Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Nâng cao ý thức tự học của sinh viên nội trú ở ký túc xá học viện báo chí và tuyên truyền hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.58 KB, 104 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhận thức vai trị quan trọng của giáo dục trong q trình hội nhập
quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu, là
gốc rễ của sự phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển.
Để đáp ứng yêu cầu của giáo dục trong xu thế phát triển của nền kinh tế tri
thức, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới giáo dục tồn diện, trong
đó đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt chú trọng đến chất lượng, hiệu quả
ý thức tự học của sinh viên là động lực đẩy nhanh quá trình đào tạo đi vào
đúng bản chất của nó: biến q trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo của
người học.
Đối với sinh viên bậc đại học, hoạt động chủ đạo là hoạt động học tập.
Nhưng so với hoạt động học tập của học sinh phổ thơng, việc học tập của sinh
viên có nhiều điểm khác.Trước hết hoạt động học tập của học sinh, sinh viên
cũng là quá trình nhận thức nhằm chiếm lĩnh những tri thức trong kho tàng trí
tuệ của nhân loại. Điểm khác nhau là khi tiến hành hoạt động học tập, sinh
viên không thể chỉ nhận thức thông thường mà tiến hành hoạt động nhận thức
mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở tư duy độc lập, sáng tạo phát triển ở
mức độ cao để chuẩn bị cho một ngành nghề nhất định có chun mơn năng
lực cao. Vì vậy, hoạt động học tập của sinh viên còn gọi là hoạt động học tập
nghề nghiệp. Vốn học vấn tiếp thu được trong thời kỳ này hết sức quan trọng
vì nó là cơng cụ để họ tiến hành tham gia vào lĩnh vực nghề nghiệp sau này và
là nền tảng cho hoạt động tự học, tự nghiên cứu. Một điều khác nữa so với
hoạt động học tập của học sinh phổ thơng thì hoạt động học tập của sinh viên
mang tính tự giác, tích cực chủ động hơn. Sinh viên ngồi giờ lên lớp theo
chương trình chính khố, họ cịn phải tích cực đọc thêm sách và tài liệu tham
khảo để tự phát triển kiến thức cho mình, tranh thủ sự giúp đỡ của giảng viên
để đào sâu kiến thức chun mơn. Có như vậy, sau khi ra trường họ mới vững
1



vàng trong cơng việc của mình. Vì vậy, ý thức tự học của sinh viên là một mắt
xích, yếu tố quan trọng quyết định chất lượng, sự thành công của đào tạo.
Phẩm chất và năng lực của người sinh viên được hình thành và phát triển
trong quá trình đào tạo, trong qua trình tự học tập và rèn luyện. Tính độc lập,
sáng tạo, năng động, chính xác trong tư duy và thực tiễn nghề nghiệp là phẩm
chất, năng lực trực tiếp quyết định đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ học tập
của người sinh viên. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ với ý thức tự học của
sinh viên ngay từ trong thời gian đào tạo tại trường đại học và có thể xem là
điều kiện tiên quyết quyết định chất lượng, hiệu quả của quá trình đào tạo
trong nhà trường.
Là một trường trực thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền được giao nhiệm vụ đào tạo , bồi dưỡng
cán bộ báo chí và truyền thơng, xuất bản, giảng viên lý luận chính trị cho các
bộ, ban, ngành, đồn thể Trung ương và tỉnh, thành phố trên khắp cả nước,
cũng như cho các trường đại học, cao đẳng của hệ thống giáo dục quốc dân.
Công tác đào tạo của Học viện không chỉ trang bị cho sinh viên kiến thức
chuyên ngành mà cịn rèn luyện thói quen lao động trí óc, khả năng suy nghĩ,
làm việc độc lập, rèn luyện phẩm chất tự giác, tự giáo dục, ý thức chấp hành
nội quy, xây dựng thái độ, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng tự hoàn thiện bản
thân cho mỗi sinh viên.
Nâng cao ý thức tự học của sinh viên Học viện nói chung, sinh viên nội
trú ở Ký túc xá Học viện nói riêng vừa là yêu cầu, vừa là điều kiện để nâng
cao chất lượng đào tạo. Nâng cao ý thức tự học cho sinh viên nội trú ở Ký túc
xá nhằm tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học, có chất lượng,
hiệu quả là trách nhiệm của giáo viên, sinh viên và toàn bộ lực lượng giáo dục
trong nhà trường. Nhận thức rõ tầm quan trọng của tự học, trong những năm
qua Học viện cũng như Phịng quản lý Ký túc xá ln quan tâm đến hoạt động
tự học của học sinh. Tuy nhiên, chất lượng tự học của sinh viên nội trú còn
hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội và của ngành.
2



Nguyên nhân chủ yếu là do nhiều sinh viên nội trú chưa có kỹ năng và
phương pháp tự học tập khoa học, hợp lý. Trong khi đó, việc đổi mới phương
pháp dạy học của một bộ phận giáo viên còn chậm, chủ yếu vẫn là truyền thụ
kiến thức trong chương trình, chưa tập trung nhiều đến đổi mới phương pháp
dạy học. Công tác quản lý hoạt động tự học của chủ yếu vẫn là quản lý hành
chính, chưa thực sự có hình thức tổ chức và biện pháp quản lý phù hợp.
Từ những tồn tại trên, việc tìm ra các biện pháp để nâng cao chất lượng
ý thức tự học của sinh viên nội trú ở Ký túc xá Học viện là nhiệm vụ hết sức
cấp thiết đối với Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay.
Do đó tơi chọn đề tài: "Nâng cao ý thức tự học của sinh viên nội trú ở



túc xá Học viện Báo chí và Tun truyền hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề tự học ở Việt Nam cũng được chú ý từ lâu thực sự được phát
động nghiên cứu nghiêm túc, rộng rãi từ khi nền giáo dục cách mạng ra đời
(1945), mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là người khởi xướng vừa nêu tấm
gương về tinh thần và phương pháp dạy học. Người từng nói: “cịn sống thì
cịn phải học”, và cho rằng: “về cách học phải lấy tự học làm cốt”. Có thể nói
tự học là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh, về phương pháp học tập. Những
lời chỉ dẫn quý báu và những bài học kinh ngiệm sâu sắc rút ra từ chính tấm
gương tự học bền bỉ và thành cơng của Người cho đến nay vẫn cịn ngun
giá trị.
- Nguyễn Cảnh Toàn (1995), Luận bàn và kinh nghiệm về tự học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, tư tưởng về tự học đã
được nhiều tác giả trình bày trực tiếp và gián tiếp trong các cơng trình tâm lý
học, giáo dục học học, phương pháp dạy học bộ mơn. GS,TSKH Nguyễn

