Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Môn xã hội học lứa tuổi định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.37 KB, 24 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: XÃ HỘI HỌC LỨA TUỔI
ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

0


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI..............4
I. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.............................................4
II. CÁC KHÁI NIỆM VÀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN...............................4
1. CÁC KHÁI NIỆM.......................................................................................4
2. CÁC LÝ THUYẾT......................................................................................5
CHƯƠNG 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU......................................................6
I. TỔNG QUAN ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU..................................................6
II. THỰC TRẠNG LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC SINH
THPT................................................................................................................6
1. LỰA CHỌN CỦA HỌC SINH THPT SAU KHI TỐT NGHIỆP...........7
2. XU HƯỚNG KỲ THI TUYỂN SINH ĐH, CĐ NĂM NAY.....................7
3. CÁC NGÀNH NGHỀ ĐƯỢC LỰA CHỌN VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC
ĐỘNG ĐẾN SỰ LỰA CHON ĐÓ..................................................................10
4. KHÓ KHĂN, THUẬN LỢI KHI LỰA CHỌN.......................................13
5. MONG MUỐN VỀ CÔNG VIỆC TRONG TƯƠNG LAI....................15
6. THÁI ĐỘ, NHẬN XÉT CỦA HỌC SINH THPT ĐỐI VỚI VIỆC LỰA
CHỌN NGÀNH NGHỀ CỦA BẢN THÂN NÓI RIÊNG VÀ GIỚI TRẺ
NÓI CHUNG TRONG TƯƠNG LAI..........................................................18
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ...............................................................20
I. Kết luận.......................................................................................................20


II. Khuyến nghị và giải pháp...........................................................................20

1


LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghề nghiệp luôn được coi là một trong những yếu tố quan trọng
quyết định tương lai của mỗi con người. Vì vậy, lựa chọn cho mình 1 ngành
nghề phù hợp là vấn đề được nhiều bạn trẻ quan tâm, đặc biệt là học sinh
trung học phổ thông. Trong xã hội hiện nay, học sinh THPT có rất nhiều lựa
chon sau khi tốt nghiệp: học tiếp ĐH, CĐ, học nghề , du học, đi làm.
Trong quá trình lựa chọn ngành, nghề, đã xuất hiện nhiều yếu tố tác
động (bản thân, gia đình, bạn bè...) cùng với các mâu thuẫn nảy sinh (có
người chọn đúng ngành nghề phù hợp với bản thân nhưng lại có người khơng
tìm đúng ngành nghề nên khơng thể phát huy hết năng lực bản thân, hay có
người chọn ngành nghề không theo mong muốn bản thân mà lựa chọn theo ý
kiến người khác, gây ra tính bị động trong việc lựa chọn...); tất cả những vấn
đề đã nêu trên khiến tôi mong muốn nghiên cứu vấn đề việc làm đối với thanh
niên : “ Định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT”. Từ đó, tìm ra xu thế
chung của giới trẻ hiện nay trong định hướng việc làm nghề nghiệp của họ.
2. Ý nghĩa của đề tài
*Ý nghĩa :
Đề tài “Định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT” mong muốn
tìm ra những yếu tố tác động tới lựa chọn của học sinh THPT. Từ đó, khái
qt và tìm hiểu xu thế chung của giới trẻ trong việc lựa chọn ngành nghề của
họ. Bên cạnh đó, đề tài cịn mong muốn tìm hiểu nhận thức của học sinh về
nghề nghiệp mà mình lựa chọn và muốn có được trong tương lai, nguyên
nhân dẫn tới sự nhận thức đó. Từ đó, có thể đưa ra cho học sinh THPT những

biện pháp có khả năng hữu ích, giúp họ định hướng cho bản thân trong việc
lựa chọn những việc làm nghề nghiệp thích hợp.
Trong đề tài này, có sử dụng 1 số lý thuyết xã hội học như lý thuyết cơ
cấu - chức năng (T. Parsons), lý thuyết tương tác biểu trưng ( G. Mead).
1


* Ý nghĩa thực tiễn:
Qua đề tài, tôi muốn làm rõ thực trạng chọn ngành nghề trong tương
lai của học sinh THPT trên địa bàn Hà Nội. Thơng qua đó chỉ ra những
điều bất cập, những vấn đề còn tồn tại, còn chưa phù hợp trong xu hướng
lựa chọn của họ. Ngồi ra, đề tài cịn làm rõ ngun nhân, các yếu tố ảnh
hưởng tới sự lựa chọn nghề nghiệp của học sinh. Từ đó, đưa ra những giải
pháp mang tính thực tiễn giúp cho các nhà quản lý có thêm những cơ sở
khoa học, để hoạch định chính sách cho phù hợp hơn với thực tế, đặc biệt
là những chính sách GD - ĐT.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu về định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT;
- Giúp học sinh có cái nhìn đúng đắn hơn về dự định nghề nghiệp trong
tương lai của mình;
- Tìm ra xu hướng chính, ở học sinh THPT nói riêng và ở giới trẻ nói
chung, trong lựa chọn việc làm nghề nghiệp của họ.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Lựa chọn và vận dụng một số lý thuyết xã hội học (thuyết tương tác
biểu trưng, thuyết cơ cấu - chức năng) để làm rõ định hướng nghề nghiệp của
học sinh THPT.
- Tiến hành phân tích kết quả của đề tài điều tra (phỏng vấn bằng bảng
hỏi) một số nhóm học sinh THPT để có dữ liệu thực tế phục vụ cho đề tài
nghiên cứu.

