Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

kỹ thuật bắt và nuôi ong mật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 64 trang )



TRƯỜNG
KHOA………………


WX


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

Đề tài

Kỹ thuật bắt và nuôi
ong mật










1
MỤC LỤC
Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục 1


Danh sách từ viết tắt 3
Phần 1: MỞ ĐẦU 4
1. Giới thiệu 4
2. Mục tiêu nghiên cứu 5
3. Nội dung nghiên cứu 5
Phần 2: PHẦN NỘI DUNG 6
Chương 1 : LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1. Điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội huyện Châu Thành 6
1.1.1. Điều kiện tự nhiên 6
1.1.2. Kinh tế - xã hội 6
1.1.3. Thu thập số liệu cây nguồn mật của huyện 7
1.2. Giới thiệu chung về ong mật (Apis cerana) 9
1.3. Ong mật trong hệ thống phân loại 10
1.4. Cấu tạo ong mật 10
1.5. Tổ chức xã hội đàn ong 12
1.5.1.Các thành viên của đàn ong 12
1.5.2. Sự điều hoà hoạt động của đàn ong 14
1.6. Cấu trúc tổ ong 16
1.7. Phương pháp bắt ong mật (Apis cerana) về nuôi 17
1.8. Kỹ thuật nuôi ong mật (Apis cerana) 18
1.8.1. Nuôi ong theo kỹ thuật cổ truyền 18
1.8.2. Nuôi ong theo phương pháp hiện đại 20
1.8.3. Chọn chỗ đặt ong trong vườn nhà 21
1.9. Ong bốc bay và biện pháp phòng tránh 22
1.9.1. Tác hại do ong bốc bay 22
1.9.2. Nguyên nhân ong bốc bay 22
1.9.3. Nhận biết ong bốc bay 22
1.9.4. Xử lý ong bốc bay 23
1.10. Các bệnh ở ong và phương pháp phòng trị 23
1.10.1. Bệnh thối ấu trùng 23

1.10.2. Bệnh thối ấu trùng châu Âu 23
1.10.3. Bệnh ong ỉa chảy 24
1.10.4. Bệnh sâu phá tổ 24
1.10.5. Một số bệnh, sâu hại và thiên địch khác 24
1.11. Thu mật ong 25
2.11.1. Chuẩn bị dụng cụ 25
2.11.2. Lúc nào thì quay được mật 25
2.11.3. Thao tác khi quay mật 26
2.11.4. Năng suất mật của đàn ong 26
2.12. Cách sơ cứu khi bị ong chích 26
Chương 2: PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian và địa điểm 28

2
2.2 Phương tiện nghiên cứu 28
2.2.1. Dụng cụ bắt ong 28
2.2.2. Dụng cụ nuôi ong 28
2.2.3. Dụng cụ lấy mật
2.3. Phương pháp nghiên cứu 29
2.4.1. Phương pháp bắt ong 29
2.4.2. Phương pháp nuôi ong 29
2.4.6. Năng suất mật của đàn ong 32
2.4.7. Phương pháp xử lý số liệu 33
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Phương pháp làm ong bốc bay 34
3.2. Phương pháp bắt ong khi dùng nhan ở các nồng độ khói (số cây nhan) khác
nhau 36
3.3. Ảnh hưởng của loại cột điện đến thời gian bắt ong 38
3.4. Xét mối tương quan giữa thời gian bắt ong và khối lượng tổ ong 39
3.5. Phương pháp nuôi ong 39

3.5.1. Nuôi ong bằng thùng muốt và chậu đất nung 39
3.5.2. Ảnh hưởng của nồng độ khói nhan đến năng suất mật ong 41
3.5.3. Ảnh hưởng của thời gian bắt ong đến năng suất mật ong 41
3.6. Ảnh hưởng của nồng độ khói nhan đến khối lượng mật/trọng lượng ong bắt
được 42
3.7. Ảnh hưởng của thời gian bắt ong đến khối lượng mật/trọng lượng ong bắt được
43
3.8. Cách bắt ong trong trụ điện và nuôi ong bằng các vật liệu địa phương 44
3.8.1. Cách bắt ong trong trụ điện 44
3.8.2. Phương pháp nuôi ong bằng các vật liệu địa phương 51
3.9. Các vấn đề thường gặp trong bắt ong 56
3.9.1. Hiện tượng ong bốc bay 56
3.9.2. Hiện tượng bắt tổ ong nhiều chúa 57
Phần 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 59
1. Kết luận 59
2. Kiến nghị 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62

3
DANH SÁCH TỪ VIÊT TẮT

Từ viết tắt Tên đầy đủ
9 – HDA Axit 9 hiđroxy 2 dexenoic
9 – ODA Axit 9 oxy 2 decenoic
GDP Gross Domestic Product( tổng sản phẩm
quốc nội)
TN&MT Tài nguyên và môi trường
TT Thị trấn




4
Phần 1: MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu
Ong mật đã xuất hiện trên trái đất từ 20 - 25 triệu năm trước, tuy nhiên con nguời
chỉ mới biết nuôi ong cách nay khoảng 3.500 năm. Người Châu Âu, Châu Phi, Châu
Á biết nuôi ong từ lâu, sau đó mới tới người Châu Mỹ và Châu Úc [13].
Ở nước ta, nghề nuôi ong mật đã xuất hiện từ rất lâu, tuy nhiên đến giữa thế kỉ 19
nghề nuôi ong mật của nước ta vẫn còn ở trong giai đoạn mới bắt đầu và trong
những năm gần đây nghề nuôi ong mật có sự phát triển nhanh cả về số lượng đàn và
sản lượng mật thu được. Đó là nhờ chính sách của nhà nước về đầu tư cho công
tác nghiên cứu, khuyến nông về ong mật và mở rộng thị trường xuất khẩu các sản
phẩm ong mật [1].
Nuôi ong mật vốn đầu tư không nhiều nhưng nguồn lợi thu về lại cao, vì những sản
phẩm do ong mật tạo ra như mật ong, phấn hoa, sáp ong và sữa ong chúa đều là
những sản phẩm thiết yếu đối với đời sống con người. Ngoài ra, mật ong còn được
sử dụng trong sản xuất rượu vang [18]. Bên cạnh những lợi ích đó, ong mật còn
đem lại cho chúng ta một lợi ích vô cùng to lớn và thiết thực mà mãi về sau này con
người mới biết đến, đó là ong mật giúp thụ phấn cho hoa nên cây trồng của nhà
nông được tăng thêm năng suất [12].
Huyện Châu Thành – Đồng Tháp là nơi đất đai trù phú, có nhiều vườn cây ăn trái
bạt ngàn như nhãn, quýt,… các loài cây này cho trái quanh năm, tạo ra nguồn mật
hoa ổn định, nên rất thuận lợi cho việc phát triển nghề nuôi ong mật nơi đây.
Ong mật sống trong tự nhiên vẫn có thể thu mật được, tuy nhiên việc chăm sóc và
kiểm soát đàn ong rất khó khăn và điều quan trọng là rất khó thu mật vì ong mật
thường làm tổ ở những cột điện, hốc cây cổ thụ và những nơi kín đáo. Vì vậy, để
tạo điều kiện chăm sóc, kiểm soát đàn ong mật dễ dàng hơn cũng như tăng khả năng
thu mật ong và kết hợp với việc gia tăng khả năng thụ phấn cho các vườn cây ăn
trái, việc bắt ong mật về nuôi là một điều rất cần thiết và mang lại nhiều lợi ích.
Từ những lợi ích đã nêu trên, việc bắt ong và tận dụng các vật liệu sẵn có như thùng

muốt, chậu kiểng đất nung, để nuôi ong mật là một điều thiết thực và có thể tăng
thu nhập cho người dân, đó chính là lý do để chọn đề tài “Tìm phương pháp bắt
ong mật (Apis cerana) và nuôi ong bằng các vật liệu thùng muốt và chậu kiểng
bằng đất nung, ở quy mô hộ gia đình ở Châu Thành – Đồng Tháp”.

