Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

tiểu luận phân tích nội dung cơ bản tư tưởng hồ chí minh về đại đoàn kết dân tộc liên hệ sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam về phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.01 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ….
KHOA …


TIỂU LUẬN
PHÂN TÍCH NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI
ĐỒN KẾT DÂN TỘC? LIÊN HỆ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM VỀ PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN
KẾT TOÀN DÂN TỘC HIỆN NAY?

Họ tên:…………………….
Mã số sinh viên:…………….

- 2021


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
I.
ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết
1.1.
dân tộc
Những nội dung cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
1.2.
dân tộc
LIÊN HỆ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
II.


VIỆT NAM VỀ PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA KHỐI
ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC HIỆN NAY
Đảng ta lãnh đạo phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết
2.1.
toàn dân tộc trong quá trình đổi mới đất nước
Đảng lãnh đạo phát huy vai trị của cả hệ thống chính trị
2.2.
trong xây dựng khối đoàn kết toàn dân đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước
Đồn kết rộng rãi các giai cấp các tầng lớp nhân dân trên cơ
2.3.
sở liên minh cơng - nơng - trí thức
Đảng lãnh đạo tăng cường đoàn kết quốc tế trong quá trình
2.4.
tiến hành cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hội nhập
khu vực và thế giới
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2
2
5
9
9
11
13
14
16

17


MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, là
Người sáng lập, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng của Người về đại
đoàn kết dân tộc là sự kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống dân tộc và thời
đại; là sự sáng tạo những giá trị mới, làm phong phú kho tàng trí tuệ của dân tộc
Việt Nam; là ngọn cờ tập hợp mọi người Việt Nam yêu nước, thiết tha mong muốn
dân tộc được độc lập, đất nước được thống nhất dân chủ và giàu mạnh.
Trong những cống hiến to lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách
mạng Việt Nam, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người là một cống hiến đặc
sắc, có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn hết sức quan trọng là một trong những
nhân tố quan trọng nhất bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay, kế thừa và phát triển tư tưởng đoàn
kết của Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, Đảng ta chủ trương thực hiện đại
đồn kết các dân tộc, tơn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần, mọi giới, mọi lứa
tuổi, mọi thành viên trong đại gia đình Việt Nam, dù sống ở trong nước hay định
cư ở nước ngoài; phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu
nước và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất,
chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; củng cố và phát triển sâu rộng khối đại
đoàn kết toàn dân trong Mặt trận tổ quốc trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp
công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức; xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Do đó, nghiên cứu vấn đề “Phân tích nội dung cơ bản tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc? Liên hệ sự vận dụng của Đảng cộng sản
Việt Nam về phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện
nay?” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.


1


NỘI DUNG
I. NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN
KẾT DÂN TỘC
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc được hình thành
trên những cơ sở tư tưởng - lý luận và thực tiễn rất phong phú
Trước hết là tinh thần yêu nước gắn liền với ý nghĩa cộng đồng, ý thức cố
kết dân tộc, đoàn kết dân tộc đã được hình thành và củng cố trong hàng nghìn
năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cả dân tộc, tạo thành một
truyền thống bền vững, thấm sâu vào tư tưởng tình cảm, tâm hồn của mỗi con
người Việt Nam. Tinh thần ý thức ấy đã tạo nên sức mạnh vô địch của cả một
dân tộc để chiến thắng mọi thiên tai địch họa, làm cho đất nước được trường tồn,
bản sắc dân tộc được giữ vững.
Đối với mỗi người Việt Nam, yêu nước - nhân nghĩa, đồn kết đã trở
thành một tình cảm tự nhiên: Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Tất cả đã ghi đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành
quan hệ ba tầng chặt chẽ: gia đình - làng xã - quốc gia và cũng trở thành sợi dây
liên kết các dân tộc, các giai tầng trong xã hội Việt Nam.
Truyền thống ấy không chỉ được phản ánh trong kho tàng văn học dân
gian, mà còn được những anh hùng dân tộc ở các thời kỳ lịch sử khác nhau như
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trải, Quang Trung đúc kết nâng lên thành phép
đánh giặc, giữ nước, “tập hợp bốn phương manh lệ”, “trên dưới đồng lòng, cả
nước chung sức”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ
bền gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”… Truyền thống ấy được
tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực lượng dân tộc của các nhà yêu nước trong

cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và các thế lực phong kiến tiếp tay
cho ngoại bang, mà tiêu biểu nhất là cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh ở
một phần tư đầu thế kỷ XX.
2