- Phân tích dữ liệu, tìm ra những yếu tố tác động đến lựa chọn của học
sinh THPT. Từ đó, đưa ra những kết quả có tính thuyết phục, đáp ứng mục
tiêu của đề tài.
4. Đối tượng, phạm vi, khách thể nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứư:
Định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT.
2


* Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian nghiên cứu:
Tiến hành nghiên cứu trên địa bàn Hà Nội cụ thể là 3 trường THPT :
Việt Đức, Trần Phú và Amsterdam.
- Thời gian nghiên cứư:
Cuối tháng 2 đến cuối tháng 3.
* Khách thể nghiên cứu:
Học sinh của 3 trường THPT : Việt Đức, Trần Phú và Amsterdam
5. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp phân tích tài liệu:
Tai liệu được thu thập tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau: các bài báo,
các đề tài nghiên cứu, khoá luận tốt nghiệp được đánh giá cao và những tài
liệu khác có liên quan đến vấn đề này nhằm đưa ra những thông tin cần thiết
phục vụ nghiên cứu.

3


CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
I. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu

Lao động, việc làm và nghề nghiệp là một vấn đề được rất nhiều nhà
khoa học quan tâm ngiên cứu. Mặt khác, khi nghiên cứu vấn đề này, các tác
giả thường hay đặt mục tiêu tìm hiểu về định hướng nghề nghiệp, về những
dự định việc làm nghề nghiệp, và nói chung, về hiện trạng lao động - việc làm
- nghề nghiệp xã hội của giới trẻ.
Trên bình diện định hướng việc làm nghề nghiệp ở thanh niên, nhiều
tác giả đặc biệt quan tâm tới đối tượng là những học sinh sắp kết thúc trường
THPT. Các tác giả thường nhấn mạnh giá trị việc làm, bên cạnh nhiều giá trị
khác của xã hội mà thanh niên cần hướng tới, hay những yếu tố khác như nơi
làm việc, cơ quan, khu vực làm việc...
Tuy nhiên, đề tài khi thực hiện trên địa bàn Hà Nội muốn tìm ra những
điểm mới trong nhận thức, xu thế của học sinh THPT sau khi tốt nghiệp trước
sự thay đổi của nền kinh tế đất nước cùng với những yếu tố khác như : khoa
học kĩ thuật, thông tin đại chúng đã tác động tới nhận thức, tư duy của học
sinh như thế nào? Từ đó, đưa ra sự thay đổi lớn nhất là trong tư duy, nhận
thức cuả học sinh THPT đối với xã hội và suy nghĩ của họ về cơng việc của
mình trong tương lai .
II. Các khái niệm và lý thuyết liên quan
1. Các khái niệm
- Nghề nghiệp:
Nghề nghiệp hay hoạt động nghề nghiệp được hiểu là hoạt động phục
vụ cho cơ sở tồn tại và hướng vào việc kiếm sống, việc này phải làm miệt
mài, lâu dài và để hồn thành cần có kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm (trình
độ chun mơn) theo tổ hợp đặc biệt.
- Xã hội học nghề nghiệp:
4


Khơng thể khơng có một ngành xã hội học nghề nghiệp độc lập. Nó đề
cập tới rất nhiều cách đặt vấn đề mà theo đó phân tích các lĩnh vực khác nhau:

nghề nghiệp đào tạo nghề, hoạt động nghề nghiệp, vị thế nghề nghiệp và
khơng có sự kiêng kỵ “ lĩnh vực đối tượng”
- Phân giới:
Tâm lý học nghề nghiệp: vấn đề thích hợp và sở thích với việc đào tạo
và hoạt động trong ngành nghề hoặc lĩnh vực nghề nghiệp nhất định (tư vấn
nghề gnhiệp, tư vấn lao động), nghiên cứucác điều kiện chỗ làm việc và đặc
trưng hoạt động nghề nghiệp, giáo dục học nghề nghiệp: vấn đề truyền thụ
năng lực, kỹ năng và kiến thức đặc trưng nghề nghiệp, mở rộng nghề nghiệp
trong giáo dục chủ ý và chức năng trong khi đang học nghề.
- Tương lai - phát triển - các vấn đề của ngành:
Đã có thảo luận rằng nghề nghiệp đã mất chức năng của nó là tạo cho
con người ý nghĩa cuộc sống của mình. Nhiều người vẫn tiếp tục hỏi về sự
phát triển của các nghề dù là họ đang ở “ngưỡng thứ nhất” khi chuyển tiếp từ
phổ thông. họ muốn quyết định học một nghề có triển vọng tương lai hoặc họ
đã học nghề xong và đang ở “ngưỡng thứ hai” và họ đã khơng tìm được việc
làm trong nghề đã học. Những người này và tất cả những người liên quan đến
tư vấn cha mẹ, giáo viên dạy nghề, nhà tư vấn nghề nghiệp, nhà tư vấn lao
động và người giới thiệu việc làm vẫn hỏi về tương lai của nghề nghiệp.
2. Các lý thuyết
Thuyết cơ cấu chức năng của Parsons
Theo Parsons, xã hội là một chỉnh thể, hệ thống bao gồm nhiều tiểu hệ
thống có quan hệ chặt chẽvới nhau. Trong hệ thống xã hội, hệ thống hành vi
được coi là nền tảng, cơ sở, nhờ nó mà con ngừơi có khả năng thích ứng với
mơi trường xung quanh.
Vận dụng lý thuyết này, với mục đích muốn tìm hiểu hành vi lựa chọn
nghề nghiệp của học sinh THPT cùng với những tác động của nhiều yếu tố
khác : gia đình, bạn bè, giới tính... đến sự lựa chọn này.
5