5
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm phương pháp bắt ong mật (Apis cerana) ngoài tự nhiên về nuôi.
- Tận dụng các vật liệu sẵn có ở hộ gia đình như thùng muốt, chậu kiểng
bằng đất nung nuôi ong mật đạt hiệu quả kinh tế.
3. Nội dung nghiên cứu
- Tiến hành thực hiện các phương pháp bắt ong khác nhau để tìm phương
pháp bắt ong nhanh và hiệu quả.
- Thực hiện nuôi ong với các vật liệu khác nhau (Chậu kiểng bằng đất nung,
thùng muốt) ở quy mô hộ gia đình => tìm được phương phương pháp nuôi cũng như
cách chăm sóc và thu hoạch mật ong đạt hiệu quả kinh tế cao.

6
Phần 2: PHẦN NỘI DUNG
Chương 1 : LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1. Điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội huyện Châu Thành
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Châu Thành là một huyện nằm ở phía Đông Nam tỉnh Đồng Tháp, có diện tích tự
nhiên là 245,94 km
2
và dân số năm 2005 là 164.248 người chiếm 7.3 % diện tích
và 10.% dân số toàn tỉnh.
- Có 12 đơn vị hành chính : 01 thị trấn (TT. Cái Tàu) và 11 xã
- Toạ độ địa lý:
Từ 10

o
08’ đến 10
o
18’ vĩ độ Bắc.
Từ 105
o
42’ đến 105
o
59’ kinh độ Đông.
- Tứ cận:
· Phía Đông Bắc giáp tỉnh Tiền Giang
· Phía Tây Bắc giáp huyện Cao Lãnh và thị xã Sa Đéc
· Phía Đông và phía Nam giáp tỉnh Vĩnh Long
- Mùa mưa từ tháng 5 - 11 trùng với hướng gió thịnh hành là gió mùa Tây - Nam.
Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau trùng với hướng gió mùa Đông – Bắc.
- Châu Thành có địa hình tương đối bằng phẳng, có hướng dốc nghiêng dần từ sông
Tiền vào nội đồng theo hướng Bắc – Nam.
- Nhiệt độ trung bình năm khá cao (khoảng 27
o
C và tháng 4 cao nhất khoảng
37.1
o
C, tháng 01 thấp nhất khoảng15.8
o
C.
- Độ ẩm không khí cao và ổn định, ít biến đổi qua các năm bình quân cả năm
82.5%.
- Lượng bốc hơi trung bình là 3-5 mm/ngày, cao nhất là 6-8 mm/ ngày.
- Châu Thành là vùng có số giờ nắng cao, bình quân 208 giờ/ tháng.
1.1.2. Kinh tế - xã hội

a) Tăng trưởng kinh tế
- Năm 2001 tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6.57% chặn được đà suy giảm về tốc độ
tăng trưởng kinh tế và mở ra giai đoạn phát triển liên tục về sau:




7
Bảng 1.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện.
Năm 2002 2003 2004 2005
Tăng 8.01% 8.44 % 11,91% 13.15%,
(Nguồn phòng TN&MT Châu Thành năm 2009)
- Chưa đạt chỉ tiêu đề ra 11% và cao hơn tốc độ tăng bình quân 5 năm trước 5.07%.
- Đến năm 2005, tổng giá trị GDP tính theo giá so sánh 1994 ước đạt 798 tỷ đồng
tăng gấp 1.3 lần so với năm 2000; GDP bình quân đầu người đạt 3.825 triệu đồng,
tương đương 346 USD.
b) Thực trạng phát triển ngành trồng trọt
Ngành trồng trọt đang từng bước đi vào chiều sâu với việc thâm canh tăng vụ, đẩy
mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, góp phần giảm chi phí,
hạ giá thành nâng cao năng suất, chất lượng và sản lượng nông sản hàng hoá.
Bảng 1.2: Diện tích trồng lúa giảm.
Năm 2001 2002 2003 2004 2005
Diện tích (ha) 22.084,5 22.052,8 21.854,6 21.783,1 14.017
(Nguồn phòng TN&MT Châu Thành năm 2009)
- Do giá trị kinh tế của cây lúa đang ngày một thấp, nên nông dân đã chuyển sang
trồng các loại cây khác có giá trị kinh tế cao hơn như cây ăn trái hoặc chuyển sang
sử dụng đất vào mục đích khác như nuôi trồng thủy sản, sang đất sản xuất kinh
doanh .
1.1.3. Thu thập số liệu cây nguồn mật của huyện
Hiện trạng các vườn cây ăn trái của huyện được phân bố rộng khắp ở huyện. Tuy

nhiên tập trung nhiều ở một số xã chủ yếu với nhiều loài cây khác nhau. Theo thống
kê của phòng nông nghiệp huyện Châu Thành năm 2009 thì diện tích và phân bố
các vườn cây ở các xã trong huyện như bảng sau:








8
Bảng 1.3: Diện tích các loại cây và vườn cây phân bố trong huyện.
Đơn vị tính: ha
TT Các xã, thị trấn Tổng Diện tích
Tổng 6239,90
1
TT.Cái Tàu
294,04
2
An Hiệp
666
3
An Khánh
755,39
4
An Nhơn
1.196,65
5
An Phú Thuận

552,50
6
Hòa Tân
405,86
7
Phú Hựu
496,25
8
Phú Long
215,22
9
Tân Bình
357,37
10
Tân Nhuận Đông
772,01
11
Tân Phú
114,18
12
Tân Phú Trung
411,41
Nguồn: Phòng nông nghiệp Huyện Châu Thành - Đồng Tháp
Trong năm 2009, Ngành Nông nghiệp Huyện đã tổ chức khảo sát, thống kê lại diện
tích vườn cây lâu năm của Huyện, kết quả như sau:
* Diện tích vườn cây lâu năm: 6.236,90 ha (so năm 2008 tăng 104,04 ha do đất
trồng lúa chuyển sang, do việc điều chỉnh đất thổ cư sang đất vườn), trong đó:
- Diện tích vườn trồng cây công nghiệp (dừa): 85,91 ha ( trồng mang tính nhỏ lẻ).
- Diện tích vườn trồng cây ăn trái: 6.150,99 ha, ( tăng 18,13 ha so năm 2005) chủ
yếu vườn nhãn 3.685,95ha, ổi: 105ha, xoài 572,88ha, cam 614,76ha, quýt 90,93 ha,

chanh 417,91ha, bưởi 145,86 ha, chuối 66,70 ha, táo 12 ha và cây khác 439,02 ha.
Với số liệu thống kê năm 2009 của phòng nông nghiệp huyện Châu Thành thì cây
nhãn chiếm gần 50% tổng diện tích các vườn cây ăn trái, phân bố chủ yếu ở các xã
An Nhơn (968,45 ha), An phú Thuận (414,17ha), Tân Nhuận Đông (623ha), An
khánh (549,39),… là một loại cây nguồn mật lớn mang lại lợi nhuận lớn từ việc
nuôi ong khai thác mật.