Hồ Chí Minh đã sớm tiếp thu được truyền thống yêu nước đoàn kết của
dân tộc. Người đã khẳng định: từ xưa đên nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì
tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn (đồn
kết), nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước
và lũ cướp nước. Hơn nữa cịn phải phát huy truyền thống đó trong giai đoạn
cách mạng mới của dân tộc: “Phải ra sức giải thích, tuyên truyền tổ chức lãnh
đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào
công việc yêu nước, công việc kháng chiến” [3, tr.190] 1. Về mặt thực tiễn, tư
tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở tổng kết
dân tộc những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào
cách mạng của nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa. Những thành cơng hay thất bại của các phong trào ấy đều
được Người nghiên cứu để rút ra những bài học cần thiết cho việc hình thành tư
tưởng về đại đồn kết dân tộc.
Phong trào yêu nước Việt Nam đã diễn ra rất mạnh mẽ từ khi thực dân
Pháp xâm lược nước ta. Từ các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Yên Thế,
cuối thế kỷ XIX, đến các phong trào Đông Du, Duy Tân. chống thuế đầu thế kỷ
XX đều bị thất bại. Thực tiễn hào hùng, bi tráng của dân tộc đã chứng tỏ rằng,
bước vào thời đại mới chỉ có tinh thần u nước thì khơng thể đánh bại được các
thế lực xâm lược. Vận mệnh đất nước đòi hỏi phải có một lực lượng lãnh đạo
cách mạng mới, đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với quy luật
phát triển của lịch sử và những yêu cầu của thời đại mới, đủ sức quy tụ được cả
dân tộc vào cuộc đấu tranh chống đế quốc thực dân xây dựng được khối đại
đoàn kết toàn dân tộc bền vững thì mới giành được thắng lợi. Trước khi ra đi tìm

đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã thấy được những hạn chế trong việc tập hợp
lực lượng của các nhà lịch sử dân tộc. Đây chính là điểm xuất phát để Hồ Chí
Minh xác định: Tơi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và nước khác. Sau khi
xem họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta.

1 Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.

3


Trong q trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiến hành khảo
sát tình hình các nước tư bản chủ nghĩa và các nước châu lục ở hầu hết các châu
lục. Người đã nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản, đặc biệt là cách mạng Mỹ
và Cách mạng Pháp, nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của giai cấp tư sản cũng
như tại sao các cuộc cách mạng tư sản vẫn chỉ là cách mạng “không đến nơi”.
Tổng kết thực tiễn đấu tranh của các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh thấy rõ sức
mạnh tiềm ẫn to lớn của họ, và cũng thấy rõ những hạn chế: các dân tộc thuộc
địa chưa có được sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đồn kết lại, chưa có tổ chức
và chưa biết tổ chức.
Cách mạng tháng Mười Nga cùng với Lênin, người lãnh đạo thắng lợi
cuộc cách mạng đó, đã đưa Hồ Chí Minh đến bước ngoặt quyết định trong việc
tìm đường cứu nước. Từ chỗ chỉ biết đến cách mạng tháng Mười một cách cảm
tính, Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường cách mạng
tháng Mười, và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đã
đem lại cho phong trào cách mạng thế giới ; đặc biệt là bài học về huy động, tập
hợp lực lượng quần chúng công nông đơng đảo để giành và giữ chính quyền
cách mạng để đánh tan sự can thiệp của 14 nước đế quốc để xây dựng chế độ xã
hội chủ nghĩa, mở ra một thời đại mới cho lịch sử nhân loại. Hồ Chí Minh
nghiên cứu cách mạng tháng Mười khơng chỉ phải qua sách vở, mà còn ngay
trên đất nước của Lênin. Điều này đã giúp Người hiểu sâu sắc thế nào là một