Cảnh Tồn là một tấm gương sáng về tự học ở nước ta. Từ một giáo viên
trung học (1947), chỉ bằng con đường tự học, tự nghiên cứu ơng đã trở thành
nhà tốn học nổi tiếng. Không chỉ nghiên cứu khoa học cơ bản, ơng cịn có
nhiều cơng trình, bài viết về khoa học giáo dục, về vấn đề tự học. Ông cho
3


rằng: “Học bao giờ cũng gắn với tự học, tự rèn luyện để biến đổi nhân cách
của mình. Người dạy giỏi là người dạy cho học sinh biết cách tự học, tự
nghiên cứu, tự giáo dục” và "con đường tự học" đã gần như theo ông suốt
cuộc đời, con đường do ơng xây dựng nên bằng ý chí phi thường và một tình
yêu khoa học lớn lao. Một trong những thành công ông tâm đắc nhất trong
"phương pháp sư phạm" và "khoa học sư phạm" của mình chính là biết khơi
gợi cho học sinh tính tị mị khoa học, tính chủ động tìm học, qua đó mà rèn
luyện tư duy ngày càng thêm sắc sảo.
- Cao Xuân Hạo (2001), Bàn về chuyện tự học, Tạp chí Kiến thức ngày
nay, số 396-2001, đã có những phân tích thấu đáo và ý kiến sâu sắc về “tự
học”. Trên con đường học vấn của người tự học nhan nhản những cạm bẫy
cực kỳ nguy hiểm khiến cho tri thức của họ có nguy cơ lệch lạc hoặc chứa
những lỗ hổng rất lớn mà bản thân họ khơng hay biết. Cho nên, Người trí thức
chân chính khơng hẳn là người biết nhiều. Điều quan trọng hơn là họ biết rõ
mình biết cái gì, và khơng biết cái gì. Biết rõ mình khơng biết cái gì khó gấp
ngàn lần biết rõ mình biết cái gì. Và điều đó chính là thước đo chính xác nhất
của cái gọi là “trình độ văn hố”. Người tự học không nên tự ti, chỉ nên cảnh
giác đối với bản thân. Khơng có một người thầy để kiểm tra mình, để thường
xuyên nhắc nhở cho mình nhớ rằng mình chưa trở thành vĩ nhân trong lĩnh
vực của mình và khơng biết gì trong các lĩnh vực khác, thì chính mình phải
thường xuyên làm việc đó thay cho người thầy. Tác giả chỉ ra, ở nhà trường,
dù chỉ nói đến mơn học chính, người đi học chỉ học một tuần mươi giờ là
cùng. Thì giờ cịn dư dùng để tự học (tự quan sát thêm sự kiện, tự tìm dẫn

chứng, tự kiểm nghiệm thêm các giả thuyết, tự đọc thêm sách vở, tự liên hệ
thêm với thực tế . ) nhiều gấp mấy 2-5 lần so với thì giờ trên lớp. Cho nên
ngay đối với người học chính quy, việc tự học vẫn là chính, kể cả khi lên lớp
nghe giảng hay hoạt động trong những buổi thảo luận, nghĩa là giữ vai trò chủ
động trong việc tiếp thụ tri thức và bổ sung, chỉnh lí những tri thức đã được
học từ những người thầy, trong đó khơng phải chỉ có những người thầy chính
4


thức trực tiếp dạy mình, mà cịn cả những người bạn và những người học trị
của mình nữa.
- Hồng Anh, Đỗ Thị Châu (2008), Tự học của sinh viên, Nxb

Giáo

dục, Hà Nội. Xu hướng chung của phương pháp dạy học hiện nay là đổi mới
theo quan điểm “lấy người học làm trung tâm”. Theo phương pháp dạy học
này, toàn bộ quá trình dạy học đều hướng vào nhu cầu, khả năng, lợi ích của
sinh viên nhằm mục đích phát triển ở sinh viên kỹ năng và năng lực độc lập
học tập, giải quyết các vấn đề… Vai trò của giáo viên là tạo ra những tình
huống để phát triển vấn đề, giúp sinh viên nhận biết vấn đề, lập giả thuyết,
làm sáng tỏ và thử nghiệm các giả thuyết, rút ra kết luận. Bên cạnh việc thay
đổi phương pháp giảng dạy thì các trường đại học, cao đẳng ở nước ta cũng
đang dần chuyển đổi sang phương thức đào tạo tín chỉ, điều này địi hỏi sinh
viên phải nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong học tập. Việc thay đổi
phương thức đào tạo và phương pháp giảng dạy mới đã làm cho khơng ít sinh
viên cảm thấy khó có thể thích nghi kịp thời. Bên cạnh đó, ý thức chủ động
sắp xếp, tổ chức việc học và tự học là yếu tố rất quan trọng nhưng vẫn còn
chưa được sinh viên chú ý đúng mức. Hậu quả của việc chọn lựa phương
pháp học chưa đúng đắn là lãng phí thời gian bản thân, thành tích học tập kém

dẫn đến tâm lý chán nản, thất vọng và bất mãn. Vì vậy, ngay khi bước vào
ngưỡng cửa đại học, cao đẳng thì sinh viên nên được hướng dẫn để trang bị
cho mình những kiến thức để có thể học và tự học một cách hiệu quả.
Quyển sách “Tự học của sinh viên” trang bị thêm nhiều kiến thức bổ ích về
kỹ năng tự học cho sinh viên, bao gồm 3 chương: Chương 1. Hoạt động học
tập; Chương 2. Khái quát chung về hoạt động học tập – tự học của sinh viên;
Chương 3. Các yếu tố tâm lý ảnh hưởng tới hoạt động học tập – tự học của
sinh viên. Thông qua quyển sách này sinh viên sẽ có cái nhìn rõ nét hơn về
hoạt động học tập – tự học dưới góc độ Tâm lý học, từ đó làm cơ sở định
hướng đúng đắn trong học tập của bản thân.
- Diệp Thị Thanh và Đoàn Thanh Hà (2009), Các phương pháp học tập
5


