thức.
Hệ thống các động lực của CNXH trong tư tưởng HCM rất phong phú
nhưng suy đến cùng, các động lực muốn phát huy tác dụng đều phải thông qua
con người, do đó bao trùm lên vẫn là động lực con người trên cả hai bình diện
cộng đồng và cá nhân.
Về lợi ích của dân, Hồ Chí Minh quan tâm đến lợi ích của cả cộng đồng
người và lợi ích của những con người cụ thể vì Người cho rằng đây là đây là
một trong những điểm khác nhau cơ bản của chủ nghĩa xã hội với những chế độ
trước nó. Người nhận thấy trong xã hội xã hội chủ nghĩa mỗi người giữ một vị
trí nhất định, đóng góp một phần cơng lao nhất định vì nhân dân lao động đã
thốt khỏi bần cùng, có cơng ăn việc làm, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, mỗi
người có điều kiện cải thiện cuộc sống riêng của mình.
Về dân chủ, theo Hồ Chí Minh, dân chủ trong chủ nghĩa xã hội là dân chủ
của nhân dân, là của quý báu của nhân dân; công việc đổi mới và xây dựng mới
là công việc của dân, là trách nhiệm của dân. Với tư cách là những động lực thúc
đẩy tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, lợi ích của dân và dân chủ của dân
khơng thể tách rời nhau.
Về sức mạnh đồn kết tồn dân, Hồ Chí Minh cho rằng đây là lực lượng
mạnh nhất trong tất cả các lực lượng và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng
được với sự giác ngộ đầy đủ nhân dân về quyền lợi và quyền hạn, trách nhiệm
và địa vị dân chủ của mình. Chính vì vậy ngay trong buổi ra mắt Đảng Lao động
VN (1951), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Mục đích của đảng lao động việt nam có
thể gồm trong 8 chữ là: đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ Quốc”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, lợi ích, dân chủ của dân, đồn kết tồn dân
gắn bó hữu cơ với nhau, là cơ sở, là tiền đề tạo nên những động lực mạnh mẽ
nhất trong hệ thống những động lực của chủ nghĩa xã hội, song những yếu tố chỉ
có thể phát huy sức mạnh thông qua hoạt động của cộng đồng người và những
con người Việt Nam cụ thể.

Về hoạt động của những tổ chức, trước hết là Đảng Cộng sản Việt Nam,
sau đến Nhà nước và các tổ chức kinh tế - chính trị giữ vai trị quyết định. Theo
Hồ Chí Minh, Đảng như người cầm lái, cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
Các tổ chức chính trị- xã hội tuy có những nội dung và phương thức hoạt động
khác nhau nhưng đều nhất quán về tư tưởng và chính trị, hoạt động vì lợi ích của
5


các thành viên của mình trong sự thống nhất lợi ích dân tộc. Với những cộng
đồng này, Người cũng luôn nhắc nhở phải không ngừng nêu cao cảnh giác, phải
chống lại những kẻ địch bên ngồi tìm cách q hoại thành quả của cách mạng
và phải chống lại những kẻ địch tù bên trong là chủ nghĩa cá nhân; chống tư
tưởng “ làm quan cách mạng”.
Về con người Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đây là những
con người của chủ nghĩa xã hội có tư tưởng và tác phong xã hội chủ nghĩa.
Người khái quát: những tư tưởng và tác phong mới mà mỗi người bồi dưỡng cho
mình là: có ý thức làm chủ nhà nước, có ý thức tinh thần tập thể xã hội chủ
nghĩa và tư tưởng: “vì mọi người và mọi người vì mình”, có ý thức cần kiệm
xây dựng nước nhà, có tinh thần tiến nhanh, mạnh, vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội.
Đặc biệt, chúng ta phải chống lại những tư tưởng, tác phong xấu như: quan
liêu, tham ô, lãng phí, nhất là chủ nghĩa cá nhân. Đây là tư tưởng lỗi thời, cũ kĩ
của giai cấp tư sản bảo thủ, chậm tiến, là gốc rễ đẻ ra hàng trăm căn bệnh, cần
phải loại bỏ ngay lập tức. Nếu để lâu, chúng sẽ gặm nhấm và ăn mòn chúng ta.
Như vậy, cùng với việc xác định và định hướng phát huy sức mạnh những
động lực của CNXH, đối với các cộng đồng người và với những con người VN
cụ thể, HCM luôn nhắc nhở phải ngăn chặn, loại trừ những lực cản của những
động lực này. Có thể nói rằng, quan điểm “ xây” đi đơi với “chống” cũng là 1
trong những quan điểm xuyên suốt tư tưởng HCM, là 1 trong những nét đặc sắc

của tư tưởng HCM.
4. Quan điểm của HCM về tính tất yếu và vai trị của Đảng Cộng sản VN
Bài làm:
Trong các chính thể hiện đại, bất luận nhà nước và xã hội nào cũng đều do
giai cấp nhất định lãnh đạo thông qua chính đảng đại diện cho giai cấp ấy. Một
đảng duy nhất cầm quyền hay lưỡng đảng, đa đảng thay nhau cầm quyền là do
tương quan lực lượng chính trị ở từng quốc gia quy định. Đảng Cộng sản Việt
Nam là chính đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, do tương
quan lực lượng chính trị Việt Nam quy định, được lịch sử lựa chọn, được nhân
dân tin tưởng, trao gửi trọng trách bằng hiến định và được khẳng định bằng năng
lực, hiệu quả lãnh đạo.
6


Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào cơng nhân dẫn đến sự
hình thành chính đảng của giai cấp công nhân. V. I. Lênin chỉ ra rằng, Đảng
Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.
Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được thực
hiện bằng những con đường đặc biệt, tùy theo điều kiện không gian và thời gian.
Ở Việt Nam và nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc địa thì Đảng Cộng sản ra đời là
kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước. Như vậy, so với học thuyết Mác- Lenin, Hồ Chí Minh đưa
thêm vào yếu tố thứ ba nữa, đó là phong trào yêu nước.
Quan điểm của Hồ Chí Minh trên đây hồn tồn phù hợp với xã hội thuộc
địa và phong kiến Việt Nam khi mọi giai cấp, tầng lớp đều có mâu thuẫn dân
tộc. Đó là mâu thuẫn cơ bản giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với các thế lực đế
quốc và tay sai. Đầu thế kỷ XX, trước thách đố lịch sử đặt ra là giải phóng dân
tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người,
hàng loạt tổ chức yêu nước ra đời. Tuy lực lượng, phương thức đấu tranh có
khác nhau nhưng mục tiêu chung đều là: Giành độc lập, tự do cho dân tộc. Đảng