CHƯƠNG II :
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
I. Tổng quan địa bàn nghiên cứu
Hà Nội được coi là trung tâm kinh tế, văn hố, chính trị của cả
nước. Vì thế, tại đay là địa bàn tập trung một số lương lớn các trường
THPT. Cả thành phố hiện nay có 134 trường với 182.477 học sinh. Tiến
hành nghiên cứu ở 3 trường: Việt Đức, Trần Phú ở quận Hoàn Kiếm và
Amsterdam ở quận Đống Đa.
Trường Trần Phú là một trường THPT có bề dày lịch sử đáng kể ở Hà
Nội. Đây chính là trường THPT Hoàn Kiếm hay, xa hơn nữa, là trường Anbe
Saro. Hiện tại, trường có khoảng 2000 học sinh, mỗi khối 10,11,12 có khoảng
15 lớp, trong đó có 2 lớp chuyên ban A và 2 lớp chuyên ban D. Trong q
trình hoạt động, trưịng đã đạt nhiều thành tích cao về học tập cũng như các
hoạt động phong phú khác.
Cùng nằm trong một quận với trường Trần Phú là THPT Việt Đức. Đây
cũng được coi là trường điểm của quận trong mọi hoạt động, phong trào. Mỗi
khối của trường có khoảng 20 lớp. Thầy và trị trường Việt Đức ln dành
nhiều thứ hạng cao trong học tập và các hoạt động ngoại khố khác của quận
nói riêng và thành phố nói chung.
Trường THPT Amsterdam là một trong nhiều trường chuyên có uy tín
của thành phố.Trường có nhiều lớp chun như : Anh, Toán, Văn, Tin, Lý,
Hoá, Sinh... Trong những năm qua , trường có nhiếu thành tích xuất sắc trong
các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia và quốc tế.
Có thể, mẫu lựa chọn chưa thực sự đầy đủ về tính đại diện, nhưng
chúng tơi đã tiến hành ở các lớp khác nhau: lớp chuyên, lớp chọn và cả lớp
thường.
II. Thực trạng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT
Phân tích dữ liệu điều tra bằng bảng hỏi tại 3 THPT : Việt Đức, Trần
6



Phú và Amsterdam, thu được những kết quả như sau:
1. Lựa chọn của học sinh THPT sau khi tốt nghiệp
Qua điều tra thấy rằng, tỷ lệ học sinh dự định sẽ thi ĐH, CĐ sau khi tốt
nghiệp THPT chiếm tỷ lệ khá cao (78,32%). Thực tế cho thấy rằng ở Hà Nội
hiện nay, những gia đình khá giả ,có điều kiện thường đầu tư cho con em đi
học tiếp ở nước ngồi sau khi tốt nghiệp THPT. Và có thể nói đây là một
trong những con đường tốt nhất để con em họ có được những ngành nghề
vững vàng, ổn định trong tương lai. Do đó số học sinh dự định đi du học
chiếm tỷ lệ không nhỏ (9,09%). Trong khi đó, 1 số ít học sinh khác thay cho
dự định sẽ chọn ngành nghề cho mình thơng qua các trường ĐH, CĐ thì lại
quyết tâm đi làm ngay sau khi tốt nghiệp. Số này chiếm 2,79%.
Qua đây, chúng ta có thể thấy rằng trong định hướng nghề nghiệp của
học sinh THPT, việc thi vào ĐH, CĐ không phải là con đuờng duy nhất để họ
có được 1 ngành nghề tốt như mong đợi. Thế hệ trẻ ngày nay đã linh hoạt hơn
trong việc chọn ngành, chọn nghề. Họ biết lựa chọn cho mình 1 hướng đi phù
hợp với hồn cảnh, khả năng của bản thân, gia đình và xã hội. Bên cạnh đó
cũng có 1 số ít học sinh dự định học nghề sau khi tốt nghiệp (0,92%); hay có
4,19% các em vẫn chưa xác định rõ ràng nghề nghiệp trong tương lai của
mình. Tuy nhiên khơng phải tất cả học sinh THPT đều chọn những dự định
trên, họ cịn có những phương án khác như: thi ĐH nếu trượt thì đi du học, lấy
vợ,lấy chồng, bn bán nhỏ...
2. Xu hướng kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ năm nay
Theo số liệu khi điều tra được thì có 88,82% học sinh THPT sẽ theo
học các lớp ôn, luyện thi. Thực ra, đây cũng là 1 thực tế rất phổ biến trong
giới học sinh hiện nay, đặc biệt là học sinh lớp 12. Bởi tâm lý chung của các
sĩ tử cuối cấp cho rằng đi ơn thi ĐH thì an tâm hơn, các thầy cô luyện thi lâu
năm sẽ cung cấp nhiều hơn, đầy đủ hơn kiến thức và cách làm bài. Do đó theo
họ thì họ có thể n tâm hơn khi vào phịng thi vì đã được học ơn nhiều dạng,
nhiều bài. Bên cạnh đó, số học sinh khơng đi ôn tại các lớp luyện thi là

7


11,18% cao hơn mọi năm. Số học sinh này lựa chọn như vậy là có nhiều lý do
khác nhau:
Bảng 2. Những lý do khiến học sinh THPT không đi ôn tại
các lớp luyện thi
Khơng thi