của sinh viên ở đại học, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 1-10/2009. Tự học
và học theo nhóm là hình thức học tập khơng thể thiếu được của sinh viên
đang học tập tại các trường đại học. Tổ chức hoạt động tự học và học theo
nhóm một cách hợp lý, khoa học, có chất lượng, hiệu quả là trách nhiệm
khơng chỉ ở người học mà cịn là sự nghiệp đào tạo của nhà trường. Bài viết
đề cập đến phương pháp tự học và học theo nhóm giữ vai trò cầu nối giữa học
tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo. Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi và chỉ khi tạo ra được
năng lực sáng tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành quá
trình tự giáo dục. Luật giáo dục đã ghi rõ: “Phương pháp giáo dục đại học
phải coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện
cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham
gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng”. Như vậy, phương pháp dạy và học ở
các trường đại học, cần thực hiện theo các định hướng: Bồi dưỡng năng lực tự
học, tự nghiên cứu; và học theo nhóm; tạo điều kiện cho người học phát triển
tư duy sáng tạo; rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, ứng dụng.

Tự học là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang học tập
tại các trường đại học. Tổ chức hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học,
có chất lượng, hiệu quả là trách nhiệm không chỉ ở người học mà còn là sự
nghiệp đào tạo của nhà trường. Tác giả đi sâu phân tích về tự học và học theo
nhóm, mối qian hệ giữa hai vấn đề này để đưa ra các biện pháp cụ thể cho
sinh viên tự học một cách tích cực và hiệu quả.
- Nguyễn Thị Cẩm Vân (2011), Phát huy tính tích cực, chủ động của
sinh viên qua hoạt động tự định hướng học tập, Tạp chí Đại học Sài Gịn,
Quyển số 6 – tháng 6/2011. Cùng với xu thế hội nhập, tồn cầu hố, sự phát
triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, sự gia tăng gấp bội của tri thức đòi
hỏi giáo dục đào tạo phải đổi mới nội dung dạy học và phương pháp dạy học
để đào tạo những con người có đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng nhu cầu
của thực tiễn. Đại hội Đảng toàn quốc lần X đã nêu rõ: “Đổi mới tư duy giáo
6


dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp
đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lí để tạo được chuyển biến cơ
bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục
của khu vực và thế giới.... Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy
và học, đổi mới phương pháp dạy và học”. Bản chất của việc đổi mới phương
pháp dạy học là chuyển từ các phương pháp truyền thụ thông tin một chiều
sang các phương pháp dạy học tích cực: tổ chức, điều khiển để người học tự
mình tìm tịi, phát hiện và chiếm lĩnh tri thức thông qua những hành động và
thao tác của họ. Q trình đó diễn ra theo xu hướng tích cực hố hoạt động
nhận thức, gia tăng tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Các
phương pháp dạy học tích cực định hướng cho việc tổ chức quá trình tự học,
quá trình cá nhân hoá và xã hội hoá việc học. Thế nào là phương pháp dạy
học tích cực?. Trên cơ sở đó, tác giả đi sâu phân tích việc đổi mới phương
pháp dạy học ở bậc đại học phải hướng tới những phương pháp dạy học nâng

cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập
nhằm đào tạo ra những con người năng động, độc lập trong xã hội. Tự định
hướng học tập là một phương pháp dạy học theo quan điểm hướng vào người
học, tạo cho sinh viên những phẩm chất như tích cực, chủ động, độc lập, tự tin
và có định hướng mục tiêu. Hoạt động tự định hướng học tập cũng đòi hỏi ở
giảng viên năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức, quản lí để có thể hướng
dẫn sinh viên học tập đạt mục tiêu giáo dục.
- Đào Ngọc Cảnh và Huỳnh Văn Đà (2012), Nâng cao tính chủ động
của sinh viên – giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng trong đào tạo
theo học chế tín chỉ, Tạp chí Khoa học số 22b/2012. Đào tạo theo học chế tính
chỉ tuy được coi là phương thức đào tạo mới nhưng đã có lịch sử hàng trăm
năm và đã khẳng định ưu thế của nó tại nhiều trường đại học danh tiếng trên
thế giới. Đối với các trường đại học ở Việt Nam, đào tạo theo học chế tín chỉ
cịn khá mới mẻ. Hơn nữa các nguồn lực đảm bảo cho đào tạo theo học chế
tín chỉ cịn nhiều hạn chế. Vì vậy, việc thực hiện cịn gặp khơng ít khó khăn,
7


trở ngại. Bản chất của phương thức đào tạo này là phát huy tính tích cực, chủ
động của sinh viên. Bài nghiên cứu đề cập đến thực chất của đào tạo theo học
chế tín chỉ, những ưu điểm và hạn chế của nó, thực trạng và giải pháp nâng
cao tính chủ động của sinh viên. Các số liệu nghiên cứu được thu thập từ 500
sinh viên các ngành đào tạo chính quy của Trường Đại học Cần Thơ. Ngồi
ra, chúng tôi cũng tham khảo ý kiến và kết quả nghiên cứu của các chuyên gia
và giảng viên ở một số trường đại học khác. Kết quả nghiên cứu cho thấy vấn
đề cấp thiết đặt ra trong đào tạo theo học chế tín chỉ là phải tăng cường tính
chủ động của sinh viên trong mọi khâu của quá trình đào tạo. Đây là một
trong những giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo theo học
chế tín chỉ.
- Bài báo Tự học của sinh viên – yếu tố quan trọng để đổi mới phương