cuộc “cách mạng đến nơi”, để chuẩn bị cho việc lãnh đạo nhân dân Việt Nam đi
vào con đường cách mạng mới những năm sau này.
* Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về
đoàn kết dân tộc
Cở Sở lý luận quan trọng nhất đối với quá trình hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đồn kết dân tộc là những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin:
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử,
giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông
là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn
4


với đồn kết quốc tế, “vơ sản các nước, đồn kết lại”, “vô sản tất cả các nước và
các dân tộc bị áp bức, đồn kết lại”... [1, tr.178]2.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin là vì chủ nghĩa Mác-Lênin, đã
chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng, đã chỉ ra sự cần thiết
và con đường tập hợp, đoàn kết các lực lượng cách mạng trong phạm vi từng
nước và trên thế giới để giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc đấu tranh chống đế
quốc chủ nghĩa thực dân. Nhờ đó Người đã có cơ sở khoa học để đánh giá chính
xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong
tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà
cách mạng lớn trên thế giới, những bài học rút ra từ cách mạng các nước, từ đó
hình thành và hoàn chỉnh tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc.
1.2. Những nội dung cơ bản của Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc
* Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định
thành cơng của cách mạng
Tư tưởng đại đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược, nó
là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt q trình cách mạng Việt Nam,
đó là chiến lược tập hợp lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức

mạnh to lớn của tồn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc, giai cấp.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải
điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với những đối tượng
khác nhau, nhưng đại đồn kết dân tộc phải ln được nhận thức là vấn đề sống
cịn của cách mạng. Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm có tính chân lý:
Đoàn kết làm ra sức mạnh; “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”.“Đoàn
kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của
thành cơng”.

2 C.Mác và Ph.ăng-ghen tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1976.

5


Đoàn kết là điểm mẹ. “Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều
tốt”. Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết, Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng” [4,
tr.154]3.
* Đại đồn kết dân tộc là mục tiêu, một nhiệm vụ hàng
đầu của cách mạng
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, lực lượng lãnh đạo cách mạng duy nhất đối
với cách mạng Việt Nam. Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng lao động
Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tun bố trước tồn
thể dân tộc: “Mục đích của Đảng lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là: Đoàn
kết toàn dân, phụng sự tổ quốc” [5, tr.192] 4. Nói chuyện với cán bộ tuyên huấn
miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người chỉ rõ: Trước cách mạng Tháng
Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các
dân tộc hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng
chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thơi. Bây giờ mục đích tun truyền huấn
luyện là: “Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh

thống nhất nước nhà”.
Đại đồn kết dân tộc khơng phải chỉ là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng
đầu của Đảng mà cịn là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc.
Như vậy đại đồn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của bản thân quần
chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng, là sự nghiệp của quần
chúng, do quần chúng, vì quần chúng, Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng
dẫn chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những địi
hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vơ địch trong cuộc đấu
tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
* Đại đoàn kết dân tộc là đại đồn kết tồn dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các khái niệm Dân, Nhân dân, có nội hàm
rất rộng. Người dùng các khái niệm này để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “mỗi
3 Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
4 Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.