31,25%

Gia đình khơng có điều kiện

12,5%

Tự ôn

25%

Không có thời gian

12,5%

Học nhiều quá

25%

Phương án khác

12,5%


Chiếm số lượng cao nhất là những học sinh không thi ĐH, CĐ
(31,25%) nên họ khơng đi ơn thi. Có thể sau khi tốt nghiệp THPT, số học sinh
này sẽ đi làm, học nghề hay có những lựa chọn khác cho bản thân. Một số
khác khơng ơn luyện thi vì gia đình khơng có điều kiện cho học theo học các
lớp đó. Số học sinh này chiếm tỷ lệ 12,5% trong tổng số học sinh không đi ôn
thi. Theo điều tra của chúng tơi thì có 1 số lưọng học sinh khơng đi ôn là do
không có đủ thời gian (12,5%). Tuy nhiên, bên cạnh đó có 25% học sinh tự ơn
ở nhà. Với những thay đổi như hiện nay của Bộ GD- ĐT, như việc thay đổi
cách ra đề thi khi đề chỉ tập trung vào chương trình cơ bản của sách giáo khoa
thì việc 1 số lượng khơng nhỏ các em ở nhà tự ơn là 1 điều đáng mừng. Điều
đó chứng tỏ các em đã sắp xếp được thời gian học hợp lý và hoàn toàn tin
tưởng vào khả năng, năng lực của mình. Ngồi ra cịn có số học sinh chọn
phương án khác . Trong đó có 12,5 % dự định đi du học và 6,25% không đến
lớp ôn luyện vì cho rằng như thế thì học nhiều quá.
Cũng theo điều tra của chúng tôi về sụ lựa chọn khối thi thì:
Đứng đầu về tỷ lệ lựa chọn là khối D (37,76%). Đây cũng là điều dễ
hiểu vì ở Hà Nội hiện nay, ngoại ngữ đang dần trở thành 1 môn học quan
trọng trong nhà trường phổ thông cũng như trong cuộc sống sau này của mỗi
8


con người. Thêm nữa, học 3 mơn Tốn - Văn - Anh sẽ là toàn diện hơn cả.
Điều này sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho học sinh khối D so với các khối
khác. Đứng thứ hai về tỷ lệ lựa chon là khối A (29,37%) tiếp theo là khối C
(4,19%), khối B (3,49). Điều bất ngờ là theo kết quả điều tra có 18,2 % học
sinh chọn 2 khối. Đúng là khi thi 2 khối thì cơ may đỗ ĐH sẽ được nhân đơi
vì thế những học sinh có năng khiếu về nhiều mơn học, thuộc các khối khác
nhau đã quyết định ơn cả 2 khối. Ví dụ như có rất nhiều học sinh hiện nay
chọn 2 khối là :khối A&khối B hay khối A&khốiD. Ngồi ra, có 6,99% học

sinh là thi khối khác, chứng tỏ xu thế chọn khối thi của học sinh THPT cũng
rất đa dạng.
Bảng 3. Lựa chọn khối thi của học sinh THPT
Khối A

Khối B

Khối C

Khối D

2 khối

Khối khác

29,37%

3,49%

4,19%

37,76%

18,2%

6,99%

Cũng qua nghiên cứu, chúng tôi được biết có 75,36% số lượng học sinh
được hỏi, trả lời là “đã lựa chọn đựơc” trường thi. Với việc đã lựa chọn được
trường thi, học sinh sẽ xác định được hướng đi, cách học phù hợp, từ đó học

sinh sẽ chủ động và tự tin hơn trong cách học và cả trong khi đi thi. Bên cạnh
đó có 24,64 % chưa lựa chon được trường thi của mình. Những học sinh này
dễ lâm vào thế bị động trong cách học nhưng cũng có thể vì họ chưa chọn
được khối thi, ngành thi phù hợp với bản thân.
Trong khi điều tra, khi đựơc hỏi là những thay đổi của Bộ GD - ĐT liệu
có ảnh hưởng đến lựa chọn của học sinh thì chúng tơi đã nhận được kết quả
như sau:
Bảng 4. Những thay đổi của Bộ GD - ĐT có ảnh hưởng
đến lựa chọn của học sinh
Có thay đổi

Khơng thay đổi

Khơng có ý kiến

19,58%

79,02%

1,4%

9


Với con số là 79,2% số lượng học sinh không có thay đổi gì trước
những thay đổi của Bộ GD - ĐTthì đây quả là điều đáng mừng vì chứng tỏ
những em này đã định hướng rõ ràng nghề nghiệp cho mình cũng như chuẩn
bị khá đầy đủ cho kỳ thi ĐH, CĐ. Cịn 19,58% học sinh là có bị ảnh hưởng.
Có thể là các em chưa tự tin vào năng lực của bản thân. Chính vì thế mà
những thay đổi trong cơ chế thi đã ảnh hưởng và tác động ở một mức độ nhất

định đến những học sinh đó. Khi những thay đổi trong cơ chế thi dẫn đến
những thay đổi trong điểm sàn xét tuyển thì khả năng đỗ ĐH, CĐ sẽ khơng
cịn đễ dàng nữa. Vì thế, họ cần phải cập nhật thêm thơng tin. Cịn lại, 1,4%
số học sinh khơng có ý kiến về vấn đề này có thể đối với các em thì năng lực
bản thân mình là chính. Nếu thực sự giỏi thì dù Bộ có thay đổi thế nào, các
em vẫn có đủ sự tự tin khi tham gia kỳ thi ĐH, CĐ.
3. Các ngành nghề được lựa chọn và các yếu tố tác động đến sự lựa
chon đó
Theo kết quả điều tra của chúng tơi thì hiện nay có 5 ngành nghề được
lựa chọn cao nhất là:
Bảng 5. Những ngành nghề được học sinh THPT lựa chọn nhiều nhất
Không biết

40,56%

Kinh tế, thương mại, tài chính

25,87%

Nhiều ngành

9,09%

Khoa học xã hội

6,99%

Y tế

4,89%


Ngành khác

12,6%

Hiện nay, học sinh THPT lựa chọn nghề nghiệp theo xu hướng phát
triển của xã hội. Thế nhưng, có một bộ phận học sinh vẫn chưa xác định được
ngành nghề của mình (40,56%). Chúng ta cần nhìn lại cơng tác giáo dục
hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông. Thông qua những buổi học nghề,
những buổi nói chuyện, hướng dẫn của thầy cô trong vấn đề nghề nghiệp sẽ
giúp học sinh biết được khả năng, năng lực của mình phù hợp với ngành nghề
10