9
Theo bản kế hoạch thì phương hướng phát triển trong năm 2010 tới thì diện tích các
vườn cây ăn trái không có gì thay đổi. Nhiều nguyên nhân tăng hay giảm là do việc
chuyển mục đích sử dụng của người dân từ đất thổ về đất vườn.
1.2. Giới thiệu chung về ong mật (Apis cerana)
Apis cerana là loài có nguồn gốc ở Châu Á. Cho đến nay đã có mười hai phân loài
được xác định tên khoa học. Chúng có kích thước trung bình, màu vàng và thích
sống ở những nơi tương đối yên tĩnh. Chúng thường tìm đến những nơi khô ráo, tối
tăm và nhất là trong các lỗ của các cây cổ thụ để làm tổ. Ong mật có thói quen ít di
cư và dễ dàng nhập đàn với nhau. Khi mật độ ong cao trong đàn, ong có thể chia
đàn và vì vậy nó có lợi trong trường hợp quản lý bệnh. Trung bình mỗi đàn ong có
thể sản xuất cho ra 10 kg mật ong một năm. Chất lượng của mật ong là rất tốt.
Loài này đang có phương hướng được nuôi ở hộ gia đình ở khắp nơi trong cả nước
như là một xu thế nuôi ong hiện đại và khoa học. Việc nuôi ong mật ở quy mô hộ
gia đình cho ra sản phẩm mật ong được mở rộng thành công tại nhiều quốc gia trên
thế giới như China, India, Bangladesh, Japan, Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh,
Nhật Bản, Pakistan, Nepal, Thái Lan, Việt Nam, Malaysia và Srilanka [15].
Ong mật là loài côn trùng có xã hội, sống thành bầy đàn, mỗi đàn có khoảng 60-
120.000 cá thể, một vài ong đực và một ong chúa. Giống như hầu hết các loài ong
và côn trùng khác, chúng sẽ bảo vệ tổ của mình khi bị quấy rầy. Ong mật có thể chỉ
chít một lần vì kim chít của chúng sẽ kẹt lại trong da người hoặc động vật khi chít
và điều này dẫn đến cái chết chúng. Khi bị quấy rầy, vài trăm ong mật sẽ bay lên từ
tổ và tấn công những kẻ xâm nhập.

Ong mật giúp thụ phấn chính cho 2/3 thực phẩm chúng ta ăn, việc thụ phấn này có
thể là trực tiếp hay gián tiếp. Việc đàn ong đi lấy phấn hoa, chúng đã vô tình thụ
phấn cho các vườn cây. Ong mật sẽ tìm đến bất kỳ nơi nào có nguồn đường hoặc
phấn hoa [10].
Bên cạnh các loài ong trong nước thì các giống ong ngoại ở Việt Nam phân loài ong
(Apis mellifera ligustica) được nhập vào từ đầu những năm 1960 với số lượng 200
đàn, trải qua 15 năm tồn tại và thích nghi chúng duy trì được với số lượng khoảng
2000 đàn [2]. Tuy nhiên, chất lượng của chúng chưa cao [5].

10
1.3. Ong mật trong hệ thống phân loại
Trong lớp côn trùng có 20.000 họ ong : ong vò vẻ, ong bầu, ong lỗ… Có những loài
sống đơn độc, có những loài sống thành xã hội. Chúng có những đặc tính sinh học
khác nhau, và có ít cho con người. Nhưng có lợi nhất là ong mật. Các cá thể ong
mật sống suốt đời trong một cộng đồng xã hội gọi là đàn, và những con ong thợ tiết
ra enzim để làm thành thức ăn cho ong.
Trong hệ thống phân loại ong mật thuộc:
- Giới: Động vật
- Ngành: Chân đốt Arthropoda
- Lớp: Côn trùng Inseecta
- Bộ: Cánh màng Hymenoptera
- Họ: Ong Apidal
- Họ phụ: Ong có ngòi đốt Apinae
Ong không ngòi đốt Meliponinae
- Giống: Ong mật Apis
Qua quá trình tiến hóa thì ong được chia ra làm nhiều chủng loại. Trong giống ong
mật thì có 4 loài sống ở việt nam:
- Apis dorsata: Ong rác kèo, ong khoái
- Apis cerana: Ong nội địa, ong rằn
- Apis florea: Ong ruồi, ong muỗi

- Apis mellifera: Ong ý, ong mật [8].
Hiện nay thì Việt Nam có 6 loài ong mật có ngòi đốt trong đó có năm loài có ở bản
địa đó là: ong nội (Apis ccerana), ong khoái (Apis dorsata), ong ruồi đen (Apis
andrenifomis), ong ruồi đỏ (Apis florea), ong đá (Apis laboriosa), và loài ong ngoại
(Apis mellifera). Trong đó thì loài ong ngoại và ong nội được nuôi rộng rãi trong
sản xuất ngành ong mật ở Việt Nam. Ngoài ra ngoài tự nhiên còn sáu loại ong mật
không có ngồi đốt (Stingless bees) nhưng các loài ong này ít có giá trị kinh tế [10].
1.4. Cấu tạo ong mật
+ Hình thái bên ngoài: cơ thể ong mật gồm ba phần khớp động với nhau là đầu,
ngực, bụng. Cơ thể ong được bao bọc bằng lớp vỏ kitin. Chính lớp vỏ kitin này là
bộ xương ngoài, là chỗ dựa cho các cơ quan bên trong và bảo vệ cơ thể ong tránh
những tác động bất lợi từ bên ngoài. Trên phần lưng và bụng ong mật ong có

11
khoảng 1.3 cm chiều dài với một màu da cam, tiếp theo là các màu nâu vàng và màu
đen xen kẽ trải dài trên toàn bộ phần lưng và bụng ong mật. Các chân, râu và mắt
màu đen và phần ngực, bụng và chân có mật độ che phủ bằng sợi lông [14].
+ Cấu tạo bên trong: Theo Ngô Đắc Thắng, cấu tạo bên trong cơ thể ong mật gồm
các cơ quan tiêu hoá, cơ quan hô hấp, cơ quan tuần hoàn, cơ quan thần kinh và cơ
quan sinh dục.
+ Cơ quan tiêu hoá: Ong mật thuộc vào các côn trùng dinh dưỡng chuyên tính. Cơ
quan tiêu hoá của ong còn là nơi dự trữ tạm thời mật hoa khi thu nhận và vận
chuyển về tổ, đồng thời thích hợp với việc dự trữ dinh dưỡng khi qua đông ở xứ
lạnh.
+ Cơ quan hô hấp: Cơ quan hô hấp của ong gồm các lỗ thở, hệ thống khí quản phân
nhiều nhánh, các túi khí và hệ thống mao quản trao đổi khí với các tế bào, các mô
trong cơ thể. Các lỗ thở nằm hai bên cơ thể, có ba đôi lỗ thở nằm ở phần ngực và
sáu đôi lỗ thở nằm ở phần bụng.
+ Cơ quan tuần hoàn: Hệ thống tuần hoàn của ong là một hệ thống hở. Tim của
ong gồm năm ngăn, hai bên sườn của mỗi ngăn tim có các cửa để cho máu từ ngoài

vào.
+ Cơ quan thần kinh: Cơ quan thần kinh của ong mật phát triển rất cao, bảo đảm
mối liên hệ thường xuyên của đàn ong với môi trường xung quanh, đồng thời điều
khiển mọi hoạt động thống nhất trong cơ thể ong. Cơ quan thần kinh được chia làm
ba phần: thần kinh trung ương, thần kinh ngoại biên, thần kinh thực vật.
+ Cơ quan sinh dục: Ong mật cũng như các loài côn trùng khác đều thuộc nhóm
động vật phân tính nghĩa là cơ quan sinh dục đực và cơ quan sinh dục cái ở trong
các cá thể khác nhau. Cơ quan sinh dục của ong chúa gồm có hai buồng trứng hình
quả lê, mỗi buồng trứng có rất nhiều ống trứng nằm song song với nhau.
Cơ quan sinh dục của ong thợ về cấu tạo giống như cơ quan sinh dục của ong chúa,
nhưng không được phát triển hoàn chỉnh. Hai buồng trứng của ong thợ có dạng dải.
Cơ quan sinh dục của ong đực gồm có đôi dịch hoàn, ống dẫn tinh, tuyến phụ và bộ
phận giao phối [9].