6


một người con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa
số, người tín ngưỡng với người khơng tín ngưỡng, khơng phân biệt “già, trẻ, gái
trai, giàu nghèo, quý tiện”. Như vậy, Dân, Nhân dân vừa là một tập hợp đông
đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể, và cả hai đều
là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. Nói đến đại đồn kết dân tộc cũng có nghĩa
là phải tập hợp đựơc mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung.
Người đã nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập
của tổ quốc; ta phải cịn đồn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có
sức, có lịng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”. Ta ở
đây vừa là Đảng, vừa là mọi người dân của tổ quốc Việt Nam. Với tinh thần
đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng
cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình của cách mạng

Việt Nam.
* Đại đồn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, thơng qua
tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất
Đại đồn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở
những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu
hiệu của tồn Đảng, tồn dân ta. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức.
Tổ chức thể hiện khối đồn kết dân tộc chính là mặt trận dân tộc thồng nhất.
Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức
mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại
thành một khối vững chắc và hoạt động theo đường lối chính trị đúng đắn. Nếu
khơng thế, quần chúng nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu con người cũng chỉ
là một số đơng khơng có sức mạnh. Thất bại của phong trào yêu nước trước kia
đã chứng minh rất rõ vấn đề này.
Ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến
việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng
giai tầng, từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo; hơn nữa còn
phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng. Đó là các hội hữu
ái, hay tương trợ, cơng hội hay nơng hội, đồn thanh niên hay phụ nữ, đội thiếu
7


niên nhi đồng hay hội phụ lão, hội phật giáo cứu quốc, cơng giáo u nước hay
hội nghiệp đồn, vv.. Và bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất, nơi quy
tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi con dân nước Việt, không phải
chỉ ở trong nước mà còn bao gồm cả những người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất
nước, về tổ quốc Việt Nam.
Tuỳ theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Mặt trận dân tộc thống
nhất có thể có những tên gọi khác nhau; Hội phản đế đồng minh (1930), Mặt
trận dân chủ (1936), Mặt trận nhân dân phản đế (1939), Mặt trận việt minh

(1941), Mặt trận liên việt (1946), Mặt trận giải phóng Miền Nam (1960), Mặt
trận tổ quốc Việt Nam (1955), (1976), nhưng thực chất chỉ là một, đó là tổ chức
chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo,
đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong nước và nước ngoài, phấn
đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của tổ quốc và tự do, hạnh phúc
của nhân dân. Mặt trận phải có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu cầu, nhiệm
vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng.
* Đảng cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất,
lại vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết tồn
dân ngày càng vững chắc.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam không phải chỉ là sản phẩm
của sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào cơng nhân, mà cịn với
cả phong trào u nước Việt Nam. Bởi lẽ, Đảng ra đời trong bảo táp cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân gắn chặt với cuộc đấu tranh của cả dân tộc. Những
người tham gia Đảng cộng sản không phải chỉ là những người tiên tiến thuộc
giai cấp công nhân, mà số đông lại là những người tiên tiến thuộc giai cấp nông
dân, tiểu tư sản, các tầng lớp lao động chân tay và trí óc, kể cả những người vốn
thuộc các giai cấp bóc lột đã từ bỏ lợi ích và hệ tư tưởng của giai cấp mình, giác
ngộ lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Đảng vừa là Đảng của
giai cấp công nhân, lại vừa là Đảng của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Luận điểm này của Hồ Chí Minh hồn tồn khác với luận điểm về “đảng toàn
8


dân” của những người theo chủ nghĩa xét lại đã nêu ra trong những năm 60 của
thế kỷ XX. Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp
cơng nhân vì Đảng mang bản chất giai cấp công nhân và “lấy chủ nghĩa MácLênin làm gốc”. Là Đảng của nhân dân lao động và của cả dân tộc, vì Đảng ra
đời trong lịng giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động, đại biểu cho cả lợi ích
dân tộc. Hơn nữa, trong cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng đặt lợi ích dân tộc
lên trên hết và trước hết, vì nếu khơng giành được độc lập cho dân tộc thì lợi ích