nào? Thế nhưng giáo dục thế nào để các em tiếp thu , hứng thú thì khơng phải
là đơn giản. Việc giáo dục hướng nghiệp giờ đây không phải là vấn đề của
riêng ngành giáo dục mà là vấn đề chung của tồn xã hội bởi học sinh THPT
chính là nguồn nhân lực quan trọng của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước. Tuy nhiên bên cạnh một số lượng lớn học sinh không biết lựa
chọn ngành nghề nào, còn lại các em cũng đã xác định được ngành nghề của
mình. Cao nhất vẫn là các ngành kinh tế, thương mại, tài chính (25,87%), rồi
đến khoa học xã hội (9,09%), y tế (4,89%), khoa học tự nhiên, sư phạm, kiến
trúc, nghệthuật...(12,6%). Khi được hỏi, nhiều em tuy đã xác định được một
số ngành nghề nhưng còn phân vân chưa chọn chính xác ngành nghề nào. Con
số này không phải là nhỏ (9,09%). Trong điều tra của chúng tơi, giới tính cũng là
một yếu tố tác động đến việc lựa chọn ngành nghề của học sinh THPT. Ví như :
những ngành liên quan đến khoa học tự nhiên, kỹ thụât, xây dựng...thường có xu
hướng nhiều nam học sinh lựa chọn hơn là nữ; hay những ngành khoa học xã hội
tuy có nam nhưng số lượng khơng phải là nhiều nếu khơng muốn nói là q ít.
Tuy nhiên cũng có những ngành thì tỷ lệ nam nữ là tương xứng như những ngành

liên quan đến kinh tế, thương mại, tài chính...
Theo thơng tin điều tra thì có khơng ít nguyên nhân tác động đến sự lựa
chọn của học sinh THPT. Như một em học sinh đã nói “ Học kinh tế là sở
thích của em. Nó phổ biến, dễ kiếm tiền, phù hợp với con gái. Công việc này
cũng dễ xin việc”.
Theo số liệu thống kê thì:
Bảng 6. Những tác động đến sự lựa chọn của học sinh
THPT
Định hướng hứng thú bản thân

48,95%

Mong muốn của cha mẹ

8,38%

Tác động của bạn bè, người quen, thơng tin đại chúng

2,79%

Đã có sẵn đầu ra

3,49%

Do khơng có điều kiện học tiếp nên đi làm

0,69%

Nhiều nguyên nhân


35,7%

11


Như vậy, đa số học sinh đều lựa chọn theo phương án định hướng hứng
thú bản thân (48,95%). Con số này cho thấy các em đã tự lập hơn trong việc
lựa chon ngành nghề của mình. Cùng với việc lựa chọn theo sở thích,hứng
thú, các em đã nhận thức rõvề khả năng, năng lực của bản thân. Bên cạnh
nguyên nhân này, nhiều học sinh nói với chúng tơi rằng các em lựa chọn
như vậy là do mongmuốn của cha mẹ. Trong xã hội hiện nay, một bộ phận
học sinh (8,38%) đã dành phần quyết định chọn ngành nghề của bản thân
cho cha mẹ mình. Các em đó suy nghĩ việc lựa chon ngành nghề khơng
phải là nhiệm vụ của mình. Nhiệm vụ của mình chỉ là cố gắng hết sức bởi
các em hoàn toàn tin tưởng vào những ý kiến, suy nghĩ với những kinh
nghiệm sống của cha mẹ mình.
Tuy nhiên theo điều tra, khơng ít những trường hợp đã lựa chọn nhiều
nguyên nhân trong đó chủ yếu là kết hợp cả 2 yếu tố trên (35,7%). Cha mẹ
của các em này, họ là những cán bộ, những người có học vấn cao, có kinh
nghiệm sống nên có thể tham gia đóng góp ý kiến, phân tích để các em hiểu
rõ còn phần quyết định thuộc về các em. Điều này sẽ giúp các em có tự tin
hơn với lựa chọn của mình. Thế nhưng cũng có những trưịng hợp ngược lại,
có em đã nói với chúng tơi rằng các em thích ngành đó nhưng cha mẹ các em
lại muốn các em vào ngành khác để dễ xin việc khi ra trường. Lại có em nghĩ
năng lực của mình khơng đủ sức thi ĐH, CĐ nhưng bố mẹ các em thì rất
muốn các em ngồi trên giảng đường đại học nên các em đành làm theo ý của
cha mẹ dù biết khả năng vào ĐH, CĐ của mình là rất mong manh.
Bên cạnh tất cả những nguyên nhân trên, có 3,49% học sinh lựa chọn là
ngành nghề có sẵn đầu ra. Những em này phải chăng thực tế hơn? Các em cho
rằng giờ đây khi lựa chọn ngành nghề thì sở thích khơng phải là vấn đề quan

trọng bởi ngành nghề đó sau khi được đào tạo mà khơng có nơi ứng dụng,
thực hành thì cũng chẳng để làm gì. Còn 2,79% các em lựa chọn là do tác
động của ban bè, người quen, thơng tin đại chúng vì một lý do khá đơn giản là
các em chưa định hướng tốt hay gia đình, người thân và ngay chính bản thân
12


các em cũng chưa nhận biết đầy đủ thông tin về ngành nghề. Điều này chứng
tỏ thông tin đại chúng cũng đóng một vai trị khơng nhỏ trong việc lựa chọn
của các em. Ngồi ra, cịn một số ít các em (0,69%) đã chọn giải pháp đi làm
do khơng có điều kiện theo học tiếp.
4. Khó khăn, thuận lợi khi lựa chọn
Một vấn đề mà tôi cho là không kém phần quan trọng trong việc lựa
chọn của học sinh THPT, đó là việc các em nhận thức được những khó khăn
và thuận lợi khi lựa chọn. Trong tổng số lượng phiếu thu được thì có 95,8%
học sinh đã nhận thức được khó khăn và thuận lợi và một phần nhỏ cịn lại là
4,2% thì khơng nhận thức được. Điều này chứng tỏ học sinh đã có ý thức tự
giác với việc định hướng nghề nghiệp của bản thân, đã xác định được những
thuận lơi, khó khăn nảy sinh khi mình lựa chọn.
Theo thống kê của kết quả điều tra thì các em đã có những thuận lợi
sau:
Bảng 7. Những thuận lợi của học sinh THPT khi lựa chọn
Có lịng say mê, ham thích

56,5%

Được gia đình ủng hộ

28,9%


Có kinh nghiệm từ gia đình, họ hàng, người quen

10,5%

Phương tiện học tập thuận lợi ( xe cộ đi lại, trang thiết bị...)