Cộng sản Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển chính là do nhu cầu tất yếu của
xã hội Việt Nam bấy giờ, bước lên vũ đài chính trị, nắm lấy sứ mệnh lãnh đạo
dân tộc, lơi cuốn khơng ít nhà yêu nước tiến bộ phấn đấu đứng vào hàng ngũ của
Đảng. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất đủ năng
lực và phẩm chất để lãnh đạo, được nhân dân tuyệt đối tin tưởng và đi theo làm
cách mạng tự giải phóng, đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của phong trào công
nhân từ tự phát lên tự giác, cuộc đấu tranh vì lợi ích kinh tế của chủ nghĩa tư bản
chuyển sang cuộc đấu tranh chính trị lật đổ giai cấp tư sản, xóa bỏ chủ nghĩa tư
bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Khẳng định Đảng cộng sản như “người cầm lái” cho con thuyền là quan
điểm nhất quán của Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong suốt quá trình cách mạng, cả trong các mạng dân tộc dân chủ nhân
dân và cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Một đảng mới 15 năm tuổi, chỉ với khoảng 5 nghìn đảng viên, đã lãnh đạo
nhân dân ta làm nên Cách mạng Tháng Tám 1945, “phá tan gông xiềng nô lệ
hơn 80 năm của chế độ thực dân, xóa bỏ chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn
năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một thời đại mới rực rỡ
nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc”. Vai trò lãnh đạo của Đảng đã được
khẳng định bằng uy tín, sự hy sinh của biết bao đảng viên trong nhà tù đế quốc
7


thực dân; bằng bản lĩnh và trí tuệ, dám đối mặt và giải quyết có hiệu quả những
thách thức đe dọa sự tồn vong của quốc gia - dân tộc.
Bước vào thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, vai trò lãnh đạo của
Đảng tiếp tục được nhân dân thừa nhận, tin tưởng tuyệt đối và tự nguyện đứng
dưới ngọn cờ của Đảng; được khẳng định bằng đường lối và phương pháp cách
mạng đúng đắn, sáng tạo; bằng sự dấn thân, hy sinh của những người đảng viên
cộng sản trên những mặt trận gian khổ nhất; bằng thực tiễn cuộc đấu tranh cách
mạng sinh tử mà khơng lực lượng chính trị nào có thể thay thế được; bằng sự

dũng cảm thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm trước nhân dân để khơng
ngừng hồn thiện và lãnh đạo cách mạng tiến lên.
Từ khi ra đời đến nay, năng lực lãnh đạo và uy tín của Đảng đã được khẳng
định trong suốt tiến trình cách mạng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và
vai trò lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan, đáp ứng yêu cầu lịch sử của cách
mạng. Thực tiễn đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
5. Quan điểm của HCM về vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc
Bài làm:
Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của CT HCM là 1 tư tưởng cơ bản, nhất
quán và xuyên suốt, là chiến lược tập hợp lực lượng đấu tranh với kẻ thù dân tộc
và giai cấp trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Người ln
ln nhận thức đại đồn kết tồn dân tộc là vấn đề sống cịn, quyết định sự thành
công của cách mạng. Đảng lãnh đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải
phóng và xây dựng xã hội mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được
thực hiện bằng sức mệnh của cả dân tộc, bằng đại đồn kết dân tộc.
Chính vì vậy, đại đồn kết tồn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược,
quyết định thành công của cách mạng. Trong tư tưởng HCM, đại đồn kết tồn
dân tộc khơng phải là sách lược hay thủ đoạn chính trị mà là chiến lược lâu dài,
nhất quán của cách mạng Việt Nam. Người nói rõ: ‘‘Lúc nào dân ta đồn kết
mn người như một thì nước ta độc lập tự do. Trái lại khi nào dân ta khơng
đồn kết thì bị nước ngồi xâm lấn”. Đây là vấn đề mang tính sống còn của dân
tộc nên chiến lược này được duy trì trong cả cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, trước
những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, chính sách phương pháp tập hợp đại
đồn kết có thể điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau song
8



khơng bao giờ thay đổi chủ trương đại đồn kết dân tộc, vì đó là nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng.
Năm 1940, quân Nhật kéo vào Đông dương, thực dân Pháp đầu hàng và
làm tay sai cho phát xít Nhật. Tại Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương lần thứ 8, Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp- Nhật với tên
gọi Việt Nam Độc lập đồng minh (Việt minh) đã ra đời ngày 19 tháng 5.
Sau thành công của Cách mạng tháng Tám, giữa lúc nước ta vừa ra đời
phải đương đầu với nhiều khó khăn lớn, Hội Liên Việt được thành lập nhằm mở
rộng hơn nữa khối đoàn kết dân tộc, cùng làm chỗ dựa vững chắc cho chính
quyền Cách mạng non trẻ đối phó có hiệu lực với thù trong, giặc ngoài.
Năm 1951, trong lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi vào giai
đoạn quyết liệt, hai tổ chức Mặt trận được hợp nhất thành Mặt trận Liên Việt,
góp phần động viên cơng sức của tồn qn lập nên chiến thắng lịch sử Điện
Biên phủ, đưa đến việc ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 công nhận chủ
quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam.
Thống nhất chưa được bao lâu, Đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt
Nam, hất cẳng thực dân Pháp và phá hoại hiệp định Giơ-ne-vơ, âm mưu chia cắt
lâu dài nước ta. Trong bối cảnh đó, ngày 10.9.1955, Mặt trận Tổ quốc Việt nam
ra đời với mục đích đồn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ, đấu tranh đánh
bại đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, xây dựng một nước Việt nam hồ bình
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Trong cao trào đồng khởi của đồng bào miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam ra đời (20-12-1960) nhằm đoàn kết toàn dân đánh bại chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền tay sai của chúng, giải
phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc.
Sau khi cả nước đã được độc lập, nước ta thống nhất lấy tên là Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam với "Mục đích phấn đấu của Mặt trận Dân tộc thống nhất là xây
dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh".
Từ thực tiễn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã khái quát
nhiều luận điểm mang tính chất chân lý về vai trị và sức mạnh của khối đại