của giai cấp cơng nhân “ngàn vạn năm cũng không giải quyết được” [6, tr.290]5.
* Đại đoàn kết dân tộc phải gắn với đại đoàn kết quốc tế
Chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân, đây cũng là tư tưỏng lớn của Hồ Chí Minh. Khi tìm
thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt Nam
là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam chỉ có thể giành
được thắng lợi khi đồn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới.
Trong những năm chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
Người đã nêu rõ “phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi”. Từ
đó về sau, tư tưởng của Người về đoàn kết với phong trào cách mạng thế giới
càng làm được rõ hơn và đầy đủ hơn. Trong kháng chiến chống chủ nghĩa đế
quốc thực dân, tư tưởng Hồ Chí Minh đã định hướng cho ba tầng Mặt trận: Một
là, Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Hai là,Mặt trận đoàn kết Việt - Miên -Lào; Ba
là, Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Đây thực sự là sự phát triển rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh
II. LIÊN HỆ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ PHÁT HUY SỨC MẠNH CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN
TỘC HIỆN NAY
2.1. Đảng ta lãnh đạo phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết tồn
dân tộc trong q trình đổi mới đất nước
5 Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011

9


Kế thừa và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, ngay
từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn luôn coi trọng củng cố và mở
rộng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế,

sức mạnh truyền thống với sức mạnh thời đại, lãnh đạo nhân dân Việt Nam liên
tiếp giành đựơc thắng lợi vĩ đại trong cuộc đấu tranh vì độc lập của tổ quốc, tự do,
hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết dân tộc là một bộ phận quan trọng của tư
tưởng Hồ Chí Minh là đường lối căn bản lâu dài trước sau như một của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bài học lớn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong hơn 90 năm qua; khi nào Đảng nắm vững và dương cao
ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất
thì phát huy được sức mạnh của dân tộc, khó khăn mấy cũng vượt qua và cách
mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngược lại, khi nào buông lỏng
ngọn cờ độc lập dân tộc, coi nhẹ vấn đề đại đoàn kết dân tộc, thậm trí sai lầm về
chính sách dân tộc thì cách mạng gặp khó khăn.
Trong hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhờ đồn kết một lịng,
kiên cường phấn đấu, nhân dân ta đã vượt qua khó khăn, thử thách, tiếp tục
giành được những thành tựu quan trọng: kinh tế tiếp tục phát triển nhanh; văn
hoá xã hội có những tiến bộ mới; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện;
chính trị xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh quốc gia được giữ vững; quan hệ
đối ngoại được mở rộng; việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đạt kết quả tốt.
Những thành tựu nêu trên là điều kiện hết sức quan trọng để tăng cường
và tiếp tục mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân và tạo điều kiện thuận
lợi để chủ trương đại đoàn kết dân tộc của Đảng tiếp tục đi vào cuộc sống và đã
thu được những kết quả tốt đẹp. Đó là: sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong
nhân dân tăng lên, trở thành một nhân tố căn bản bảo đảm sự ổn định chính trị
xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển và tiếp tục nâng cao đời sống của đại
bộ phận nhân dân; liên minh cơng nơng trí thức được mở rộng và mang nội dung
mới là chủ động hợp tác giữa lao động trí óc và lao động chân tay chặt chẽ hơn
10


để cùng sản xuất ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn và có chất lượng cao

hơn cho xã hội.
Cùng với những chính sách thơng thống, sản phẩm của tư duy mới về
kinh tế, là các hình thức biện pháp xã hội hố các hoạt động và chính sách xã hội
như: xố đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, từ thiện nhân đạo, cứu giúp đồng
bào những vùng bị bảo lụt thiên tai, vv… đã góp phần củng cố niềm tin của đại
bộ phận nhân dân đối với Đảng, với chế độ, củng cố và tăng cường khối đại
đoàn kết tồn dân.
Sự đổi mới từng bước hệ thống chính trị, việc tăng cường dân chủ hoá đời
sống xã hội, nhất là việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo điều kiện để
các tầng lớp nhân dân tham gia ngày càng đông đảo vào các sinh hoạt chính trị
của đất nước, góp phần xố bỏ những ngăn cách do lịch sử để lại đã có tác dụng
tốt làm cho các thành viên trong xã hội cởi mở, xích lại gần nhau hơn, có lợi cho
việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
2.2. Đảng lãnh đạo phát huy vai trị của cả hệ thống chính trị trong
xây dựng khối đoàn kết toàn dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước
Để phát huy tinh thần đồn kết dân tộc trong tình hình hiện nay, điều kiện
quyết định là phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Lịch sử cách mạng Việt
Nam đặt lên vai giai cấp công nhân nước ta sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề dân tộc, dân chủ bao
giờ cũng mang một nội dung giai cấp cụ thể. Giai cấp nào tiêu biểu nhất cho lợi
ích dân tộc và dân chủ của quần chúng nhân dân thì mới lãnh đạo được cách
mạng, mới xây dựng và và phát huy được khối đại đoàn kết tồn dân tộc. Trong
thời đại mới, giai cấp cơng nhân đã trở thành giai cấp tiêu biểu nhất cho lợi ích
dân tộc và dân chủ, là giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta đi đến thắng lợi triệt để. Vì vậy, chỉ có giai cấp cơng nhân
Việt Nam mới có khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay và trong suốt quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh
11