4,1%

Như vậy học sinh THPT đã đưa ra được những nhân tố thúc đẩy sự lựa
chọn nghề nghiệp của mình. Lịng say mê, ham thích chính là động lực lớn
nhất mà phần đơng học sinh lựa chọn. Bên cạnh đó là sự tác động khơng nhỏ
từ phía gia đình, thơng tin đại chúng và những cơ sở vật chất phục vụ cho việc
học tập, cho nghề nghiệp lựa chọn. Bên cạnh thuận lợi, các em cũng đã nhận
thức được những khó khăn mà mình gặp phải.

13


Bảng 8. Những khó khăn của học sinh THPT khi lựa chọn
Khơng hứng thú mấy

14%

Gia đình khơng đồng ý

8,4%

Khơng có những hiểu biết, thông tin, kinh nghiệm về nghề 35%
nghiệp đó
Thiếu phương tiện học tập


4,9%

Khơng có khó khăn

26,5%

Phương án khác

11,2%

Như vậy với những số liệu trên chúng ta đều nhận thấy rằng sự thiếu
hiểu biết về trường học, ngành nghề là khó khăn lớn nhất đối với hầu hết các
học sinh THPT. Tuy là đã chọn trường, chọn nghề nhưng thực tế nhiều em
khơng có những thơng tin cụ thể về trường và ngành đó ra sao? Đây được coi
là tình trạng phổ biến của học sinh THPT. Đây khơng chỉ là nỗi lo của riêng
học sinh, phụ huynh học sinh mà cịn đặt ra cho tồn xã hội
Bên cạnh đó, các yếu tố : gia đình, hứng thú, phương tiện học tập cũng
là những khó khăn trở ngại cho việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh
THPT.
Với thực tế nước ta hàng năm số học sinh tốt nghiệp lớp 12 tăng lên
nhanh chóng trong khi đó chỉ tiêu tuyển sinh vào ĐH, CĐ tăng không đáng
kể, số dư trong nỗi thất vọng tìm kiếm một nghề nghiệp của lớp trẻ càng
nhiều hơn sau mỗi năm. Vì vậy,việc xác định trước những khó khăn thuận lợi
là vơ cùng cần thiết vì điều đó sẽ phần nào giúp học sinh có định hướng rõ
ràng, nâng cao sự tự giác bản thân với nghề nghiệp.
Với những khó khăn trước mắt, học sinh THPT đã khắc phục được?
Đã khắc phục được

Chưa khắc phục được


14

Khơng có ý kiến


15,38%

57,34%

27,3%

Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng ta nhận thấy có một lượng lớn học
sinh đã nhận thức được khó khăn nhưng lại chưa khắc phục được. Đây có thể
là do nguyên nhân khách quan và chủ quan của bản thân. Nếu như những khó
khăn như khơng hiểu biết về trường, về ngành mình lựa chọn, khơng hứng thú
với ngành đó thì đây thuộc về lỗi chủ quan. Những học sinh này, theo chúng
tôi cần phải chủ động hơn nữa để tìm kiếm những thơng tin về ngành nghề mà
mình đã lựa chọn, có thể tìm kiếm trên báo, đài hay từ bạn bè, người quen...
Tuy nhiên cũng có những nguyên nhân khách quan khiến cho học sinh chưa
khắc phục được như cha mẹ không đồng ý, thiếu phương tiện học tập...Điều
này rất cần sự quan tâm của cha mẹ, xã hội...
Bên cạnh đó, có 15,38% học sinh đã khắc phục được khó khăn và
27,3% khơng có quan niệm gì về vấn đề này. Đáng mừng cho những học sinh
đã khắc phục được khó khăn, từ đó các em có thể vững tin hơn để đi theo
ngành nghề mà mình đã lựa chọn. Thế nhưng, câu hỏi đặt ra là tại sao số
lượng học sinh khơng có ý kiến lại khá cao như vậy? Phải chăng những em
này không thật sự quyết tâm với ngành nghề mà mình lựa chọn, các em khơng
chịu nỗ lực, cố gắng? Vì thế, theo chúng tôi các em này rất cần sự giúp đỡ từ
người thân, bạn bè... giúp các em có những định hướng rõ ràng hơn trong việc

lựa chọn ngành nghề.
5. Mong muốn về công việc trong tương lai
Theo thông tin thu thập thì mong muốn của học sinh về cơng việc trong
tương lai là:
Có thu nhập cao

20,9%

Có nhiều thời gian rỗi

2,09%

Phù hợp với khả năng ngành học

14,68%

Dễ thăng tiến

1,4%

Hai phương án trở lên

58,04%

Phương án khác

2,8%
15



Bảng 10. Những mong muốn của học sinh THPT về nghề nghiệp trong
tương lai
Như vậy, ta có thể thấy hơn nửa số học sinh được hỏi chọn hai phương
án trở lên chứng tỏ đa số các em đều có nhiều hồi bão, ước mơ về cơng việc
trong tương lai của mình. Đứng thứ hai là lựa chọn “có thu nhập cao”
(20,9%). Vị trí này khơng gây bất ngờ với chúng tôi. Đây được coi là điều tất
nhiên trong cuôc sống. Giới trẻ ngày nay thường lao đầu vào làm việc miễn
sao là kiếm được nhiều tiền. Họ không quan tâm nhiều đến thời gian rỗi hay
địa vị, chức tước của mình bởi thực tế trong xã hội hiện nay có nhiều người
có chức tước nhưng lại khơng có nhiều tiền. Vì vậy, chỉ có 2,09% lựa chọn
phưong án “ Có nhiều thời gian rỗi”, 14,68% “phù hợp với ngành học” , 1,4%
chọn “ dễ thăng tiến” và 2,8% là “ phương án khác”.
Với câu hỏi : “ Bạn có dự định học nhiều hơn 1 ngành nghề?”, chúng
tôi đã nhận được câu trả lời như sau:


Khơng

Chưa xác định

59,44%

9,79%

30,77%

Bảng 11. Dự định của học sinh THPT có lựa chọn thêm 1 ngành nghề
Theo chúng tơi, “dự định” đó mới chỉ mang nguyên nghĩa “dự định”,
nghĩa là các em mới có một ý định, phương hướng, mới chỉ có một mong
muốn, nhu cầu, hứng thú là như vậy. Dự định này có thể thay đổi trong những

điều kiện nhất định sau khi các em tốt nghiệp phổ thông và thực sự bắt tay
vào học những cấp bậc cao hơn. Tuy nhiên, ta cũng khơng thể loại trừ giả
thiết thứ hai, đó là những học sinh thực sự có mong muốn hay nhu cầu đựoc
học nhiều ngành nghề để có thể làm nhiều công việc trong tương lai, sử dụng
hết năng lực của mình. Và ta cũng khơng thể bỏ qua giả thiết : sự lựa chọn
này xuất phát từ dự định “học tập” - nghiã là những học sinh đó sẽ theo học
những ngành nghề khác nhau để hỗ trợ cho nhau, nâng cao kiến thức với mục
đích làm thật tốt cơng việc trong tương lai của mình hay bảo đảm hơn hơn
cho vấn đề xin việc sau này. Ta nhận thấy, một điều dễ hiểu đó là tỷ lệ khá cao
16


những học sinh phổ thơng xác định chưa rõ mình sẽ theo học một ngành nghề
hay nhiều hơn. Bởi vì sự lựa chọn này đối với học sinh phổ thông thường
chưa rõ ràng, và trước mắt các em vẫn còn hai kỳ thi: kỳ thi tốt nghiệp THPT
và kỳ thi ĐH, CĐ - những vấn đề có thể làm các em thay đổi lựa chọn của
mình. Đối với những lựa chọn chỉ theo học một ngành nghề - điều này cũng
tương đối dễ hiểu vì nhiều người thường muốn một cơng việc ổn định, đạt kết
quả cao và nói chung chỉ cần làm tốt một nghề nghiệp là có thể giúp ổn định
cuộc sống.
Dù kết quả trên là sự tổng hợp của nhiều giả thiết thì đó cũng được coi
là một tín hiệu đáng mừng. Để đưa ra sự lựa chọn như vậy, các em học sinh
THPT chắc chắn đã có một sự tự tin vào bản thân, có tinh thần ham học hỏi,
mong muốn vươn lên tầm cao mới về tri thức để có thể sánh vai với thế hệ trẻ
thế giới.
Để có một ngành nghề như mong đợi trong tương lai, học sinh THPT
nghĩ rằng mình cần phải có những gì ?
Tiền, quyền thế

9,1%


Kiến thức

8,39%

Kinh nghiệm

10,49%

Nhiều phương án

69,93%

Phương án khác

2,09%

Bảng 12. Những yếu tố học sinh THPT cần trang bị cho nghề nghiệp
tương lai
Dựa vào bảng thống kê trên, ta nhận thấy số lượng học sinh lựa chọn
“tiền và quyền thế” tuy không cao nhưng cũng không phải là nhỏ (9,1%).
Điều này cho thấy một sự dựa dẫm, thiếu chủ động trong việc lựa chọn nghề
nghiệp khi các em chỉ trơng chờ vào gia đình, người quen. Sự thiếu chủ động
và thiếu tính năng động này có thể ảnh hưởng đến sự bắt kịp của nước ta đối
với các nước khác trên thế giới. Song, cũng có một tỷ lệ khá ngang bằng số
học sinh cho rằng kiến thức (8,39%) và kinh nghiệm (10,49%) mới là nhân tố
17


quan trọng nhất để có được một cơng việc như mong đợi. Chúng tơi khá bất

ngờ vì cókhơng ít em chọn kinh nghiệm quan trọng hơn kiến thức. Đây được
coi là cách nhìn mới so với cách nhìn và thói quen cũ khi chỉ luôn chú trọng
vào sách vở mà thiếu hụt nhiều kinh nghiệm. Có một tín hiệu đáng mừng là
đa phần học sinh THPT cho rằng cần nhiều yếu tố để có được một ngành nghề
như mong đợi trong tương lai. Trong đó hầu hết các em đều lựa chọn hai yếu
tố kiến thức và kinh nghiệm. Các em này cho rằng hai yếu tố này hỗ trợ cho
nhau trong công việc của các bạn trẻ và nâng tầm người Việt cao hơn. Điều đó
cho thấy người Việt trẻ ngày nay đã khơng cịn xem nhẹ yếu tố kinh nghiệm
mà đã gắn nó vào kiến thức để biến chúng thành bộ đôi công cụ sắc bén trong
việc tạo lập nghề nghiệp tương lai.
6. Thái độ, nhận xét của học sinh THPT đối với việc lựa chọn
ngành nghề của bản thân nói riêng và giới trẻ nói chung trong tương lai
Về vấn đề “Thế hệ trẻ ngày nay chỉ quan tâm đến thu nhập, khơng cống
hiến hết mình cho ngành nghề đã lựa chọn, khơng có tinh thần trách nhiệm
cao, khơng cống hiến hết mình cho ngành nghề”, chúng tôi đã nhận được rất
nhiều ý kiến khác nhau.
Đồng ý