đoàn kết toàn dân tộc: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết là một
lực lượng vô định của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, khơng có gì q bằng lịng dân, sức dân.
Hơn thế nữa, đại đoàn kết toàn dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu
của CM Việt Nam.
9


Đối với Hồ Chí Minh đại đồn kết khơng chỉ là khẩu lệnh mà còn là mục
tiêu lâu dài của cách mạng. Đảng là lực lượng lãnh đạo Việt Nam nên đại đoàn
kết dân tộc được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng quán triệt cho tất cả
mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách, tới mọi hoạt động thực tiễn
của Đảng. Trong lời kết thúc buổi ra mắt Đảng Lao Động Việt Nam (1951), Hồ
Chí Minh tuyên bố: “mục tiêu của Đảng lao động Việt Nam gồm 8 chữ: Đoàn
Kết Toàn Dân Phụng Sự Tổ Quốc” .
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và vì quần chúng.
Đại đồn kết là u cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là đòi hỏi khách
quan của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng bởi nếu
khơng đồn kết thì chính họ sẽ thất bại trong cuộc đấu tranh vì lợi ích của mình.
Nhận thức rõ điều đó, Đảng cộng sản Việt Nam phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập
hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần
chúng thành hiện thực.
Như vậy, “ Đoàn kết, đồn kết, đại đồn kết. Thành cơng, thành cơng, đại
thành công” là một chiến lược, sợi chỉ đỏi xuyên suốt q trình cách mạng Việt
Nam. Đại đồn kết trở thành cội nguồn thắng lợi của CM nước ta, gắn với tên
tuổi và sự nghiệp của HCM.
6. Quan điểm của HCM về lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Bài làm:
Muốn đưa cách mạng đến thành cơng phải có lực lượng cách mạng đủ
mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành cơng xã hội mới, muốn có lực

lượng cách mạng mạnh phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách
mạng thành một khối vững chắc. Do đó, đồn kết trở thành vấn đề chiến lược
lâu dài của cách mạng, là nhân tốt bảo đảm cho thắng lợi của CM.
Chính vì vậy, chủ thể của khối đại đồn kết tồn dân tộc, theo Hồ Chí
Minh, bao gồm toàn thể nhân dân, tất cả những người Việt Nam yêu nước ở các
cấp, các tầng lớp trong xã hội. “Nhân dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa
được hiểu với nghĩa là con người Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đồng bào
quần chúng nhân dân và cả hai đều là chủ thể của khối đại đồn kết dân tộc. Nói
đại đồn kết dân tộc tức là phải tập hợp, đại kết được tất cả mọi dân vào một
khối thống nhất, cùng hướng vào mục tiêu chung “ai có tài, có đức, có lịng
phụng sự Tổ Quốc, phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”.
10


Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ, trong q trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hoà
mối quan hệ giai cấp, dân tộc để tập hợp lực lượng, khơng bỏ sót một lực lượng
nào miễn là họ có lịng trung thành và sẵn sàng phụng sự Tổ quốc không phản
bội lại quyền lợi nhân dân. Tư tưởng của Người đã định hướng cho việc xây
dựng khối đại đồn kết dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, từ
cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phải xác định rõ đâu là nền tảng
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và lực lượng nào tạo nên nền tảng đó. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Đại đoàn kết là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhâ dân, mà đại
đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Đó là nền, gốc của đại đồn kết. Nó cũng như cái nền nhà, gốc của cây…”. Như
vậy, lực lượng làm nền tảng cho khối đại đồn kết dân tộc theo quan điểm của
Người là cơng nhân- nông dân- tri thức. Nền tảng này càng được củng có vững
chắc thì khối đại đồn kết tồn dân tộc càng có thể mở rộng, khi đó khơng có thế
lực nào có thể làm suy yếu được khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Trong khối đại đoàn kết dân tộc, phải đặc biệt chú trọng yếu tố “hạt nhân”
là sự đoàn kết ngoài xã hội. Sự đoàn kết của Đảng càng được củng cố thì sự
đồn kết tồn dân tộc càng được tăng cường, Đảng đoàn kết, dân tộc đồn kết và
sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân đã tạo nên sức mạnh bên trong của
cách mạng Việt Nam để vượt qua khó khăn, thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù,
đi tới thắng lợi cuối cùng cùng của cách mạng .
7. Quan điểm của HCM về nhà nước dân chủ.
Bài làm:
Dân chủ là một vấn đề có tính thời đại và thời sự sâu sắc, nhất là trong sự
phát triển của xã hội hiện đại ngày nay. Dân chủ là tiêu chuẩn cơ bản, để đánh
giá sự tiến bộ của mọi thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: dân chủ là
cái quý báu nhất của nhân dân, nó có vai trị tác động to lớn đối với sự phát triển
của con người và xã hội. Tư tưởng dân chủ chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh
vừa thấm nhuần sâu sắc bản chất giai cấp công nhân và tinh thần thời đại, vừa
thể hiện đặc sắc những giá trị truyền thống của dân tộc, đồng thời tiếp thu một
cách sáng tạo những tinh hoa của giá trị dân chủ nhân loại.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ,
nhưng khơng phải là “Nhà nước tồn dân”. Nhà nước ở đâu và bao giờ cũng
11


mang bản chất của một giai cấp nhất định Nhà nước Việt Nam là một nhà nước
mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân Việt Nam thể
hiện trên phương diện:
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí và vai trị cầm quyền. Nhà nước
do dân là người làm chủ nắm chính quyền, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh nịng cốt
của nhân dân là liên minh cơng – nơng – trí, do giai cấp cơng nhân mà đội tiên
phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam thể hiện ở tính định
hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước. Đưa đất nước đi lên chủ

nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu cách mạng nhất quán của Hồ Chí
Minh.
Ba là, bản chất giai cấp của giai cấp công nhân của Nhà nước thể hiện ở
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Người
nhấn mạnh đến sự cần thiết phải phát huy cao độ dân chủ, đồng thời cũng nhấn
mạnh phải phát huy cao độ tập trung, thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền
lực thuộc về nhân dân.
Trong Nhà nước Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính
nhân dân và tính dân tộc. Trong tư tưởng của Người về Nhà nước mới ở Việt
Nam, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước thống nhất với tính nhân dân,
tính dân tộc thể hiện cụ thể như sau:
Một là, Nhà nước Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài,
gian khổ của rất nhiều thể hệ người Việt Nam, của toàn thể dân tộc. Từ khi Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời trở thành lực lượng lãnh đạo sự nghiệp cạch mạng
của dân tộc, với chiến lược đại đoàn kết đúng đắn, sức mạnh của toàn dân tộc đã
được tập hợp và phát huy cao độ, chiến thắng ngoại xâm, giành lại độc lập, tự
do, lập nên Nhà nước Việt nam Dân chủ Cộng hồ. Nhà nước Việt nam mới,
khơng phải của riêng giai cấp, tầng lớp nào, mà thuộc về nhân dân.
Hai là, Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ và ln kiên
trì, nhất quán mục tiêu vì quyền lợi của nhân dân, lấy quyền lợi của dân tộc làm
nền tảng. Nhà nước Việt nam mới là người đại diện, bảo vệ, đấu tranh khơng chỉ
có lợi ích của giai cấp cơng nhân, mà cịn của nhân dân lao động và tồn thể dân
tộc.
Ba là, Nhà nước mới ở Việt Nam đã đảm đương nhiệm vụ mà tồn thể dân
tộc giao phó là tổ chức nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ độc
lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một Việt Nam mới hồ bình, thống nhất. Con
12


đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đi đến chủ nghĩa Cộng sản là sự nghiệp

chính của Nhà nước.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân là nhà nước mà tất
cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhà
nước của dân tức là:“ dân là chủ” . Khẳng định vị trí chủ thể tối cao là nhân dân.
Trong nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thơng qua hai hình
thức dân chủ trực tiếp và gián tiếp. Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ trong
đó nhân dân trực tiếp quyết định mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia,
dân tộc và quyền lợi của dân chúng. Cùng với dân chủ trực tiếp, dân chủ gián
tiếp hay dân chủ đại diện là hình thức dân chủ được sử dụng rộng rãi nhằm thực
hiện quyền lực của dân. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong hình
thức dân chủ gián tiếp:
- Quyền lực nhà nước là “ thừa uỷ quyền”của nhân dân. Quyền lực của
nhà nước là do nhân dân uỷ do. Theo Hồ Chí Minh: “Dân làm chủ thì Chủ tịch,
Bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên thì uỷ viên này uỷ viên khác làm gì? Làm đầy tớ.
Làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải làm quan cách mạng”. Hồ Chí Minh
kịch liệt phê phán những cán bộ nhà nước thái hoá biến chất, đứng trên dân, coi
khinh dân, “ cậy thế” với dân
- Nhân dân có quyền kiểm sốt, phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn
các đại biểu mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế
quyền lực mà họ đã lập ra. Một nhà nước thực sự của dân, theo Hồ Chí Minh,
ln “mong đồng bào giúp đỡ, đon đốc, kiểm sốt và phê bình dể làm trọn
nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
- Luật pháp dân chủ và công cụ quyền lực của nhân dân. Luật pháp đó là
của nhân dân, là cơng cụ thực thi quyền lực của nhân dân, là phương tiện kiểm
soát quyền lực của nhà nước.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước
do nhân dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhà nước do nhân dân cịn có nghĩa “dân làm chủ”. Theo Người, dân có
quyền làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm trịn bổn phân công dân, giữ đúng đạo

đức công dân. Nhân dân phải tuân theo pháp luật của Nhà nước, giữ gìn trật tự
chung để xây dựng lợi ích chung.
Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện để
nhân dân được thực thi những quyền mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định,
hưởng dụng đầy đủ quyền lợi và làm trọn nghĩa vụ làm chủ của mình.
13


Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời
nhân dân cũng phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ
của mình. Khơng chỉ tun bố quyền làm chủ của nhân dân, cũng không chỉ đưa
nhân dân tham gia cơng việc nhà nước mà cịn chuẩn bị và động viên nhân dân
chuẩn bị tốt năng lực làm chủ, quan điểm đó thể hiện tư tưởng dân chủ triệt để
của Hồ Chí Minh khi nói về nhà nước do nhân dân.
7*. Quan điểm của HCM về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
(Trang 84,85,86,87)
8. Quan điểm của HCM về xây dựng nền văn hóa mới
Bài làm:
Trong hệ thống tư tưởng HCM, tư tưởng về văn hóa chiếm một vị trí quan
trọng. Văn hóa có vai trị to lớn trong đời sống của mỗi quốc gia dân tộc. Theo
Người, tiến lên chủ nghĩa xã hội phải có cả vật chất lẫn tinh thần, song con
người là nhân tố quyết định. Để đưa đất nước đi lên, không thể không đặt trọng
tâm vào kinh tế, nhưng chủ thể của hoạt động kinh tế lại chính là con người và
thước đo trình độ con người lại chính là văn hóa. Vì thế, văn hóa khơng thể
đứng ngồi “mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và ngược lại kinh tế, chính trị
cũng nằm trong văn hóa. Hơn nữa, văn hóa khơng thể tách rời với quốc gia dân
tộc, văn hóa trước hết là văn hóa của một dân tộc, mang tâm hồn, diện mạo dân
tộc, đó chính là bản sắc dân tộc của văn hóa.
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, cùng với việc đưa ra quan niệm về ý

nghĩa của văn hố, Hồ Chí Minh quan tâm đến việc xây dựng nền văn hoá dân
tộc với năm nội dung: Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập tự cường. Xây dựng
luận lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. Xây dựng xã hội: Mọi việc
liên quan đến phúc lợi của nhân dân. Xây dựng chính trị: dân quyền. Xây dựng
kinh tế.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp: Khi cả dân tộc bước vào cuộc
kháng chiến trường kỳ, gian khổ, Người khẳng định lại quan điểm của Đảng từ
năm 1943 trong đề cương văn hoá Việt Nam về phương châm xây dựng nền văn
hố mới. Đó là một nền văn hố có tính chất dân tộc, khoa học đại chúng .