chính trị của các đồn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, các
tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo; là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân. Đảng cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt
trận. Đảng cộng sản Việt Nam với tư cách là người lãnh đạo, Đảng trình bày
những chính sách, chủ trương lớn để các thành viên của Mặt trận xem xét, tham
gia. Đảng chân thành, coi trọng lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp của Mặt
trận để bổ sung hồn thiện các chủ trương, chính sách. Đồng thời Đảng cũng bàn
bạc với Mặt trận thống nhất chương trình kế hoạch vận động nhân dân thực hiện
theo nguyên tắc “hiệp thương dân chủ, thống nhất hành động” [2, tr.65] 6. Yêu
cầu cấp bách hiện nay là lãnh đạo kiểm tra nội dung đổi mới phương thức hoạt
động của Mặt trận, của các đoàn thể cho phù hợp với nhu cầu và điều kiện lao
động của nhân dân trong nền kinh tế nhiều thành phần. Thơng qua Đảng đồn và
đảng viên hoạt động trong các đồn thể, thơng qua bàn bạc, vận động, thuyết
phục mà đảng lãnh đạo các đoàn thể quần chúng.
Để đáp ứng yêu cầu đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, chăm
lo lợi ích của đoàn viên, hội viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội. Mặt trận
và các đoàn thể tích cực đổi mới phương thức hoạt động, chuyển từ lối chỉ đạo
theo kiểu hành chính sang lối hoạt động sát cơ sở, sát quần chúng, coi trọng điều
tra, khảo sát, tìm hiểu tâm lý, nguyện vọng của từng đối tượng quần chúng; gắn
bó với quần chúng với thực tế cơ sở; tuỳ theo khả năng có bước đi thích hợp
thực hiện xã hội hoá nội dung hoạt động và đa dạng hố hình thức tổ chức vận
động quần chúng.
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong những năm tới cần được tiếp tục
đổi mới về tổ chức và hoạt động để thực sự góp phần thực hiện dân chủ và đổi
mới xã hội, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; tham gia các công
việc quản lý của Nhà nước; giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữ
Đảng và Nhà nước với nhân dân. Các đoàn thể tiếp tục nhiệm vụ giáo dục chính
trị tư tưởng, đạo đức mới, động viên phát huy tính tích cực xã hội của các tầng

6 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.