pháp giảng dạy, cập nhật trên trang web ngày 20/12/2012.
Tự học được xuất phát từ chính nhu cầu muốn học hỏi, muốn gia tăng sự hiểu
biết để làm việc và sống tốt hơn của mỗi người, là hình thức học tập khơng
thể thiếu được của sinh viên đang học tập tại các trường đại học. Thực tế
giảng dạy tại các trường đại học cho thấy, nếu sinh viên khơng chịu khó học
tập, đào sâu nghiên cứu, mở rộng thêm kiến thức bằng cách học tập độc lập
thì các thầy giáo, cơ giáo có dạy giỏi, có kiến thức sâu rộng và trình độ nghiệp
vụ vững vàng đến mấy chất lượng học tập cũng không thể cao. Đặc biệt giai
đoạn hiện nay, xã hội đặt ra cho giáo dục và đào tạo ngày càng khắt khe, địi
hỏi các trường đại học khơng chỉ đào tạo ra nguồn nhân lực thơng thạo về lý
thuyết mà cịn phải biết vận dụng, ứng dụng những kiến thức đó vào thực tiễn
đời sống. Để đáp ứng yêu cầu đó, các trường đại học đã phát động đổi mới
phương pháp học tập đối với sinh viên. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra hai giải
pháp rất cần thiết nâng cao tính tự học cho sinh viên: một là, sinh viên cần
chủ động rèn luyện tính tự học; hai là, vai trị của thầy giáo, cơ giáo trong việc
rèn luyện tự học của sinh viên.
- Phạm Văn Tuân (2013), Một số vấn đề lý luận và hoạt động về dạy tự
8


học tại Trường đại học Trà Vinh, Tạp chí Khoa học – Trường Đại học An
Giang, Số 01 (2013). Hoạt động học tập trong trường đại học của sinh viên là
một hoạt động phức tạp nhằm lĩnh hội hệ thống tri thức, kỹ năng, thái độ nghề
nghiệp để trở thành những chuyên gia giỏi trong một lĩnh vực nghề nghiệp
nhất định. Để đạt được kết quả này đòi hỏi sinh viên khơng chỉ học mà cịn
phải tích cực tự học. Tự học được xem là hoạt động tự thân của sinh viên,
nhưng hiệu quả tự học không chỉ phụ thuộc vào sự nỗ lực của sinh viên mà
còn chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ hoạt động dạy tự học. Trong trường đại học,
dạy tự học là một thành phần quan trọng của dạy học, là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của giảng viên và của nhà trường. Tổ chức dạy tự học

hiệu quả góp phần rất lớn vào việc nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên và
chất lượng đào tạo của nhà trường. Tại Trường Đại học Trà Vinh, kể từ năm
2009 hầu hết các chương trình đào tạo bậc đại học và cao đẳng của nhà
trường chuyển sang đào tạo theo hình thức tín chỉ, điều này làm cho hoạt
động dạy tự học của giảng viên và nhà trường dành cho sinh viên càng trở lên
cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Vậy hoạt động dạy tự học là gì? Đâu là
những vấn đề giảng viên và nhà trường cần quan tâm thực hiện trong quá
trình dạy tự học cho sinh viên? Hoạt động dạy tự học tại Trường Đại học Trà
Vinh hiện nay được thực hiện như thế nào? Đâu là các yếu tố ảnh hưởng đến
thực trạng?. Trong nghiên cứu này, tác giả trình bày một số vấn đề lý luận về
tự học để đánh giá một số hoạt động dạy tự học tại Trường Đại học Trà Vinh.
Kết quả nghiên cứu lý luận cho thấy để nâng cao tính tích cực và hiệu quả tự
học của sinh viên, giảng viên và nhà trường cần quan tâm thực hiện nhiều
hoạt động dạy tự học khác nhau cho sinh viên. Kết quả nghiên cứu thực tiễn
hoạt động dạy tự học tại Trường Đại học Trà Vinh cho thấy giảng viên và nhà
trường đã quan tâm đến hoạt động dạy tự học cho sinh viên nhưng việc thực
hiện chưa được triệt để. Từ đó, tác giả đưa ra ba nội dung cần quan tâm trong
dạy tự học và cách thức thực hiện, đó là: Hình thành ở sinh viên nhận thức
đúng đắn về hoạt động tự học; Hình thành ở sinh viên thái độ tích cực đối với
9


hoạt động tự học; và Dạy các kỹ năng tự học cho sinh viên. Ba nội dung trong
dạy tự học này có quan hệ mật thiết với nhau, là những yếu tố quan trọng giúp
sinh viên thực hiện hoạt động tự học có hiệu quả. Chính vì vậy, trong dạy tự
học cho sinh viên, giảng viên và nhà trường cần quan tâm thực hiện tốt ba nội
dung gắn với các cách thức thực hiện trên.
- Bài báo Phát huy khả năng tự học của sinh viên trong đào tạo theo hệ
thống tín chỉ ở các trường đại học hiện nay, cập nhất trên trang web của
Trường Cao đẳng truyền hình ngày 30/9/2013. Hiện nay việc

đào tạo theo hệ thống tín chỉ đang trở thành một xu thế tất yếu mà các trường
đại học phải hướng tới và triển khai thực hiện. Với xu thế chung đó, đào tạo
theo hệ thống tín chỉ ngày càng được thực hiện rộng rãi ở các trường đại học
trong cả nước. Bản chất của đào tạo theo hệ thống tín chỉ là cá thể hóa việc
học tập trong một nền giáo dục đại học cho số đông. Các triết lý làm nền tảng
cho đào tạo theo tín chỉ là “giáo dục hướng về người học” và “giáo dục đại
học đại chúng”. Các triết lý này được vận dụng nhuần nhuyễn trong nền giáo
dục đại học của Hoa Kỳ, nơi sinh ra hệ thống đào tạo theo tín chỉ. Nó ra đời
đầu tiên ở đại học Havard cuối thế kỷ XIX. Các đặc điểm quan trọng của đào
tạo theo hệ thống tín chỉ quy định phương pháp dạy - học và đánh giá thành
quả học tập. Do mục tiêu cá thể hóa việc học tập, đào tạo theo tín chỉ có đặc
điểm quan trọng nhất là làm cho mỗi người học có thể học theo năng lực và
điều kiện của riêng mình. Ðặc điểm này buộc người học phải sử dụng, khai
thác và phát huy được tính chủ động tự học của mình, và việc học như thế
đồng thời giúp người học biết cách học để tự học – tự hoàn thiện kiến thức.
Mặt khác, chúng ta đang sống trong nền văn minh tri thức của thế kỷ XXI, thế
kỷ mà sự tiến bộ không ngừng của khoa học – công nghệ với những bước
nhảy vượt bậc một năm bằng hàng thế kỷ trước đó. Để không tụt hậu, kịp thời
nắm bắt những tri thức khoa học – công nghệ tiên tiến, mỗi con người phải
khơng ngừng học hỏi, vươn lên tự hồn thiện mình. Và hiện nay, trong cơng
cuộc xã hội hóa giáo dục ở Việt Nam thì việc đổi mới và nâng cao chất lượng
10