12
1.5. Tổ chức xã hội đàn ong
1.5.1.Các thành viên của đàn ong
+ Ong chúa: Trong mỗi một đàn ong thường chỉ có một ong chúa, kích thước và
khối lượng của nó lớn nhất đàn. Cơ thể ong chúa cân đối, có bụng thon dài lộ sau
đỉnh cánh. Phần lưng, ngực của ong chúa có màu đen và to hơn hẳn lưng ngực của
ong thợ. Ong chúa là cá thể cái duy nhất có khả năng sản sinh ra thế hệ con cháu và
chức năng này của nó được hoàn thịên tới mức tối đa
Ong chúa Apis cerana có thể đẻ 400 – 500 trứng/ ngày đêm. Ngoài chức năng đẻ
trứng ong chúa còn tiết ra các pheromon để điều hoà hoạt động của đàn ong. Tuổi
thọ trung bình là 3 năm 4 tháng 14 ngày, nhưng sức đẻ trứng của ong chúa chỉ cao
nhất trong năm đầu tiên. Khi già thì nó đẻ ít đi và đẻ nhiều trứng không thụ tinh. Vì
vậy sau 6 tháng tới 9 tháng người nuôi ong Apis cerana thường thay chúa 1 lần
+ Ong thợ: Ong thợ cũng là cá thể cái nhưng cơ quan sinh sản không phát triển đầy
đủ nên không giao phối với ong đực được. Chiều dài cơ thể ong thợ Apis cerana là
10 – 11 mm trọng lượng 75 – 80 mg. Số lượng ong thợ trong đàn từ 5000 – 25.000

con. Ong thợ có cấu tạo thích nghi với việc hoàn thành tất cả các chức năng của đàn
như nuôi dưỡng ấu trùng, thu hoạch mật, phấn hoa, lấy nước, xây dựng tổ, điều hoà
nhiệt độ trong tổ ở mức ổn định, bảo vệ đàn Tuổi thọ trung bình của ong thợ là 50
ngày. Khi phải nuôi nhiều ấu trùng hoặc lấy nhiều mật thì tuổi thọ của ong thợ bị
giảm đi chỉ còn 25 – 35 ngày. Khi đàn bị mất chúa lâu, trong đàn sẽ xuất hiện một
số ong thợ đẻ trứng. Do không giao phối với ong đực được nên nó đẻ toàn trứng
không thụ tinh và từ những trứng này chỉ nở ra ong đực. Ong thợ làm việc rất chăm
chỉ, từ khi sinh ra và chết chúng có 2 giai đoạn làm việc chủ yếu là làm việc trong tổ
và làm việc ngoài tổ.
- Giai đoạn làm việc trong tổ : Khi mới nở, cơ thể ong non còn yếu, đậu chưa vững
trên bánh tổ nó phải nhận thức ăn từ các con ong khác. Đôi khi nó lại chui vào lỗ tổ
nằm im một thời gian để hoàn thiện các cơ quan bên trong. Những công việc đầu
tiên của nó là dọn vệ sinh các lỗ tổ trống. Trong những ngày đầu tiên này, nó phải
ăn phấn hoa để phát triển các tuyến trong cơ thể. Sau một, hai ngày nó có thể cho
những ấu trùng tuổi mới lớn (3, 4, 5 ngày) ăn hỗn hợp mật và phấn hoa. Đây là thức
ăn bổ sung vì các ấu trùng trên vẫn được ong nuôi dưỡng khác cho ăn “sữa ong
thợ”. Ong non tập trung ở chỗ có rất nhiều ấu trùng là nơi có nhiệt độ cao nhất ở tổ.

13
Nếu trên bánh tổ có ấu trùng nhỏ tuổi, ong non tiết ra thức ăn cho ấu trùng ăn.
Những ong non tập hợp xung quanh chúa sẽ tham gia vào đội “tuỳ tùng” của ong
chúa, cho chúa ăn, liếm “chất chúa” rồi truyền cho các cá thể ở trong đàn. Trong
những ngày đầu, ong non có xu tính âm với ánh sáng, nó thường nằm ở những chỗ
tối bên trong tổ. Khi được 8 – 14 ngày tuổi, hệ cơ cánh phát triển nó lại có xu tính
dương với ánh sáng và bay ra khỏi tổ để tập bay định hướng và bài tiết lần đầu.
Đồng thời ở lứa tuổi này nó làm nhiệm vụ tiếp nhận mật hoa từ ong thu hoạch và
chế biến thành mật ong dự trữ trong tổ. Tuyến sáp phát triển mạnh nhất khi ong non
ở 12 - 18 ngày tuổi. Khi được 2 tuần tuổi, tuyến nọc đầy, và một số ong làm nhiệm
vụ bảo vệ ở cửa tổ. Tuyến nọc thoái hoá khi ong được 6 tuần. Khoảng 18 - 20 ngày
tuổi, ong chuyển sang giai đoạn làm việc ngoài tổ, đi tìm kiếm thức ăn.

- Giai đoạn làm việc ngoài tổ : chủ yếu là các hoạt động thu hoạch thức ăn. Thông
thường số lượng lớn ong non cùng tập bay, nên tạo ra tiếng ồn của bay định hướng.
Những ngày sau các chuyến bay định hướng có thời gian lâu hơn, ở khoảng cách
rộng hơn. Như vậy khi ong thợ đến tuổi thu hoạch (18 - 20 ngày) nó đã biết được vị
trí tổ của nó và các vật chuẩn xung quanh (cây cối, nhà cửa). Việc thu hoạch mật và
phấn của ong được tiến hành nhờ sự chỉ dẫn của ong trinh sát.
Ong trinh sát và các tín hiệu thông báo về nguồn thức ăn : ong trinh sát bay đi tìm
kiếm nguồn thức ăn căn cứ vào mùi thơm, màu sắc rực rỡ của các bông hoa, tiếng
động của các con ong khác. Sau khi đã phát hiện được nguồn hoa và nguồn thức ăn
chúng nhanh chóng bay về tổ truyền tín hiệu báo cho các cá thể trong đàn biết sự có
mặt của thức ăn, phương hướng, khoảng cách, mùi thơm, hương vị, độ phong phú
và thời gian có nguồn thức ăn.
Số lượng ong trinh sát thay đổi tuỳ theo hoàn cảnh môi trường, nếu nguồn mật
phong phú chỉ có vài phần trăm. Nếu nguồn mật khan hiếm thì có nhiều ong thu
hoạch chuyển sang làm nhiệm vụ trinh sát 5 – 35 %. Nhờ đó đàn ong có thể sử dụng
tốt được nguồn thức ăn ở xung quanh .
+ Ong đực: Được nở ra từ trứng không thụ tinh, chiều dài cơ thể 12 – 14 mm, trọng
lượng 115 – 130 mg, cơ thể có màu đen sẫm, mắt kép to đen nên còn gọi là ong đen.
Ong đực chỉ thường xuất hiện và có mặt trong đàn vào mùa vụ ấm áp, đàn ong
nhiều mật phấn (mùa chia đàn) hoặc ở đàn mất chúa do ong thợ đẻ trứng. Ong đực
không có cấu tạo thích nghi với việc thu hoạch mật, phấn nên không đi thu hoạch.