12


lớp nhân dân, đoàn kết toàn dân, phấn đấu cho sự thành cơng của cơng cuộc đổi
mới. Vai trị của Mặt trận tổ quốc là cực kỳ quan trọng trong việc củng cố và
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.3. Đoàn kết rộng rãi các giai cấp các tầng lớp nhân dân trên cơ sở
liên minh cơng - nơng - trí thức
Trong cơng cuộc đổi mới đất nước ngồi hai giai cấp cơng nhân và nơng
dân ra, trí thức cũng là một tầng lớp đóng vai trị quan trọng trong việc xây dựng
và phát triển nền kinh tế, xã hội của đất nước, trí thức trở thành tầng lớp ngày
càng đông đảo, họ là con em của nhân dân lao động, và trong nền cơng nghệ sản
xuất mới, cơng nhân trí thức trực tiếp điều khiển guồng máy sản xuất, vì vậy cần
thực hiện liên minh cơng-nơng- trí thức và lấy liên minh này làm nịmg cốt của
khối đồn kết tồn dân, làm nịng cốt của lực lượng cách mạng.
Thực hiện đoàn kết rộng rãi “tầng lớp trên” với quần chúng nhân dân lao
động, giữa giàu với nghèo địi hỏi phải có giải pháp và chính sách khéo léo. Về bản
chất lợi ích của “tầng lớp trên” đối với công nhân, nông dân và lao động, nhưng
cần tranh thủ cả tầng lớp trên nhất là những cá nhân có uy tín trong quần chúng.
Đồn kết với các dân tộc ít người trên cơ sở thực hiện chính sách bình
đẳng giữa các dân tộc anh em, làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng núi
cao tiến kịp đồng bằng về kinh tế, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi,
hay tự ti dân tộc. Đồn kết nhân dân các dân tộc ít người đồng thời giáo dục, cải
tạo, giúp đỡ họ, khắc phục những thiếu sót của họ, tranh thủ những người có uy
tín đối với đồng bào các dân tộc ít người như già bản, già làng, trưởng tộc… là
điều cực kì cần thiết.

Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
cần phải coi trọng vấn đề đoàn kết các dân tộc (tức các thành phần dân tộc) cùng
sống chung trên lãnh thổ Việt Nam. Đồn kết giữa dân tộc ít người với dân tộc
kinh có tầm quan trọng và có ý nghĩa chiến lược và cần phải coi là một quốc
sách trong giai đoạn hiện nay và cả trong tương lai. Các dân tộc ở nước ta có
chung một quốc gia thống nhất, mỗi thành phần dân tộc ở nước ta là một bộ
13


phận của cộng đồng Việt Nam. Điều đó cần phải được nhận thức một cách sâu
sắc với mỗi người Việt Nam.
Đồn kết các dân tộc ln gắn liền với quyền lợi của quốc gia dân tộc là
để xây dựng đất nước giàu mạnh, tiến kịp với nền văn minh nhân loại. Song
cũng vì là sự phát triển của mỗi dân tộc thành viên. Đoàn kết các dân tộc hướng
về một mục đích là làm cho đời sống các dân tộc khơng ngừng được nâng cao,
xố bỏ từng bước sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc.
Để đồn kết đồng bào có đạo cần phải có những chính sách tự do tín
ngưỡng đi đơi với giáo dục nâng cao trình độ văn hố, cải thiện đời sống vật
chất, tinh thần cho họ, giúp giáo dân, phật tử cùng góp ích cho đời, cho đạo, cần
phải phân biệt tín ngưỡng với mê tín dị đoan và tự do tín ngưỡng với việc lợi
dụng tơn giáo đi ngược lại chính sách pháp luật Nhà nước và lợi ích của dân tộc,
cũng như tránh nhầm lẫn giữa chức tước với tơn giáo.
Chúng ta cịn cần phải mở rộng đồn kết, tranh thủ cả cộng đồng người
Việt Nam định cư ở nước ngoài; khơi dậy ý thức độc lập tự cường dân tộc và
tinh thần yêu nước để phát triển đất nước và ngăn chặn những âm mưu thù địch
và thủ đoạn phá hoại của các thế lực phản động quốc tế đối với Việt Nam.
2.4. Đảng lãnh đạo tăng cường đồn kết quốc tế trong q trình tiến
hành cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hội nhập khu vực và thế giới
Chúng ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế. Phương châm của chúng ta là phát huy tối đa nội lực

và tận dụng tối đa ngoại lực. Giữ gìn truyền thống văn hiến là giữ gìn được bản
sắc dân tộc, là duy trì được tính độc lập, tư chủ. Kế thừa phát huy truyền thống
dân tộc lại càng cần thiết trong thời đại tồn cầu hóa và hội quốc tế. Chỉ có qn
triệt thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế của Hồ Chí
Minh và đường lơí đối ngoại của Đảng; đặt trong mối liên hệ hữu cơ mật thiết
với an ninh, quốc phịng, với ổn định chính trị xã hội và phát triển kinh tế phục
vụ đắc lực cho công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mới có thể
đảm bảo để hội nhập mà khơng bị hịa tan, khơng đánh mất mình, hội nhập quốc
tế mà giữ gìn và phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc.
14