14


Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội: Trong thời kỳ nhân dân miền
Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Người chủ trương xây dựng nền văn hoá có nội
dung xã hội chủ nghĩa và có tính chất dân tộc.
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,
khơng có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Theo Hồ
Chí Minh, thước đo một Nhà nước vì dân là phải được lịng dân. Hồ Chí Minh
đặt vấn đề với cán bộ Nhà nước phải “làm sao cho được lòng dâ, dân tin, dân
mến, dân yêu”. Trong Nhà nước vì dân, cán bộ vừa là đầy tớ, nhưng đồng thời
vừa phải là người lãnh đạo nhân dân. Hai địi hỏi này tưởng chừng mâu thuẫn
nhưng nó lại là những phẩm chất cần có ở người cán bộ. Là đày tớ thì phải trung
thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Là lãnh đạo thì phải có trí
tuệ hơn người, minh mẫn, nhìn xa trơng rộng. Như vậy, để làm người thay mặt
nhân dân phải gồm đủ cả đức và tài, phải vừa hiền lại vừa minh. Đó là vì lợi ích
tồn cục, vì lợi ích lâu dài của nhân dân
Tóm lại, quan điểm của người về xây dựng nền văn hố mới Việt Nam, đó
là một nền văn hố tồn diện, giữ gìn được cốt cách văn hố dân tộc, đảm bảo
tính khoa học, tiến bộ và nhân văn.

9. Quan điểm của HCM về: Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã
hội, của người cách mạng
Bài làm:
Đạo đức là một vấn đề rất quen thuộc và gần gũi trong cuộc sống của mỗi
chúng ta, nó được coi như một biểu hiện của nhân cách văn hóa xã hội nói
chung, của con người nói riêng.
Hồ Chí Minh bắt đầu sự nghiệp cứu nước, cứu dân bằng cách giáo dục lý
tưởng và đạo đức cách mạng cho mọi người. Người đưa nội dung đạo đức cách
mạng vào trong những bài giảng đầu tiên cho lớp thanh niên tri thức yêu nước
đầu tiên của Việt Nam. Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng
của giai cấp vô sản- đạo đức Mác- Lenin, mang bản chất cách mạng và khoa học
triệt để, đậm đà truyền thống nhân ái Việt Nam và nhân loại.
Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống, từ rất sớm Hồ Chí Minh
đã nêu rõ đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người. Người nhiều lần
khẳng định đạo đức là gốc, là nền tảng là sức mạnh của người cách mạng. Người
coi trọng đạo đức cách mạng như “gốc” của cây, ngọn “nguồn” của sông, suối.
Việc chăm lo cái gốc, cái nguồn ấy phải là cơng việc thường xun của tồn
15


Đảng, tồn dân cùng với gia đình và mỗi người trong xã hội. Trong tác phẩm
đạo đức cách mạng (1958), Người viết: “Làm cách mạng là để cải tạo xã hội cũ
thành xã hội mới… Người cách mạng phải có nền tảng cách mạng làm nền tảng,
…”. Người chỉ rõ, cán bộ muốn cho dân tin, dân phục thì cần nhớ rằng quần
chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức.
Đạo đức trở thành nhân tố quyết định mọi thành bại của công việc, phẩm
chất mỗi con người. Trong Người cán bộ cách mạng(1955), Người đã yêu cầu:
người cán bộ cách mạng phải có đạo đức, mọi thắng lợi quyết định đều do người
cách mạng có phẩm chất đạo đức hay khơng bởi vì có phẩm chất đạo đức trong
sáng mới làm được những việc cao cả, vẻ vang. Đạo đức cách mạng là chỗ dựa

vững chắc cho con người vững vàng trước mọi khó khăn khơng chùn bước.
Trong Di chúc người viết : “Đảng ta là một đảng cầm quyền, mỗi đảng
viên cán bộ phải thấm nhuần đạo đức cách mạng… Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ của nhân dân”; “
Bồi dưỡng cho thế hệ cách mạng đời sau là việc quan trọng và rất cần thiết”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế
làm thước đo. Chính vì vậy, Người ln đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn với
tài, nói đi đơi với việc làm hiệu quả và thực tế.
Đức và tài phải là phẩm chất thống nhất của con người. Nếu đạo đức là tiêu
chuẩn cho mục đích hành động thì tài là phương tiện thực hiện mục đích đó.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên, tài năng và phẩm chất
phải thống nhất làm một. Trong đó, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách
mạng.
Vai trò của đạo đức còn thể hiện là thước đo lòng cao thượng của con
người. Thực hành tốt đạo đức cá nhân không chỉ có tác dụng tơn vinh nâng cao
giá trị của mình mà cịn tạo ra sức mạnh nội sinh giúp ta vượt qua mọi thử thách.
Ngồi ra, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm giáo dục toàn diện cho các em
học sinh, sinh viên cả “ đức thể mỹ” .Trong đó đức bao gồm nếp ăn ở, sinh hoạt
hằng ngày, học để làm việc, làm người.
Tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng của Hồ Chí Minh là
tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Nghiên cứu, học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự, tự hào của mỗi cán bộ, cơng
chức và tồn thể nhân dân ta đối với Bác kính yêu- một con người mà tư tưởng
và tầm vóc vĩ đại đã vượt qua mọi không gian và thời gian, trở thành một biểu
tượng đẹp đẽ của văn minh nhân loại: Anh hùng giải phóng dân tơc, danh nhân
văn hóa thế giới.
16


10. Quan điểm của HCM về chuẩn mực đạo đức: Cần, kiệm, liêm, chính,

chí cơng vơ tư.
Bài làm:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành
đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo
đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ
Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể
nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người
cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hồn thành được nhiệm
vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Và
“cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” là nội dung cốt lõi của đạo đức cách
mạng, đó là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi
người. Vì vật, Hồ Chí Minh đã đề cập phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên
nhất, phản ánh ngay từ cuốn sách “Đường Cách mệnh” đến bản “Di chúc” cuối
đời.
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” cũng là những khái niệm cũ trong
đạo đức truyền thống dân tộc, được Người lọc bỏ nhưng nội dung không phù
hợp và đưa vào những nội dung mới đáp ứng như cầu cách mạng. Đây cũng là
một biểu hiện cụ thể của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.
“Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”. Muốn cho chữ cần có
nhiều kết quả hơn, thì phải lao động cần cù siêng năng, lao động có kế hoạch, có
năng suất cao, lao động với tinh thần tự lực cách sinh. Phải thấy rõ, “ lao động là
thiêng liêng, là nguồn sống của chúng ta”.
Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, khơng lãng phí. Kiệm là tiết kiệm sức lao
động, khơng phơ trương hình thức. Tuy nhiên tiết kiệm khơng phải là bủn xỉn.
Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải tiết kiệm. Tiết kiệm
phải kiên quyết không xa xỉ”. Cần và kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân

của con người.
Liêm là thanh liêm, trong sạch, liêm khiết. Liêm là không tham lam, không
tham địa vị, tiền tài, sung sướng, khơng ham nịnh hót thì mới quang minh chính
17