14
Chúng chỉ sử dụng thức ăn có sẵn trong đàn. Đến mùa khan hiếm thức ăn chúng bị
ong thợ đuổi ra khỏi tổ và bị chết đói. Tuy nhiên ong đực là một bộ phận không thể
thiếu được của đàn ong. Nó có chức năng là giao phối với ong chúa tơ và chỉ sau
khi giao phối với ong đực, ong chúa mới có khả năng đẻ ra các trứng đã thụ tinh. Từ
những trứng này sẽ nở ra ong thợ và ong chúa thế hệ sau. Tuổi thọ trung bình của
ong đực là 57 ngày. Số lượng ong đực trong một đàn từ vài trăm đến hai ngàn con.
Đàn ong tạo nhiều ong đực như vậy để tạo điều kiện cho ong chúa dễ dàng lựa chọn

được những con ong đực tốt nhất [6].
Bảng 1.4. Các giai đoạn phát triển của ong Apis cerana và ong Apis mellifera
Loài
Giai đoạn (ngày)
Trứng Ấu trùng Vít nắp Tổng số
Ong Apis melliera châu Âu
Thợ
Chúa
Đực
Ong Apis cerana đồng bằng ấn Độ
Thợ
Chúa
Đực
Ong Apis cerana Việt Nam
Thợ
Chúa
Đực

3
3
3

3,1
3
3

2,73

3
2,84


6
5
7

5,3
5
7

4,75
5
5,82

12
8
14

11,1
7- 8
14

10,05
8
14,22


21
16
24


19,5
15-16
24

18,54
16
22,88
Nguồn: Bùi thị Điểm (2006), Dâu tằm, ong mật, Nxb nông nghiệp, Hà Nội.
.
1.5.2. Sự điều hoà hoạt động của đàn ong
Một trong những đặc điểm sinh học đặc biệt của đàn ong là chúng có khả năng
tiết ra pheromon để điều hoà các hoạt động sống trong đàn. Pheromon là chất có
hoạt tính hoá học được các tuyến của cơ thể côn trùng tiết ra mội trường xung
quanh và có ảnh hưởng đến trạng thái sinh lí và tập tính của các các cá thể cùng
loài. Đối với ong mật pheromon là phương tiện thông tin hoá học nó bao gồm các

15
chất lỏng và các chất dễ bay hơi. Các chất lỏng được truyền qua sự tiếp xúc của các
con ong, còn chất bay hơi thì truyền qua không khí.
+ Pheromon của ong chúa
Còn gọi là “ chất chúa” hay chất dẫn dụ sinh dục bao gồm hơn 30 loại pheromon.
Các pheromon có hoạt tính cao là - Axit 9 oxy 2 decenoic ( 9 – ODA).
- Axit 9 hiđroxy 2 dexenoic (9 – HDA).
- 4 hydro 3 methyl oxy pheniletanol diacetat.
Các pheromon được sản sinh ra từ tuyến hàm trên, các tuyến ở các đốt bụng 3 – 5,
các tuyến ở đốt bàn chân của ong chúa Sự phối hợp của các pheromon có các tác
dụng sau:
- Kìm hãm sự hình thành trứng trong ống trứng của ong thợ.
- Ngăn cản bản năng xây các mũ chúa của ong thợ.
- Kích thích ong thợ đi thu hoạch mật, phấn, ổn định đàn ong khi chia đàn bốc bay.

- Hấp dẫn ong đực trong thời gian ong chúa bay đi giao phối
Ở chúa tơ chỉ có pheromon tiết ra từ tuyến hàm trên nên chưa có tác dụng hấp dẫn
ong thợ như chúa đẻ. Các pheromon của ong chúa được tiết ra từ tuyến hàm trên và
các đốt bụng 3 - 4 - 5 của ong chúa được tràn ra bề mặt cơ thể. Các ong thợ tham
gia vào đội “tuỳ tùng” của ong chúa liếm những pheromon này và cùng với thức ăn
chúng truyền cho các cá thể trong đàn. Qua thức ăn có pheromon của ong chúa, ong
thợ nhận biết được tình trạng của ong chúa trong đàn. Khi không được thoả mãn
pheromon vì đàn ong quá đông hoặc chúa già, bị dị tật tiết pheromon kém ong thợ
có thể xây mũ chúa chia đàn hoặc mũ chúa thay thế. Khi chúa chết ảnh hưởng tới tất
cả các hoạt động của đàn. Ong thợ ngừng xây tổ, giảm thu hoạch mật và phấn. Nếu
trong đàn không còn ấu trùng non để tạo chúa thì ong thợ đẻ trứng và đàn ong sẽ bị
chết dần.
+ Pheromon của ong thợ
Ong thợ có hai loại pheromon là pheromon báo động và pheromon đánh dấu.
Pheromon báo động gồm hai thành phần là isopentyl axetat do cơ quan đốt tiết ra và
heptanol 2 được tiết từ tuyến hàm trên. Các chất trên có tác dụng đánh dấu mục tiêu,
và báo cho ong thợ khác biết tình hình nguy hiểm của đàn và kích thích chúng xông
ra đốt kẻ thù để bảo vệ tổ. Số lượng isopentyl - axetat được sản xuất ra trong một

16
lần đốt đo được ở ong Apis dorsata là 40 µg, ong Apis mellifera là 2 µg, ong Apis
cerana là 1 µg và Apis florea 0,2 µg.
Pheromon đánh dấu: ở các đốt bàn chân của ong thợ có tiết ra một loại pheromon (ít
nhất 11 thành phần) để lại trên hoa khi có lấy phấn hoặc mật, chất này có tác dụng
hấp dẫn các ong thợ khác đến đó thu hoạch.
+ Pheromon của ong đực
Từ tuyến hàm trên, ong đực tiết ra ngoài không khí (ở vùng hội tụ ong đực) một
loại pheromon có tác dụng hấp dẫn ong đực của đàn khác đến tập trung và hấp dẫn
ong chúa bay đến giao phối.
+ Pheromon của ấu trùng và nhộng

Ấu trùng và nhộng cùng tiết ra pheromon để hấp dẫn ong thợ đến cho ăn và ủ ấm.
Nhộng ong chúa tiết ra 30 µg, nhộng ong đực 10 µg và ở nhộng ong thợ là 2 - 5 µg
pheromon. ấu trùng ong chúa tiết ra loại pheromon ngăn cản sự phát triển trứng
trong ống trứng của ong thợ. Vì vậy ở những đàn mất chúa còn ấu trùng non, ong
thợ sẽ chọn một số ấu trùng xây thành mũ chúa. Ong thợ ở đàn đó sẽ không đẻ hoặc
rất chậm đẻ trứng [6].
1.6. Cấu trúc tổ ong
Tổ ong là nơi bảo vệ đàn ong khỏi kẻ thù và điều kiện tự nhiên bất lợi như mưa, gió.
Trong tự nhiên ong thường ở hốc cây và hốc đá, xây khoảng 5 – 8 bánh tổ xếp song
song với nhau và vuông góc với mặt đất.
Chiều dài bánh tổ nơi nuôi ấu trùng là 21 mm, nơi chứa mật 25-30 mm.
Khoảng cách giữa hai bánh tổ kề nhau (khoảng cách con ong) là 7 mm.
Khoảng cách giữa tâm của hai bánh tổ kề nhau 32 mm.
Lỗ tổ ong có xu hướng hơi chếch lên phía trên, lỗ chứa mật chếch hơi nhiều hơn, lỗ
tổ ong có cấu tạo hình lục giác đều.
Trên bánh tổ ong có năm loại lỗ: lỗ chứa mật, lỗ tổ nuôi ấu trùng ong thợ, lỗ ong
đực mũ chúa, ngoài ra còn có một ít lỗ chuyển tiếp.
Lỗ tổ ong thợ có đường kính 4,6 mm, khi chứa nhộng vít nắp phẳng.
Lỗ tổ ong đực có đường kính 5,4mm, được xây ở róc rìa dưới và bánh tổ (khi đàn
ong muốn chia đàn) lỗ có vít nắp lồi.
Vào mùa phát triển có 3/4 lỗ tổ để nuôi ấu trùng, 1/4 chứa mật, phấn.