Kiên trì phấn đấu theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn,
Đảng và nhân dân ta tiếp tục kế thừa và phát triển tư tưởng đại đoàn kết dân tộc
của Người trong điều kiện mới. Hiện nay đối diện trực tiếp với dân tộc là giặc
đói giặc dốt, nghèo nàn lạc hậu, chủ nghĩa bình qn, thói cục bộ địa phương….
song đông đảo nhân dân ủng hộ đường lối đổi mới của Đảng, cục diện chính trị
nước ta ổn định, và có nhiều tiềm năng để phát triển. Tình hình chính trị thế
giới, bên cạnh những thuận lợi: quan hệ nước ta với nhiều nước được cải thiện,
mở ra triển vọng từng bước bình thường hố cịn có những mặt mới phức tạp tác
động vào nước ta. Các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hồ bình”,
kích động việc thực hiện đa ngun chính trị, gây chia rẽ nội bộ hịng xố bỏ sự
lãnh đạo của Đảng và làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc. Trước tình hình
mới địi hỏi cần phải tăng cường hơn nữa khối đoàn kết toàn dân, động viên
được lực lượng của mọi tầng lớp nhân dân và việc thực hiện mục tiêu xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc đưa sự nghiệp đổi mới đất nước đến thắng lợi.

15



KẾT LUẬN
Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới,
là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta. Tư tưởng đoàn kết dân tộc của Người là
sự kế thừa và phát triển những giá trị tinh thần và vật chất của các thế hệ và các
thời đại; là sự sáng tạo những giá trị mới, làm phong phú kho tàng trí tuệ của
dân tộc Việt Nam. Tư tưởng đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là ngọn cờ tập
hợp mọi người Việt Nam yêu nước, thiết tha mong muốn đất nước được độc lập,
thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện đã
nhận thức ngày càng đầy đủ những giá trị truyền thống của dân tộc, tinh thần
yêu nước sâu sắc, tính cộng đồng bền vững, nền văn hố giàu tính nhân văn và
đậm đà bản sắc văn hố dân tộc, cùng những đặc điểm kinh tế xã hội của Việt
Nam để tìm ra những hình thức tập hợp, đồn kết hết thảy mọi thành phần, lực
lượng mọi thành phần, lực lượng yêu nước, thực hiện thắng lợi cách mạng giải
phóng dân tộc, đưa đất nước đi lên theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Đại đoàn kết dân tộc là đoàn kết lâu dài, đoàn kết thành thật và giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ, quá trình xây dựng khối đại đồn kết cịn là q trình đấu
tranh với những nhận thức sai trái lệch lạc như hẹp hòi định kiến, chống khuynh
hướng đồn kết một chiều vơ ngun tắc. Thực hiện phê bình và tự phê bình một
cách thẳng thắn, chân tình, đồng thời dùng những thành phần tiên tiến để thuyết
phục lôi cuốn những thành phần chậm tiến là biện pháp cơ bản để xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc. Giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo đồng thời tăng cường
khối liên minh cơng nơng, trí thức trong khi mở rộng đoàn kết dân tộc. Đảng
phải là trung tâm và liên minh cơng, nơng, trí thức là nền tảng của đại đoàn kết
dân tộc nhằm tập hợp rộng rãi lực lượng, tạo thành sức mạnh tổng hợp thực hiện
thắng lợi công cuộc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc
tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

16



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 1976.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
4. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
5. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
6. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2011.

17



×