đại. Chỉ có một thứ ham là ham học hỏi, ham làm, ham tiến bộ. “Chữ Liêm phải
đi đôi với chữ Kiệm. Có Kiệm mới Liêm được”.
“Chính là thẳng thắn, đứng đắn, ngay thẳng. Con người không được tự kiêu
tự đại, khơng nịnh hót người trên, xem khinh người dưới. Thái độ chân thành,
khiêm tốn, phải theo gương bác. “ Đối với việc nước phải để nên trước việc
nhà” .Việc thiện nhỏ cũng phải làm, việc ác nhỏ mấy cũng phải tránh.
Hồ Chí Minh cho rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt
chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người thực
hành trước để làm kiểu mẫu cho dân.
“Chí cơng vơ tư” là hồn tồn vì lợi ích chung, khơng vì tư lợi, là hết sức
cơng bằng, cơng tâm, khơng thiên vị, ln đặt lợi ích của Đảng của nhân dân lên
trên hết. Chí cơng vơ tư là chống chủ nghĩa cá nhân. Đem lịng vơ tư mà làm
việc, đối xử xã hội.
Chí cơng vơ tư là sự tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính. Nhưng trước hết, cán
bộ phải thực hành chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân”.
Một dân tộc có hết phẩm chất trên là một dân tộc giàu về chất, mạnh về
tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”. Cần, kiệm, liêm, chính còn là nền
tảng của đời sống mới. Người coi đây là bốn đức tính cơ bản của con người,
giống như bốn mùa của trời, bốn phương của đất; “ Thiếu một đức, thì khơng
thành người”.
11. Quan điểm của HCM về chuẩn mực đạo đức Trung với nước, hiếu với
dân.
Bài làm:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành

đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo
đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ
Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể
nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người
cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hồn thành được nhiệm
vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Và
18


phẩm chất “Trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất đạo đức bao trùm quan
trọng nhất và chi phối các phẩm chất khác.
Trung và hiếu là những khái niệm đạo đức cũ đã có từ rất lâu trong tư
tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, phản ánh mối quan hệ
lớn nhất và bao trùm nhất: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Phẩm chất này
được Hồ Chí Minh sử dụng với nội dung mới, rộng lớn: “Trung với nước, hiếu
với dân”, đã tạo nên một cuộc cách mạng sâu sắc trong lĩnh vực đạo đức. Đầu
năm 1946, Người chỉ rõ: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với
cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước,
phải hiếu với toàn dân, với đồng bào”.
Tư tưởng “trung với nước, hiếu với dân” của Người không những kế thừa
giá trị yêu nước truyền thống dân tộc ta mà còn phát triển hơn truyền thống đó.
“Trung với nước” là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Khi
Người đặt vấn đề “ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân…bao nhiêu quyền hạn đều của
dân… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đảng và Chính phủ
là “đầy tớ của dân” chứ khơng phải “quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân
dân”. Quan niệm về nước và dân đã hoàn toàn đảo lộn so với trước, rất ít lãnh tụ

cách mạng đã nói về dân như vậy, càng làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh vượt xa
lên phía trước.
Hồ Chí Minh cho rằng trung với nước phải gắn liên hiếu với dân. Trung
với nước là phải yêu nước, tuyệt đối trung thành với tổ quốc. Hiếu với dân, là
phải thương dân, tin dân, kính trọng dân, học hỏi dân, hết lòng phục vụ dân.
Tuyệt đối không được lên mặt “ quan cách mạng” mà “ra lệnh, ra oai”.
12. Quan điểm của HCM về xây dựng con người
Bài làm:
Trong cuộc sống hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi
trọng vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng, coi đạo đức là cái gốc, cái nền tảng
của người cách mạng. Bác nói rất nhiều về đạo đức, văn hóa cũng như về xây
dựng con người trong thời chiến và thời bình theo nhiều cách khác nhau. Những
hành động cử chỉ của Bác, lời nói đã để lại nhiều bài học cho chúng ta học hỏi.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như việc vận dụng tư tưởng của Người
trong mọi lĩnh vực của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, với sự đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ cách mạng cũng như những con người Việt Nam mới luôn
19


là vấn đề thời sự, thể hiện tính cần thiết, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải tiếp
tục đào sâu suy nghĩ, kiên trì phấn đấu và noi theo.
Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng vừa
cấp bách vừa lâu dài, vừa có ý nghĩa chiến lược. Con người phải được đặt vào vị
trí trung tâm của sự phát triển, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Người đã mượn ý của cố nhân Quản Trọng: “Vì lợi ích trăm năm “trồng
người”. “Trồng người” là cơng việc lâu dài gian khổ, vì lợi ích lâu dài, phải
được tiến hành xuyên suốt trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội và phải đạt
được kết quả cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng. Cơng việc trồng người là
trách nhiệm của Đảng, các đồn thể chính trị xã hội kết hợp tích cực của từng

người.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa, trước hết phải có những con
người của xã hội chủ nghĩa”. Việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa phải
được đặt ra ngay từ đầu và phải xuyên suốt quá trình xây dựng xã hội. Khơng
phải chờ cho kinh tế văn hoá phát triển hay phải xây dựng xong chủ nghĩa xã hội
rồi mới xây dựng con người chủ nghĩa xã hội. Đó là những con người đi trước
làm trước làm gương cho mọi người đi theo. Hồ Chí Minh chỉ rõ:“ Trong bất cứ
phong trào cách mạng nào, tiên tiến là số ít và số đơng là trung gian, muốn củng
cố và mở rộng phong trào, cần phải nâng cao trình độ giác ngộ của trung gian để
kéo chậm tiến”. Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng con người là quan tâm xây dựng con người vừa hồng, vừa
chun. Đó là những con người có mục đích và lối sống cao đẹp, bản lĩnh chính
trị vững vàng. Cần xây dựng theo khía cạnh sau:
Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng
“mình vì mọi người, mọi người vì mình”
Cần kiệm xây dựng đất nước , hăng hái bảo vệ Tổ quốc.
Có lịng u nước nồng nàn, tinh thần quốc thế trong sáng.
Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ,
nêu gương.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân; bồi dưỡng về năng lực trí tuệ, trình độ lý luận
chính trị, văn hố, khoa học- kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ ngoại ngữ, sức
khoẻ.