17
Nhiệt độ và độ ẩm trong đàn có khả năng giữ ổn định từ 32-36
0
C, ẩm độ 65-80%
[4].
1.7. Phương pháp bắt ong mật (Apis cerana) về nuôi
Bắt ong mật từ nguồn tự nhiên có nhiều phương pháp như: hánh ong (bẫy ong), bắt
ong soi đõ (ong trinh sát), bắt ong bay và bắt ong trong hốc cây, hốc đá.

- Bắt ong bằng hánh ong: vào các mùa vụ lúc ong chia đàn, ong thường tìm nơi
thích hợp để làm tổ. Chúng ta đặt các hánh ong ở nơi kín đáo, sạch sẽ, khô ráo như
hốc cây to hay xung quanh nhà và có mùi thơm dẫn dụ để ong mau về làm tổ hơn.
- Bắt ong soi đõ: Bắt ong soi đõ (ong trinh sát) là bắt ong thợ có nhiệm vụ tìm nơi
thích hợp rồi báo cho cả đàn bay tới xây tổ. Ong soi đõ thường bay dọc theo cột,
vách nhà từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên, ong bay chậm, đôi chân thứ ba
buông thõng xuống, khi bay phát ra các âm thanh to hơn các ong khác. Thời vụ từ
tháng 10 – 12 ở vùng sẵn có nguồn giống ong tự nhiên sẽ có nhiều ong soi đõ, vì
vậy đây là thời gian thuận lợi để bắt ong soi đõ. Bắt ong soi đỏ phải dùng vợt làm
bằng vải bắt ong, không được dùng tay bắt ong sẽ làm ong chết.
- Bắt ong bay: Khi phát hiện thấy đàn ong bay thấp ngang qua, ta tung đất cát, ném
quần áo hoặc té nước vào đám ong làm chúng hạ thấp độ cao, chờ ong đậu vào cành
cây, bắt ong vào nón (chuyên dùng bắt ong) để vào chỗ tối, mát mẻ. Chiều tối chuẩn
bị một thùng sạch, một ván ngăn, một cầu bánh tổ mới có đủ mật, phấn, ổn định ong
vào thùng đặt nơi thích hợp, cho ong ăn thêm (pha thêm ít mật ong). Nếu không có
bánh tổ viện thì nhốt chúa vài ngày, theo dõi thấy ong thợ lấy phấn về thì thả chúa
ra.
- Bắt ong trong hốc cây, hốc đá: Khi phát hiện thấy tổ ong trong hốc cây, hốc đá
dùng rìu búa mở rộng cửa tổ. Dùng khói phun nhẹ vào tổ để ong dạt vào một góc,
cắt lấy bánh tổ, bốc ong vào mũ lưới hoặc áo, khăn. Nếu tổ nằm ở vị trí sâu trong
hốc cây to hoặc vách đá không bắt được, dùng đất ướt trát bịt kín cửa tổ và các khe
hở lại. Sau 2-3 ngày đến mở lỗ tổ, ong sẽ tuôn ra, dùng nón bắt ong bay hứng lấy.
Cũng có thể thổi băng phiến vào rồi nút chặt cửa tổ 10 – 15 phút, khi mở cửa tổ ong
sẽ tuôn ra và bắt vào nón. Hoặc bịt kín các khe hở nơi ong ra vào, lấy một ống nứa
nhỏ cắm vào lỗ tổ ong, trát đất xung quanh. Ong ra được nhưng không vào được và
đậu ở ngoài khu vực cửa tổ, ta sẽ bắt quân.

18
Khi mang về nhà, rũ ong vào thùng. Bánh tổ được cắt bớt phần mật, phần con được
buộc vào thanh xà hoặc khung cầu dây thép, tối cho ong ăn thêm. Khoảng 3 ngày

sau kiểm tra, nếu thấy ong đã gắn bánh tổ vào khung cầu hoặc xà cầu, cởi dây buộc
ra Lưu ý, nên bắt từng đàn một đến khi ong đi làm ổn định mới bắt đàn khác [3].
1.8. Kỹ thuật nuôi ong mật (Apis cerana)
Kỹ thuật nuôi ong mật nội bao gồm kỹ thụât nuôi ong mật theo cổ truyền và kỹ
thuật nuôi ong mật hiện đại.
1.8.1. Nuôi ong theo kỹ thuật cổ truyền
Nuôi ong theo kỹ thuật cổ truyền là phương pháp nuôi vô cùng đơn giản, bằng việc
sử dụng các hốc cây, hốc đá, bộng cây để làm tổ nuôi ong mật, hoặc nuôi trong đõ,
thùng có thanh xà.
a) Sử dụng hốc cây, hốc đá để làm tổ nuôi ong: phương pháp này xuất hiện ở mốt
số địa phương như Tuyên Quang, Lào Cai, Quảng Nam,…
Trước mùa ong về một vài tháng (tháng 10 – 12), người dân vào rừng chọn các hốc
cây tự nhiên có độ cao từ 1 – 2m đã có ong làm tổ hoặc chưa làm tổ, sửa sang phần
miệng và bên trong hốc cây cho sạch sẽ, khô ráo. Phần miệng tổ đậy bằng đá hoặc
gỗ chỉ chừa 1 – 2 lỗ nhỏ. Ngoài ra nguời ta còn dùng rìu, búa đục các hốc nhân tạo
trên các cây gỗ mềm to để ong về làm tổ. Phần cửa tổ được mở một cách cẩn thận
để dễ lấy được các bánh tổ ra và bịt kín để mùa sau ong về làm tổ lại.
Nếu nuôi trong hốc đá, đến mùa ong sắp về người ta đến chọn một số hốc có thể
tích vừa phải từ 15 – 30 lít, xếp đá ở cửa hốc và chừa 1 – 2 lỗ ra vào. Đến mùa hoa
nở, ong sẽ về làm tổ ở các hốc ong đã chuẩn bị.
Sau khi ong về làm tổ 2, 3 tháng họ sẽ đến thu mật bằng cách mở miệng tổ ra, hun
khói rồi cắt toàn bộ các bánh tổ ong, sau khi lấy mật, đàn ong sẽ bỏ đi [4].
b) Nuôi ong trong thùng vuông, đõ tròn, có bánh tổ cố định: đàn ong làm tổ trong
các loại thùng này có đặc điểm là các bánh tổ được gắn cố định vào nắp hoặc vách
trên của thùng, không lấy ra kiểm tra được, khi lấy mật phải cắt rời bánh tổ ra
Ở nước ta các loại thùng có bánh tổ cố định như sau:
+ Tổ ong trong hốc tường: ở một số vùng miền núi cao phía Bắc do mùa Đông lạnh
nên đồng bào nhiều dân tộc thiểu số đóng cay (gạch bằng đất không nung) dày để
xây vách nhà khi đắp tường họ chừa lại 1 – 2 viên làm cửa thông khí. Một số
người dùng 2 tấm ván bịt 2 đầu lỗ trống này (giữa tấm ván ngoài có khoét cửa tổ)