Không đồng ý

Trung gian

Khơng có ý kiến

23,78%

28,67%

35,66%


11,89%

Bảng 13. Ý kiến của học sinh THPT về trách nhiệm, sự cống hiến cho
nghề nghiệp
Có 23,78% số học sinh được hỏi đồng ý với ý kiến trên. Các em nói
rằng “Khơng cần làm hết mình, có thu nhập cao là được”, hay “khơng làm
vậy là thiệt”.Các em này cho rằng nguyên nhân của việc này là do nhận thức,
hay có em cho rằng “vì đây khơng phải thời bao cấp.” Phải chăng thì chỉ trong
thời bao cấp, người ta mới co lòng yêu nghề và tinh thần trách với nghề?. Có
học sinh cịn đề ra giả thuyết “không phải ai cũng yêu lao động”. Tuy nhiên,
cũng có những hcọ sinh thể hiện rõ quan điểm là không đồng ý (28,67%).
Những em này khẳng định “ngày nay còn rất nhiều bạn trẻ cống hiếi hết mình
18


cho cơng việc, có tinh thần trách nhiệm cao...” và các em còn cho rằng “ giới
trẻ bây giờ rất năng động, sáng tạo, tích cực hơn trong cơng việc của mình”.
Tuy khơng phản ánh hết vấn đề nhưng đã đưa ra một góc nhìn về vai trị của
gia đình trong việc giáo dục trách nhiệm và lòng yêu nghề của thế hệ trẻ.
Bên cạnh đó, chúng ta khơng thể bỏ qua ý kiến một số lượng lớn lựa
chọn phương án “trung gian”, tức là tiếp cận vấn đề ở cả 2 mặt của nó. Điều
bất ngờ là các em này đều có một quan điểm chung rằng: nếu khơng u
nghề, khơng có trách nhiệm với nghề thì khơng thể có thu nhập cao. Có em
cho rằng: “đây là thời buổi cạnh tranh cao, người nào khơng có cống hiến,
trách nhiệm thì người đó bị đào thải. Có em đã lật ngược chiều của giả thiết “
thu nhập cao cũng chính là yếu tố quan trọng giúp người lao đọng cố gắng,
hết mình với cơng việc.Thiết nghĩ cả 2 dịng ý kiến trên đều đúng là phản ánh
tương đối đầy đủ mà thế hệ trẻ cần tiếp cận với công việc của mình trong thời
đại ngày nay. Có em học sinh đã viết “Kiếm tiền khơng có gì là sai, quan
trọng là phương pháp và ý nghĩa của nó” hay “ việc kiếm tiền là quan trọng

nhưng không phải mục đích duy nhất”. Để giải quyết vấn đề này, có ý kiến
cho rằng “khơng cần u nghề, chỉ cần có trách nhiệm là đủ” hay “ qua quá
trình làm việc, họ sẽ nhận ra ảnh hưởng của sự thiếu trách nhiệm và họ sẽ
thay đổi”

19


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. Kết luận
Lựa chọn ngành nghề của học sinh THPT đang là một vấn đề cần được
quan tâm trong xã hội. Xu hướng chung của học sinh THPTở Hà Nội là học
tiếp ĐH, CĐ và một số lựa chọn con đường du học. Tỷ lệ này là khá chênh
lệch so với ở nông thôn. Điều này cho thấy khi xã hội ngày càng phát triển thì
nhu cầu học tập của con người ngày càng tăng cao đặc biệt là đối với học sinh
THPT. Học tập sẽ giúp các em nâng cao trình độ, có khả năng hoà nhập cùng
các bạn trẻ trên toàn thế giới. Từ đó cánh cửa đến với một việc làm tốt như
mong đợi sẽ mở rộng hơn cho các em
Tuy nhiên, trong quá trình lựa chọn, các em cũng gặp phải rất nhiều
khó khăn, thuận lợi. Và để giúp đỡ các em vượt qua khó khăn khơng ai hết
chính là bản thân, gia đình, bạn bè của các em.
Có thể nói rằng, nhận thức của hóc sinh THPT về tầm quan trọng của
việc định hướng nghề nghiệp đã ngày được nâng cao. Hầu hết các em đều đặt
ra mục tiêu cho bản thân trong tương lai , đưa ra những yêu cầu về nghề
nghiệp sát thực với bản thân. Hai yếu tố kinh nghiệm và tri thức luôn được
các em đề cao và được coi là những yếu tố cần thiết mà các em cần trang bị
cho nghề nghiệp của mình.
II. Khuyến nghị và giải pháp
Trên cơ sở phân tích và những đánh giá nêu ra trong kết quả nghiên
cứu, tôi xin được đưa ra một số khuyến nghị sau:

- Tăng cường giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trong nhà trường
phổ thông. Xây dựng cho học sinh những định hướng về nghề nghiệp trong
tương lai của mình dựa vào khả năng, năng lực bản thân khi tham gia giáo
dục hướng nghiệp.
- Củng cố vai trị nhà trường, thầy cơ, gia đình trong việc cùng các em
lựa chọn ngành nghề phù hợp đồng thời nâng ccao hơn nữa tính tự lập của
20


bản thân mỗi học sinh trong việc lựa chọn nghề nghiệp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Khóa luận tốt nghiệp Thực trạng định hướng nghề nghiệp của
học sinh thpt hiện nay( khảo sát tại Hà Nội) Nguyễn thị Tuyết Như
2. Nguyễn Quý Thanh, Phạm Văn Quyết : Phương pháp nghiên cứu
xã hội học. Đại học Quốc gia
3. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng : Xã hội học đại cương. Đại học
Quốc gia
4. Từ điển xã hội học
5. Những bài viết trong báo “GD - TĐ”, “Thanh niên”... và khoá
luận tốt nghiệp, đề tài nghiên cứu có liên quan.

21


22




×