giáo dục là bài toán mà lâu nay các nhà quản lí, các nhà nghiên cứu đang đi
tìm lời giải. Mục tiêu của giáo dục Việt Nam là đào tạo con người Việt Nam
phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp.
Về cách học ở các trường đại học, khuyến khích sinh viên lấy tự học là chính,
học tập một cách chủ động và sáng tạo. Trước những yêu cầu đổi mới toàn
diện nền giáo dục ở bậc đại học thì việc đào tạo theo hình thức tín chỉ là

phương pháp đào tạo có nhiều ưu thế so với phương thức đào tạo truyền
thống. Hiện nay, việc áp dụng hình thức này sao cho phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh của mỗi trường là vấn đề lớn và khó đối với cán bộ quản lý, những
người đang giảng dạy và cả sinh viên. Tuy có những bất cập nhưng việc lấy
sinh viên làm trọng tâm để phát huy khả năng tự học của sinh viên theo
chương trình đạo theo tín chỉ thì có thể nói rằng việc học theo tín chỉ là một
trong những biện pháp mang lại hiệu quả giúp cho sinh viên phát huy khả
năng tự học của mình. Để lý giải cho vấn đề này, đồng thời cũng đưa ra
những quan điểm phát huy khả năng tự học của sinh viên, đó là: thứ nhất, đào
tạo theo hệ thống tín chỉ với việc phát huy khả năng tự học của sinh viên; thứ
hai, đào tạo theo hệ thống tín chỉ xác định lấy người học làm trung tâm trong
việc phát huy tính tự học của mình; thứ ba, đào tạo theo hệ thống tín chỉ buộc
người học phải theo dõi nắm bắt lộ trình tiến độ học tập, quyết định cách thức
học tập để phát huy khả năng tự học của mình.
- Bài báo Giải pháp giúp sinh viên nâng cao năng lực tự học, cập nhật
trên trang web ngày 5/3/2014. Giảng viên Phạm Thị
Thanh Hằng - Trường đại học Đồng Tháp chia đưa ra những giải pháp bồi
dưỡng năng lực tự học của sinh viên năm thứ nhất xuất phát từ cả phía sinh
viên và giảng viên. Trước hết, yêu cầu với sinh viên: Để nâng cao năng lực tự
học sinh viên cần tin tưởng vào khả năng tự học của mình; đồng thời phải
phát huy tối đa nội lực và tận dụng triệt để các yếu tố khách quan, nhất là sự
hướng dẫn của giáo viên. Sinh viên cần cần xác định được mục đích, động cơ,
nhu cầu học tập; xây dựng thời gian biểu hợp lý giữa các môn học, địa điểm,
11


thời gian, hình thức tự học... Có thể có sự điều chỉnh thời khố biểu trong q
trình tự học nhưng phải có ý chí hồn thành thời gian biểu đã đặt ra. Có
phương pháp tự học một cách khoa học và hợp lý: Biết cách đọc tài liệu để
phát hiện bản chất của vấn đề, biết cách tóm tắt và ghi chép. Thứ hai, đối với

giảng viên: muốn khả năng tự học của sinh viên được bồi dưỡng và phát triển,
ngồi nhân tố nội lực của chính sinh viên, cịn có một nhân tố quan trọng từ
sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của giảng viên thơng qua giảng dạy trực tiếp
trên lớp, qua trò chuyện hay sử dụng cơng nghệ thơng tin, tổ chức các chun
đề ngoại khóa, kết hợp hoạt động học tập, hoạt động nghiên cứu khoa học với
thực tiễn cuộc sống, thực tiễn nghề nghiệp tương lai của sinh viên,….
- Nguyễn Thanh Thủy (2016), Hình thành kỹ năng tự học cho sinh viên
– nhu cầu thiết yếu trong đào tạo ngành sư phạm, Tạp chí khoa học – Đại học
Đồng Nai, Số 03/2016. Trong xu thế tồn cầu hóa như hiện nay, đặc biệt là
trong đổi mới đào tạo theo hệ thống tín chỉ thì hoạt động tự học của sinh viên
được đặt ra và trở thành một vấn đề then chốt cho hình thức đào tạo này.
Chính việc tự học của sinh viên là chìa khóa cho sự thành cơng khơng chỉ đối
với bản thân họ mà cịn góp phần thực hiện hiệu quả công cuộc đổi mới
phương phức đào tạo cho các trường đại học như hiện nay. Do đó việc tự học
sẽ trở thành mục tiêu, động lực cho phương thức đào tạo hiện nay trong các
trường đại học, cao đẳng để có thể đào tạo ra những con người lao động tự
chủ, sáng tạo, năng động, độc lập để có khả năng học tập liên tục, học suốt
đời. Tự học chính là q trình con người tự giác, tích cực tiếp thu hệ thống tri
thức, những kinh nghiệm từ môi trường xung quanh bằng các thao tác trí tuệ,
nhằm hình thành cấu trúc tâm lý mới để biến đổi nhân cách của mình theo
hướng ngày càng hồn thiện. Theo quan niệm này, người thầy được xem như
là chuyên gia của việc học, có nghĩa là người thầy phải biết rèn luyện khả
năng tự học cho sinh viên. Để làm được điều đó, trước tiên chính bản thân
người thầy giáo phải có kỹ năng tự học. Vì vậy bồi dưỡng kỹ năng tự học cho
sinh viên sư phạm là một việc cần thiết và có ý nghĩa to lớn trong đào tạo. Bài
12


khoa học này đề cập vài nét những vấn đề lý luận về tự học, tự bồi dưỡng kỹ
năng tự học và đề xuất một số biện pháp bồi dưỡng kỹ năng tự học cho sinh