19
ong sẽ về làm tổ trong hốc tường có dạng giống như thùng vuông, nhưng vách bằng
đất. Tháng 10 – 11 trong rừng lạnh ong sẽ bay về làm tổ trong các hốc cây này. Khi
có mật thì mở nắp sau ra cắt bánh tổ lấy mật.
+ Đõ tròn nằm: có đường kính từ 25 – 30 cm và chiều dài khoảng từ 60 – 80 cm.
Được đặt nằm trên 2 chạc cây hoặc treo trên vách nhà, 2 đầu bịt gỗ hoặc rơm.
Những chổ hở được bịt kín bằng phân trâu hoặc bùn có chừa một lỗ nhỏ cho ong ra
vào. Ong có thể xây bánh tổ dọc hoặc ngang so với nắp tổ. Đây là loại đõ rất phổ
biến ở các nơi.
+ Đõ tròn đứng: Giống như đõ tròn nằm về kích thước nhưng đặt đứng. Đầu dưới
bịt kín, nắp trên mở ra được, ong xây tổ lên nắp trên. Khi lấy mật thì nhấc toàn bộ
các bánh tổ ra.
+Thùng vuông, thùng chữ nhật: Thùng vuông có kích thước: chiều dài 50 – 60 cm,
chiều cao 25 – 30cm. Hai đầu bịt gỗ có chừa lỗ nhỏ để ong ra vào ở mặt trước hoặc
mặt bên [3].
c) Nuôi ong trong đõ, thùng có thanh xà: Thùng có thanh xà là hình thức nuôi ong
cổ truyền tiến bộ nhất. Đây là hình thức trung gian giữa nuôi cổ truyền và nuôi hiện
đại, phù hợp với việc nuôi ong cố định và người có vốn đầu tư ít.
Nếu làm thanh xà đúng kích thước và đặt đúng khoảng cách thì các bánh tổ được
ong xây vào các thanh xà nên có thể dễ dàng nhấc từng bánh tổ lên để kiểm tra hoặc
thu hoạch mật.
Về cấu tạo của thùng, đõ có thanh xà: chiều dài của thanh xà tuỳ thuộc vào kích
thước của thùng đõ mà dài ngắn khác nhau nhưng chiều rộng của thanh xà bắt buộc
là từ 25 – 28mm, từ tâm xà này đến tâm của xà kế bên là 32 mm giống như khoảng
cách bánh tổ ong tự nhiên. Nếu thanh xà quá to ong sẽ xây theo lưởi mèo ở giữa,
nếu thanh xà quá nhỏ ong xây dính các tầng vào nhau.
Đối với đõ tròn, các thanh xà có độ dài khác nhau, vị trí gác thanh xà phải để cố
định.
Còn đối với các thùng vuông hoặc hình chữ nhật thì thanh xà có độ dài bằng nhau

dễ dàng thay đổi vị trí được.
Có các loại thùng, đõ có gờ gác thanh xà thấp xuống nên chừa được khoảng trống ở
trên thanh xà cho ong dự trữ mật [3].

20
1.8.2. Nuôi ong theo phương pháp hiện đại
Việc nuôi ong theo phương pháp hiện đại cần phải thiết kế thùng nuôi ong.
Thùng nuôi ong là dụng cụ quan trọng nhất, là nơi ở của đàn ong, bảo vệ ong khỏi
nắng mưa và các kẻ thù.
- Yêu cầu thùng nuôi ong
+ Thùng phải kín để dịch hại không xâm nhập được.
+ Thùng nuôi ong phải thuận tiện cho việc quản lý, chăm sóc đàn ong: dễ dàng mở,
đóng thùng kiểm tra cần có cùng kích cỡ, dùng chung cho nhiều thùng, thuận tiện
cho ong ăn, uống nước, làm vệ sinh, thu mật.
+ Tận dụng các vật liệu sẵn có ở địa phương như: khúc gỗ rỗng, ván thùng, thân cọ,
lá dừa
+ Chọn gỗ làm thùng, đỡ khô, không mùi, nhẹ, bền, không vênh, nứt như: sao,
thông, mít, gạo, xoan, sung, mỡ,… [3].
- Thùng ong nội tiêu chuẩn
- Thùng nuôi ong bằng vật liệu khác: lá dừa, thân dừa, cốt thép, xi măng,… nhằm
tận dụng các vật liệu ở những nơi hiếm gỗ hoặc quá đắt.
- Sơn thùng nhằm làm cho thùng đẹp và bền. Thường sơn màu xanh, trắng, vàng,
không nên sơn màu đỏ, hồng, đen.
- Chân thùng: nếu nuôi cố định đóng giá ba, bốn chân hoặc xây bằng trụ xi măng,
có máng chứa nước để chống kiến. Nếu nuôi di chuyển thường dùng chân sắt, cọc
đóng xuống đất hoặc gài vào ba đai đóng sẵn vào chân thùng [3].
- Theo Phùng Hữu Chính, 2004; Ngô Đắc Thắng, 2004; Việt Chương, 2007, thùng
ong thường được làm bằng gỗ có kích thước đã được tiêu chuẩn hoá theo bảng sau:

21

Bảng1.5. Kích thước thùng ong cải tiến ong nội
Đơn vị: cm

Các chi tiết Dài Rộng Dày Ghi chú
1. Khung cầu

Xà trên 42 2,6 – 2,8 1
Xà dưới 36 1 1
Hồi cầu 22 2,6 – 2,8 1
2. Thùng ong

Thành bên 42,5 26 >2 KT thông thuỷ

Hồi trước 30 ; 40 23 >2
Hồi sau 30 ; 40 26 >2
3. Ván ngắn

Xà trên 42 2,5 1
Ván 38 22 1
4. Thước ong
42 1 0,6
5. Các chi tiết khác

Sân ong 30 ; 40 5 >2
Chắn cửa 30 ; 40 5 1
Cửa tổ 5 1 1
Giá đỡ cầu 30 ; 40 2 1
Đai thùng Phủ bì 3 >2
Nắp thùng Phủ bì


1.8.3. Chọn chỗ đặt ong trong vườn nhà
- Đặt đàn ong gần cây nguồn mật (300 – 700m) không xa quá 1200m.
- Thuận tiện giao thông, cách xa các trại ong khác trên 3km.
- Chỗ đặt thùng ong cần bằng phẳng. Gần nguồn nước sạch để ong có thể lấy nước.
- Mùa hè có bóng râm che mát, mùa đông không bị gió lạnh thổi.
- Không bị ngập lụt vào mùa mưa. Không có nguy cơ hoả hoạn vào mùa khô.
- Đặt nơi xa có kho thuốc trừ sâu, nơi nấu đường, chế biến bánh kẹo.
- Không gần bếp khói, lò gạch hoặc nơi thường xuyên tôi vôi.

22
- Tránh nơi tàu hoả, trâu, bò, xe ô tô đi lại.
- An toàn, không bị trộm cắp [4].
1.9. Ong bốc bay và biện pháp phòng tránh
1.9.1. Tác hại do ong bốc bay
Bốc bay là việc ong chúa và toàn bộ đàn ong bỏ tổ bay đi đến nơi ở mới, là bản
năng bảo toàn nòi giống của các loài ong mật nhiệt đới khi có nguy cơ đe dọa sự
sống còn của chúng. Đối với người nuôi ong, ong bốc bay thì có hại vì:
- Làm giảm số đàn ong trong vườn dẫn đến giảm sản lượng mật, giảm thu nhập của
người nuôi ong.
- Kích thích đàn khác bay theo làm trại ong mất ỗn định [3].
1.9.2. Nguyên nhân ong bốc bay
- Ong đói do thiếu ăn, trong tổ không mật, không phấn, không con.
- Ong bị các bệnh thối ấu trùng, đặc biệt là bệnh thối ấu trùng nhỏ.
- Bị các kẻ thù phá hoại: ong rừng, kiến, sâu ăn sáp…
- Bánh tổ quá cũ.
- Do sai sót về kỹ thuật quản lý đàn ong: đặt ong nơi không thích hợp, quá nóng,
quá lạnh, bị chấn động, bị khói bếp thường xuyên, để sập cầu khi vận chuyển, kiểm
tra ong quá nhiều.
- Do bị đàn khác đến cướp mật.
- Bị đàn bốc bay khác kích động.