20


Mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ
chế, tính khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ. Việc nêu gương nhất là

người đứng đầu, có ý nghĩa rất quan trọng, rất cần thiết và bổ ích.
Biện pháp giáo dục có một vị trí quan trọng. Hồ Chí Minh nhắc nhở rằng:
“hiền, giữ của con người không phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà
lên”. Theo Người, các cháu tiểu học, như tờ giấy trắng. Chúng ta vẽ xanh thì
xanh, vẽ đỏ thì đỏ. Nói như vậy để thấy giáo dục rất quan trọng với con người.
Đặc biệt, cần chú trọng vai trị của Đảng, chính quyền, đồn thể quần
chúng thơng qua các phong trào, phải “ dựa vào ý kiến của quần chúng mà sửa
chữa cán bộ và bộ máy của ta’’.
Trong giai đoạn hiện nay, một phần cán bộ Đảng viên, các thanh thiếu niên
đã sai lầm với những chuẩn mực đạo đức, văn hóa suy đồi gây tác hại không nhỏ
đến người khác và sự vững chắc cũng như làm lung lay lòng tin vào Đảng trong
tồn thể nhân dân. Vì vậy giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ và cán bộ Đảng viên
đồng thời khơng ngừng nâng cao trình độ văn hóa khơng nằm ngồi mục đích
xây dựng con người mới xã hội mới đưa đất nước đi lên dân giàu nước mạnh.
13. Quyết định số 117- QĐ/BCSĐTNMT ngày 11 tháng 4 năm 2014 về
quy định các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ công chức, viên chức
và người lao động ngành Tài nguyên và Môi trường.
Bài làm:
1. Với Tổ quốc: trung thành, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
a) Tuyệt đối tin tưởng vào lý tưởng cách mạng, đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam, trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; kiên quyết
chống lại những hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, phá hoại hịa bình, độc lập
của Tổ quốc; tích cực và sẵn sàng tham gia bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
b) Tận tâm, tận lực đóng góp cơng sức, trí tuệ cho cơng tác quản lý nhà
nước về tài nguyên và môi trường, xây dựng ngành tài ngun và mơi trường
chính quy, hiện đại, hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển
bền vững đất nước.
2. Với nhân dân: gần dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, hiểu

dân, phục vụ nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
21


a) Nắm vững quan điểm vì dân, tơn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân; kiên quyết đấu tranh với mọi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân.
b) Gần gũi với nhân dân, khi giao tiếp với cơng dân phải có thái độ lịch sự,
nghiêm túc, khiêm tốn, tôn trọng, lắng nghe, ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn
mực, rõ ràng; không được hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà cho
nhân dân khi thực hiện nhiệm vụ; công tâm, khách quan, tận tình hướng dẫn
nhân dân thực hiện quy trình, thủ tục theo quy định khi giải quyết công việc.
c) Tuyên truyền, giải thích, vận động nhân dân sống và làm việc theo đúng
các quy định của pháp luật về tài nguyên và môi trường.
3. Với công việc: hiểu biết, trách nhiệm, u ngành, u nghề, vượt khó để
hồn thành tốt nhiệm vụ quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường phục vụ phát
triển bền vững của đất nước.
a) Nhận thức rõ vị trí, vai trị, ý nghĩa cơng việc được giao; nắm vững
chuyên môn, thường xuyên cập nhật quy định của pháp luật; khơng ngừng học
tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ và nghiên cứu, đề xuất cải tiến, nâng
cao chất lượng, hiệu quả công việc.
b) Thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, đảm bảo năng suất, chất lượng, hiệu
quả, thời gian theo quy định; báo cáo kịp thời với cấp có thẩm quyền về những
khó khăn, vướng mắc; chịu trách nhiệm về kết quả công việc của mình; khi mắc
khuyết điểm, sai lầm phải dũng cảm tự phê bình, dám nhận khuyết điểm và
nghiêm túc sửa chữa.
c) u ngành, u nghề, tự hào với cơng việc mình đang làm; tận tụy với
công việc, chủ động, sáng tạo, khơng ngừng cống hiến trí tuệ, tài năng; vượt qua
khó khăn hồn thành tốt cơng việc được giao.
4. Với đồng nghiệp: đồn kết, chân tình, thẳng thắn, hợp tác, giúp nhau

cùng tiến bộ.
a) Quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ, chân thành, hỗ trợ, phối hợp với nhau trong
công việc và cuộc sống; tơn trọng tập thể, mình vì mọi người; chống chia rẽ, bè
phái, đố kỵ, chủ nghĩa cá nhân và cục bộ địa phương.
b) Thẳng thắn tự phê bình và phê bình, góp ý với thái độ tích cực, cầu tiến
để cùng nhau rút kinh nghiệm, sửa chữa, thực hiện công việc với chất lượng tốt
hơn.
c) Phục tùng, chấp hành quyết định của cấp trên và của tổ chức.
22


d) Công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý không được lạm dụng chức vụ
để trục lợi; nắm bắt kịp thời tâm lý, phát huy khả năng, kinh nghiệm, tính sáng
tạo, chủ động của công chức, viên chức; thực hành dân chủ, tạo điều kiện học
tập, tôn trọng và xây dựng niềm tin cho công chức, viên chức; bảo vệ danh dự
của công chức, viên chức khi bị phản ánh, khiếu nại, tố cáo không đúng sự thật.
5. Với bản thân: nêu gương cần, kiệm, liêm, chính, sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật, có ý thức sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi
trường.
a) Thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, nói đi đơi với làm;
thường xun tự rèn luyện để có lối sống lành mạnh, trong sáng, giản dị, khiêm
tốn, biết yêu thương những người xung quanh, thường xuyên thực hiện tự phê
bình và phê bình.
b) Gương mẫu chấp hành nội quy, quy định, kỷ cương, kỷ luật của cơ quan,
đoàn thể, nơi cư trú; thực hiện nghiêm các quy định về những điều công chức,
viên chức không được làm theo quy định tại Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên
chức, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
và các quy định khác của pháp luật.
c) Gương mẫu trong sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài ngun, sống thân
thiện với mơi trường; giữ gìn, bảo vệ cảnh quan môi trường.