viên sư phạm.
Nhìn chung, các cơng trình khoa học đã đề cập và luận giải nhiều khía
cạnh của vấn đề tự học, phương pháp tự học. Các cơng trình đã khẳng định
vai trị của tự học, phương pháp tự học đối với việc hình thành, phát triển,
hoàn thiện tri thức và nhân cách của sinh viên. Tuy nhiên, chưa có cơng trình
nào đề cập đến vấn tự học của sinh viên nội trú ở Học viện Báo chí và Tun
truyền. Vì vậy, tác giả lừa chọn chủ đề Nâng cao ý thức tự học của sinh viên
nội trú ở Ký túc xá Học viện Báo chí và Tuyên truyền làm đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
*Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích lý luận về ý thức tự học của sinh viên nội trú ở
trường đại học và thực trạng ý thức tự học của sinh viên nội trú ở Ký túc xá
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, đề tài đề xuất các giải pháp nâng cao ý
thức tự học của sinh viên nội trú ở Ký túc xá Học viện hiện nay.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận về ý thức tự học của sinh viên nội trú ở trường
đại học.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng ý thức tự học của sinh viên nội trú ở Ký
túc xá Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
- Đề xuất các giải pháp naagn cao ý thức tự học của sinh viên nội trú ở
Ký túc xá Học viện Báo chí và Tuyên truyền đáp ứng yêu cầu xây dựng và
phát triển Học viện trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Ý thức tự học của sinh viên nội trú.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu ý thức tự học của
sinh viên nội trú ở Ký túc xá Học viện Báo chí và Tuyên giai đoạn từ 2010
13


đến nay.

5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể được sử dụng trong quá
trình triển khai luận án: Phương pháp Thống kê; Phân tích - Tổng hợp;
phương pháp chuyên gia, phương pháp so sánh…
6. Đóng góp mới của đề tài
Đưa ra giải pháp đổi nâng cao ý thức tự học của sinh viên nội trú ở Ký
túc xá Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Hệ thống hóa về mặt lý luận ý thức tự học của sinh
viên nội trú, chỉ ra những thành công và mặt hạn chế, cung cấp cơ sở khoa
học để có đề xuất các giải pháp nâng cao ý thức tư học của sinh viên nội trú ở
Ký túc xá Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu có thể được áp dụng cho sinh
viên nói chung và sinh viên nội trú nói riêng, cho các trường đại học khác có
sinh viên ở khu nội trú. Đề tài là tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý giáo
dục.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về ý thức tự học của sinh viên nội trú ở trường
đại học
Chương 2: Thực trạng ý thức tự học của sinh viên nội trú ở Ký túc xá
Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay.
Chương 3: Giải pháp nâng cao ý thức tự học của sinh viên nội trú ở Ký
14


túc xá Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay.


15


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC TỰ HỌC
CỦA SINH VIÊN NỘI TRÚ TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC

1.1. Khái niệm sinh viên nội trú
Sinh viên
Điều 83 Luật giáo dục năm 2005 quy định: Người học là người đang
học tập tại cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. Người học bao
gồm:
a) Trẻ em của cơ sở giáo dục mầm non;
b) Học sinh của cơ sở giáo dục phổ thông, lớp dạy nghề, trung tâm dạy
nghề, Trường trung cấp, Trường dự bị đại học;
c) Sinh viên của Trường Cao đẳng, Trường đại học;
d) Học viên của cơ sở đào tạo thạc sỹ;
đ) Nghiên cứu sinh của cơ sở đào tạo tiến sỹ;
e) Học viên theo học chương trình giáo dục thường xuyên.
Với các căn cứ trên, sinh viên là người đang học tại các Trường ĐH và
cao đẳng1. sinh viên là một trong các thành tố quan trọng, là yếu tố trung tâm
của quá trình giáo dục2.
Như vậy, Sinh viên là những người học trong các trường đại học và cao
đẳng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Sinh viên là nhân vật trung tâm trong
nhà trường, được nhà trường bảo đảm điều kiện thực hiện đầy đủ quyền và
nghĩa vụ trong q trình học tập đó. Sinh viên là:
- Những người đã tốt nghiệp trung học phổ thông.

1


Vụ công tác lập pháp (2005), Luật giáo dục, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.116.

2

Vụ công tác lập pháp (2005), Luật giáo dục, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.19.

16


- Người đã vượt qua kỳ thi tuyển sinh vào Trường đại học và đỗ vào
Trường.
- Người thuộc nhóm thanh niên, nam nữ từ 18 đến 25 tuổi.
- Người chưa có nghề nghiệp, chưa có việc làm xác định, do đó cịn lệ
thuộc gia đình về kinh tế.
- Người là nhóm xã hội đặc biệt gồm những thanh niên xuất thân từ các
tầng lớp xã hội khác nhau đang trong q trình học tập, chuẩn bị nghề nghiệp
chun mơn để bước vào một nhóm xã hội mới là tầng lớp tri thức trẻ.
Sinh viên nội trú
Sinh viên nội trú là sinh viên đang học ở các trường đại học, cao đẳng
trong hệ thống giáo dục quốc dân và hiện đang ở trong khu nội trú/ký túc xá
(sau đây thống nhất gọi là ký túc xá) của Trường.
Hiện nay, đa số các trường đại học, cao đẳng đều có ký túc xá dành cho
sinh viên, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên có nhu cầu và nguyện vọng ở
nội trú. Hàng năm, ký túc xá của Trường thực hiện việc tiếp nhận sinh viên
vào ở nội trú theo đúng quy trình đã qui định. Trong trường hợp sinh viên
đăng ký ở nội trú nếu số người có nguyện vọng vào ở nội trú lớn hơn khả
năng tiếp nhận của khu nội trú thì thứ tự ưu tiên theo đối tượng như sau:
1. Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, anh hùng lao động, thương
binh bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh, sinh viên khuyết

tật.
2. Con liệt sỹ, con thương binh, con bệnh binh, con của người hưởng
chính sách thương binh, con của người có cơng.
3. Sinh viên có hộ khẩu thường trú tại vùng cao, vùng có điều kiện kinh
tế xã hội đặc biệt khó khăn.
4. Người cha hoặc người mẹ là dân tộc thiểu số.
5. Con mồ côi cả cha lẫn mẹ.