- Do bản năng di cư [3].
1.9.3. Nhận biết ong bốc bay
- Vào buổi sáng ong đi làm kém, có rất ít hoặc không có ong mang phấn về tổ.
- Mở thùng kiểm tra bên trong thấy hiện tượng không mật, không phấn, không con.
Ong trưởng thành không bám cầu mà đậu vào thành thùng hoặc ván ngăn.
- Trước khi bay ong chúa giảm đẻ trứng 10 – 15 ngày, bụng nhỏ lại.
- Ong thường bốc bay vào những ngày tạnh ráo, khoảng 8 -16 giờ, chủ yếu vào 9 –
11 giờ.
- Lúc chuẩn bị bay: ong chuyển động ồn ào, ong thợ bay ra ngoài nhiều qua cửa tổ
và các khe hở của chúng, ong chúa bay ra sau 2/3 số ong thợ bay ra.
- Sau 2 – 3 phút toàn bộ đàn ong bay ra khỏi tổ tạo nên âm náo nhiệt và bay nhằng
nhịt trên không trung một vài phút rồi bay đi luôn [3].

23
1.9.4. Xử lý ong bốc bay
- Nếu phát hiện thấy ong bắt đầu bốc bay thì nhanh chóng lấy nón bắt ong hứng
trước cửa tổ.
- Trường hợp không kịp lấy nón ra thì nhanh chóng lấy đất ướt vít lỗ tổ và những
khe hở lại không cho ong bay ra
- Nếu ong đã bay ra đang lượn trên trời thì dùng đất, cát, nước… tung lên hoặc dùng
sào có quấn giẻ ở đầu khua vào chổ có nhiều ong. Ong sẽ hạ độ cao, đậu lại, dùng
nón bắt lấy ong, mang về treo ở chổ tối và mát.
- Nên cắt bớt cánh chúa để ong chi đàn, ong bốc bay không được. Không được cắt
cụt mà cắt chéo 1/3 ở phần ít gân cánh [3].
1.10. Các bệnh ở ong và phương pháp phòng trị
1.10.1. Bệnh thối ấu trùng
Bệnh này có tên là bệnh thối ấu trùng châu Mỹ, do vi khuẩn Bacillus Larvae gây ra
cho ấu trùng khoảng 5 – 6 ngày tuổi. Ấu trùng ong bị nhiễm vi khuẩn này bình
thường có màu trắng xám, nặng có thể đổi sang màu nâu lợt, không mùi nhưng khi
chết có màu nâu sẫm. Đàn ong bị bệnh thối ấu trùng thì ấu trùng sẽ chết hàng loạt,

đàn ong không còn ong non ra đời và sau cùng cả đàn bị diệt hết.
Chữa bệnh này dùng công thức sau đây: Penicillin 30000 đơn vị, 0.02g
Streptomicin cho một cầu ong. Hỗn hợp này trộn vào một ít nước ấm cho tan ra rồi
pha vào xirô cho ong ăn mỗi đêm [3].
1.10.2. Bệnh thối ấu trùng châu Âu
Bệnh này do vi khuẩn Streptococus Pluton gây ra cho ấu trùng từ 2-5 ngày tuổi.
Khi bị bệnh này ấu trùng có màu trắng trở nên có màu trắng đục, và khi chết trở
thành màu nâu, mình thối nhũn có mùi chua khó ngửi.
Đàn ong bị bệnh này điều xao lãng công việc bò ra rìa cầu, bỏ cầu con không nuôi
ấu trùng vì vậy đàn ong không có ong non ra đời, khi phát hiện đàn ong bị bệnh này
thì mỗi tối ta cho đàn ong ăn thuốc với công thức: một lọ Penicillin một triệu đơn vị
giành cho 10 cầu ong, hòa thuốc vào nước ấm rồi trộn với xirô cho ong ăn mỗi tối.
Trong trường hợp đàn đã bị bệnh nặng thì chỉ còn cách bỏ hết cầu bị bệnh và thay
vào đó cầu có ấu trùng từ đàn khỏe khác, đồng thời cho ăn thuốc ngừa [3].

24
1.10.3. Bệnh ong ỉa chảy
Đây là loại bệnh do Nosema Apis gây ra cho ong đã trưởng thành. Bệnh này thường
bộc phát sau mùa mưa khiến thùng ong bị ẩm ước và dơ bẩn.
Ong bị bệnh chướng bụng đến nổi bay không nổi, chỉ biết trên nắp thùng hoặc bò
dưới đất quanh khu vực đặt thùng. Phân ong bệnh có màu vàng sẫm hay đen.
Trị bệnh này dân gian thường có kinh nghiệm cho ong ăn xi rô với nước vừng trong
nhiều ngày cho ong ấm bụng hy vọng vài ba ngày sẽ hết. Nhưng điều cần phải làm
ngay là vệ sinh ngay thùng nuôi ong để không còn dơ bẩn và ẩm ước nữa [3].
1.10.4. Bệnh sâu phá tổ
Sâu phá tổ là một loại sâu non của một loài bướm, bướm này xâm nhập vào thùng
ong qua các khe hở của thùng. Vào được bên trong thùng bướm đẻ hàng loạt trứng
và sau đó trứng nở thành sâu, sâu tìm nhộng ong để mà ăn.
Nếu phát hiện thì ta tiêu diệt ngay bằng cách dùng nhíp hay chế tạo những móc kẽm
để luồn vào những đường hầm lôi sâu ra, nếu để lâu ngày thì ong lại càng cắn nát

bánh tổ tìm sâu.
Bệnh sâu phá tổ ong chỉ xảy ra ở những đàn ong yếu, ong thưa mà nhiều cầu [3].
1.10.5. Một số bệnh, sâu hại và thiên địch khác
Bệnh thúi ấu trùng là bệnh đặc hữu, gây thiệt hại nghiêm trọng trong quản lý đàn
ong mật. Ở Thái Lan bệnh thúi ấu trùng ở loài Apis cerana đã từng xuất hiện và lây
lan rộng rãi ở các đàn ong Apis cerana trên khắp cả nước. Ở châu Âu, đàn ong Apis
cerana cũng từng bị nhiễm bệnh thúi ấu trùng nặng nề và từ đó lây sang giống ong
Apis mellifera [16].

Varroa jacobsoni là sinh vật ký sinh chủ yếu của ong Apis cerana và nó rất dễ làm
tổn thương phổi ong, và gây nên bệnh AcarApis woodi. Hằng năm, Apis cerana dễ
dàng nhiễm Acarpis woodi vào mùa xuân, lúc đó ong trưởng thành sẽ chết trong
vòng một tuần bởi AcarApis woodi. Tuy nhiên, khi nhiệt độ môi trường xung quanh
tăng dần lên từ từ trong vòng 1 tháng thì việc kiểm soát dịch bệnh sẽ tốt hơn. Nghề
nuôi ong truyền thống người ta chưa bao giờ sử dụng bất cứ hóa chất để kiểm soát
dịch bệnh AcarApis woodi.
Vespa basalis và magnifica Vespa là hai kẻ thù chính của ong Apis ceran. Apis
Vespa basalis chỉ tấn công các ong thợ. Trong khi Vespa magnifica tấn công toàn
bộ lãnh thổ đàn ong Apis ceranApis, Tuy nhiên, việc phòng thủ của đàn ong chỉ có

×