d) Hướng dẫn, tuyên truyền, vận động người thân trong gia đình chấp hành
đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
14. Tìm hiểu về chủ đề học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức,
phong cách HCM năm 2019: “ Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách HCM về xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân”.
Bài làm:
Mở bài:
Đã 50 năm trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, nhưng tấm
gương, di sản mà Người để lại cho hậu thế vẫn trường tồn với thời gian. Ngày
nay, trong bối cảnh đất nước đổi mới và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu
rộng, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu…, thì việc học tập
và làm theo Bác nói chung, học tập và làm theo tấm gương làm việc trách
nhiệm, khoa học, đổi mới của Bác nói riêng lại càng đặt ra bức thiết.
23


Thân bài:
1 Tìm hiểu mục đích của chủ đề năm 2019
- Tăng cường việc xây dựng ý thức tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ,
chăm lo đời sống Nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
trong cán bộ, đảng viên, nhằm tạo động lực to lớn cho cơng cuộc đổi mới, góp
phần đẩy mạnh xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ
chức và đạo đức, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân, củng cố hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay.
2 Nội dung chủ đề (ngắn gọn)
 Về tư tưởng:

Ý thức tơn trọng nhân dân:

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng Nhân dân xuất phát từ những bài học
lớn được rút ra từ chiều sâu lịch sử dân tộc, như Nguyễn Trãi đã kết luận "Lật
thuyền mới rõ dân như nước". Theo Hồ Chí Minh, tơn trọng Nhân dân trước hết
phải có thái độ đánh giá đúng vai trị, vị trí của Nhân dân. Được lịng dân thì ta
khơng sợ gì cả. Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân. Cùng với thái độ
đánh giá cao vai trị của Nhân dân, ý thức tơn trọng Nhân dân cịn phải đặc biệt
chú ý khơng xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của dân, khơng xúc phạm
Nhân dân.

Phát huy dân chủ:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ là một khía cạnh biểu
hiện ý thức tơn trọng Nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, dân là chủ thì Chính phủ,
Đảng, cán bộ đều phải phụng sự Nhân dân, là công bộc của dân. Từ chỗ đánh
giá cao vai trị của Nhân dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng,
Nhà nước trong việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, làm sao cho họ có
năng lực và dùng quyền dân chủ. Dân chủ được Người giải thích ngắn gọn, súc
tích là dân làm chủ và dân là chủ. Phát huy dân chủ là phát huy tài dân, phải
chịu khó nghe dân, gặp dân, hiểu dân, học dân, hỏi dân.

Chăm lo đời sống:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là vì con người, do con người, trước hết là vì dân
và do dân. Người nói rằng: "Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là
làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn được tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Cách mạng Tháng Tám
thành công, một ngày sau Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đề ra 6 nhiệm vụ
cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm giải quyết những vấn
đề về đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân.
24



 Về đạo đức:

Ý thức tôn trọng nhân dân:
Đạo đức Hồ Chí Minh về tơn trọng Nhân dân thể hiện nổi bật ở sự thống
nhất giữa tư tưởng đạo đức và tư tưởng chính trị của Người. "Ý dân là ý trời”.
Tôn trọng Nhân dân là đề cao ý dân, sức dân. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên
hết lòng, hết sức phục vụ Nhân dân, u kính, tơn trọng Nhân dân.

Phát huy dân chủ:
Dân chủ được hiểu ngắn gọn: dân là chủ và dân làm chủ. Từ chỗ nâng cao
dân trí, bồi dưỡng năng lực làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực
cơng dân, khuyến khích Nhân dân tham gia vào cơng việc của Đảng, Chính phủ,
thì một điều quan trọng là tạo điều kiện cho dân "dùng quyền dân chủ của mình,
dám nói, dám làm" về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, chăm sóc
sức khỏe.

Chăm lo đời sống:
Hồ Chí Minh quan tâm hàng đầu và rất nhất quán về đạo đức. Người để lại
cho chúng ta nhiều phẩm chất đạo đức quý báu, trong đó cao nhất, cốt lõi nhất là
chí cơng vơ tư, tức là nêu cao chủ nghĩa tập thể, từ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Người
nói: "Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích
riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân".
 Về phong cách:

Ý thức tơn trọng nhân dân:
Phong cách Hồ Chí Minh về tôn trọng Nhân dân xuất phát một cách tự
nhiên từ nhân cách, cuộc đời, cái tâm, cái đức vì nước, vì dân của Người. Người
chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị chính đáng của quần
chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình. Phong cách Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ
xuất phát từ chỗ tơn trọng Nhân dân, đề cao vai trị, vị trí của Nhân dân. Dù bận

rất nhiều công việc đối nội, đối ngoại, nhưng về với dân, đến với quần chúng, để
học hỏi dân, hiểu dân, nghe dân nói, thấy dân làm, để nắm vững tâm tình dân là
nhu cầu thường trực của Bác.

Phát huy dân chủ:
Phong cách Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ xuất phát từ chỗ tôn trọng
Nhân dân, đề cao vai trị, vị trí của Nhân dân. Dù bận rất nhiều công việc đối
nội, đối ngoại, nhưng về với dân, đến với quần chúng, để học dân, hỏi dân, hiểu
dân, nghe dân nói, thấy dân làm, để nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý là nhu
cầu thường trực của Bác. Để thực hiện phong cách dân chủ, cần phải hiểu: "Nếu
quần chúng nói mười điều mà chỉ có một vài điều xây dựng, như thế là quý báu
và bổ ích".
25


×