17


6. Sinh viên là con hộ nghèo, cận nghèo theo quy định hiện hành của
nhà nước.
7. Sinh viên nữ.
8. Sinh viên tích cực tham gia các hoạt động do Nhà trường, Đồn
TNCS Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên, khu nội trú hoặc các tổ chức xã hội tổ
chức3.
Sinh viên nội trú phải chịu sự quản lý của Nhà trường, của Ký túc xá và
có nghĩa vụ thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách pháp luật của
Nhà nước và Quy định công tác sinh viên nội trú hiện hành của Nhà trường.
1.2. Ý thức tự học của sinh viên nội trú
1.2.1. Khái niệm Ý thức
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng ý thức ra đời là kết quả của
q trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên và xã hội. Ý thức có hai nguồn gốc là
nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: thể
hiện qua sự hình thành của bộ óc con người và hoạt động của bộ óc đó cùng
mối quan hệ của con người với thế giới khách quan, trong đó thế giới khách
quan tác động đến bộ óc con người tạo ra q trình phản ánh năng động, sáng
tạo; Nguồn gốc xã hội của ý thức: ý thức khơng thể tồn tại ngồi não người;
tuy nhiên, ý thức không phải do não sinh ra. Não chỉ là cơ quan thực hiện

chức năng phản ánh. Để có ý thức phải có não người và thế giới khách quan.
Ngồi ra cịn phải có những điều kiện xã hội nữa đó là: lao động, ngơn ngữ.
Theo C.Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào
trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó” 4. Về bản chất, ý thức là
sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người. Ý thức là hình ảnh
của sự vật được thực hiện ở trong bộ óc con người. Nhưng đây là sự phản ánh
năng động, sáng tạo; sự phản ánh có chọn lọc, phản ánh cái cơ bản nhất mà
3

Thông tư số 27/2011/TT-BGDĐT ngày 28/6/1997 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo về việc ban hành
Quy chế công tác học sinh, sinh viên nội trú trong các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
4

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.35.

18


con người quan tâm; là sự phản ánh không nguyên xi mà cịn được cải biến
trong bộ óc con người. Phán ánh của ý thức có thể là phản ánh vượt trước
hiện thức, có thể dự báo được xu hướng biến đổi của thực tiễn; ý thức là ý
thức của con người nhưng con người là con người hiện thực của một xã hội
cụ thể.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm: ý thức là sự phản ánh thế
giới xung quanh vào não bộ con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan. Là hình ảnh chủ quan vì nó khơng có tính vật chất, nó là hình ảnh
tinh thần. “ý thức chỉ là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc người và
được cải biến đi ở trong đó”. Mà sự phản ánh ý thức là sự phản ánh chủ động,
tích cực, có mục đích, thơng qua lao động, phản ánh ở đây là phản ánh sang
tạo khác tâm lý động vật. Ý thức phản ánh thế giới khách quan dưới dạng quy

luật, bản chất vì thế có thể giúp con người chi phối sự phát triển của sinh
viên.
1.2.2. Tự học và các thành tố của hoạt động tự học
Khái niệm tự học
Tự học là một nội dung vừa có tính truyền thống vừa có tính thời sự
phổ biến khơng chỉ ở nước ta mà cịn là vấn đề của nhiều nước. Ngay từ xa
xưa, Khổng Tử đã ý thức được tầm quan trọng của việc tự học đối với mỗi
con người. Theo ông học không chỉ ở trường mà còn học ở bạn bè, học ở mọi
nơi, học ở mọi người bằng ý chí và nghị lực và niềm say mê là cách tự học
của Khổng Tử.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương lớn của tự học, Người đã đến với
chủ nghĩa cộng sản bằng con đường tự học và sự tự học của Người gắn chặt
với mục tiêu lý tưởng mà Người đã vạch ra. Đặc biệt, Người rất chú trọng sự
thực hành trong tự học. Người dạy “học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời.
Suốt đời phải gắn liền lý luận với cơng tác thực tiễn. Khơng ai có thể tự cho
mình đã biết đủ rồi, đã biết hết rồi. Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân ta
19


ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp
nhân dân” . Người cho rằng tự học chính là sự nổ lực của bản thân người học,
sự làm việc của bản thân người học một cách có kế hoạch trên tinh thần tự
động học tập.
Có nhiều quan niệm về tự học: “Tự học là tự đặt mình vào tình huống
học, vào vị trí của người tự nghiên cứu, xử lý các tình huống, vào vị trí của
người tự nghiên cứu, xử lý các tình huống, giải quyết các vấn đề đặt ra cho
mình, nhận biết vấn đề, thu thập xử lý thơng tin, tái hiện kiến thức cũ, xây
dựng các giải pháp giải quyết vấn đề, xử lý tình huống, thực nghiệm các giải
pháp, kết quả, kiến thức mới mình đã tự lực tìm ra, tự học thuộc q trình cá
nhân hóa việc học”5; “Tự học là một q trình, trong đó dưới vai trò chủ đạo

của giáo viên, người học tự mình chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, thơng qua các
hoạt động trí tuệ (quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh phán đoán …) và cả
các hoạt động thực hành (khi phải sử dụng các thiết bị đồ dùng học tập). Tự
học gắn liền với động cơ, tình cảm và ý chí… của người học để vượt qua
chướng ngại vật hay vật cản trong học tập nhằm tích lũy kiến thức cho bản
thân người học từ kho tàng tri thức của nhân loại, biến những kinh nghiệm
này thành kinh nghiệm và vốn sống của bản thân người học” 6; Trong cuốn
sách “Tự học như thế nào”, Rubakin cho rằng tự học là một quá trình so sánh
đối chiếu và đáp, đó là sự so sánh giữa lý thuyết và thực hành, giữa sách vở
và thực tế cuộc sống, từ đó rút ra cho mình một tri thức riêng đầy sáng
tạo.Trong q trình tự học con người khơng hồn tồn phụ thuộc vào cuộc
sống mà cần phải cải tạo cuộc sống sao cho ngày càng cao hơn; Nguyễn Cảnh
Toàn, người đã dành nhiều tâm huyết vào vấn đề tự học, ông đã đưa ra một
quan niệm về tự học có thể xem hồn chỉnh “Tự học là tự mình dùng các giác
quan để thu thập thơng tin rồi tự mình động não, sử dụng các năng lực trí tuệ
(quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng
5

Vụ công tác lập pháp (2005), Luật giáo dục, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.15.

6

Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Như Ý (1998), Tự học- tự đào tạo, tư tưởng chiến lược phát triển của Giáo dục
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

20


cơng cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh
quan, thế giới quan để chiếm lĩnh cho được một lĩnh vực hiểu biết nào đó,

một kỹ năng nào đó, một số phẩm chất nào đó của nhân loại hay cộng đồng
rồi biến chúng thành sở hữu của mình. Phát minh ra cái mới cũng có thể coi là
hình thức tự học cao cấp”7.
Nhìn chung, các tác giả đều quan niệm rằng, tự học là học với sự độc
lập và tích cực, tự giác ở mức độ cao. Tự học là quá trình mà trong đó chủ thể
người học tự biến đổi mình, tự biến đổi các giá trị của mình, tự làm phong
phú giá trị của mình bằng các thao tác tư duy và ý chí, nghị lực và sự say mê
học tập của cá nhân. Cho dù tiếp cận dưới cách thức nào thì cũng có thể hiểu
rằng tự học là q trình bản thân người học tích cực, độc lập, tự giác chiếm
lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, năng động tìm tịi, phân tích sách vở, tài liệu
tham khảo bằng những phương pháp phù hợp trên cơ sở hướng dẫn của giảng
viên. Như vậy, vấn đề tự học cần có sự đổi mới về bản chất, khơng cịn là một
hoạt động tự phát hay ép buộc mà phải là một hoạt động tự giác và chịu sự
điều khiển của giảng viên trong nội dung học tập.
Tóm lại, tự học là một q trình con người vượt qua hồn cảnh và vượt
qua chính mình, biết tự vận dụng tất cả từ ý chí nghị lực, tư duy, nhân cách,
tâm hồn, mục đích sống đến khát vọng của bản thân để vượt qua mọi khó
khăn nhằm chiếm lĩnh tri thức của nhân loại. Hoạt động tự học được diễn ra
trong mọi thời điểm từ tự học ở nhà, tự học ở trường và tự học cả bên ngoài
xã hội. Kết quả của việc tự học được đánh giá bởi chính hiệu suất và hiệu quả
công việc của từng người, phụ thuộc vào khả năng tiếp thu, hoàn cảnh và thời
gian từng người. Nhìn chung mọi người đều nhằm mục đích biết được càng
nhiều kiến thức càng tốt để nâng mình lên đến một trình độ cao, phục vụ cho
cuộc sống của mình tốt hơn.
Các thành tố cấu thành hoạt động tự học
7

Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ (1998), Nghiên cứu và phát triển tự học, tự đào tạo, tự học, tự đào tạo tư
tưởng chiến lược của phát triển Giáo dục Việt Nam, Nxb, Giáo dục, Hà Nội.


21


Một là, chủ thể của tự học là sinh viên
Tự học là quá trình người học tự ý thức, tự nỗ lực chiếm lĩnh tri thức
bằng hành động của chính mình hướng tới mục đích nhất định. Nó cịn là q
trình tự giác, tích cực chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng kĩ xảo của bản
thân người học. Trong q trình đó, người học thực sự là chủ thể của nhận
thức, nỗ lực huy động các chức năng tâm lý nhằm đạt được những mục tiêu đã
định.
Tự học còn là hình thức dạy - học cơ bản ở đại học, đó là hình thức tổ
chức hoạt động nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức, kĩ
năng do chính bản thân người học tiến hành ở trên lớp, hoặc ở ngồi lớp, theo
hoặc khơng theo chương trình và sách giáo khoa đã được ấn định sẵn. Khi
người học tự giác phát huy hết phẩm chất và năng lực của mình vào quá trình
chiếm lĩnh tri thức thì khi đó họ tiến hành tự học.
Ở bất kỳ bậc học hay cấp học nào ý thức tự học cũng có ý nghĩa rất
quan trọng đối với kết quả học tập, tuy nhiên đối với sinh viên ở các trường
đại học nó lại càng thiết thực hơn bởi ý thức tự học của sinh viên ở các trường
đại học có nét đặc thù so với phổ thơng, thể hiện hoạt động nhận thức của
sinh viên ở mức cao hơn, mang tính chất độc lập, tự lực, tự giác, sáng tạo
trong việc tiếp thu tri thức cũng như việc vận dụng tri thức vào các tình huống
cụ thể. Do đó có thể nói ý thức tự học là một khâu của q trình giáo dục, là
một q trình gia cơng, chế biến và tự điều khiển theo đúng mục tiêu giáo dục
qui định. Bậc học ở đại học, đòi hỏi sinh viên phải tiếp thu một lượng kiến
thức lớn và khó, cho nên ngồi thời gian học trên lớp sinh viên phải có ý thức
tự học, tự nghiên cứu ngồi giờ lên lớp để mở rộng và đào sâu tri thức. Cũng
chính thơng qua ý thức tự học này đã giúp rất nhiều cho sinh viên trong quá
trình học tập.
Hai là, vai trị định hướng từ phía người dạy – giảng viên. Người sinh

viên có phương pháp học tập tốt, đó là mang tính chất tự học, tự nghiên cứu
nhưng điều đó cũng khơng có nghĩa là thiếu vai trị của người giáo viên trong
22


việc trợ giúp và tạo điều kiện phát triển việc tự học là rất quan trọng và đòi
hỏi nhiều nỗ lực. Trong xã hội hiện đại với sự bùng nổ thông tin, sự phát triển
như vũ bão của khoa học, công nghệ, thời gian trên lớp học không đủ để trang
bị cho người học mọi tri thức và không thể nhồi nhét vào đầu óc người học
quá nhiều kiến thức. Vì vậy cần phải rèn luyện ý thức tự học và phương pháp
hoc tập đúng cho sinh viên ngay từ khi vào đại học càng lên cao hơn thì càng
phải được chú trọng. Trong quá trình dạy học giáo viên ln giữ một vai trị
quan trọng đặc biệt khơng thể thiếu được đó là sự tổ chức, điều khiển, hướng
dẫn, chỉ đạo hoạt động học tập của sinh viên, trong đó cần nêu cao vai trị của
ý thức tự học. Nhưng thực tế cho thấy rằng, dù giáo viên có kiến thức uyên
thâm đến đâu, phương pháp giảng dạy hay đến mấy nhưng học sinh không
chịu đầu tư thời gian, khơng có sự lao động của cá nhân, khơng có niềm khao
khát với tri thức, khơng có sự say mê học tập, khơng có kế hoạch và phương
pháp học tập hợp lý, khơng tự giác tích cực trong học tập... thì việc học tập
khơng đạt kết quả cao được. Giáo viên sẽ là người giúp người học kiểm soát
được việc học của chính mình, giúp họ trở nên có ý thức và xác định được
chiến lược mà họ đã từng sử dụng hoặc có thể sẽ sử dụng. Giáo viên trước hết
phải giúp sinh viên ý thức được vai trò và tầm quan trọng của việc tự học, tiếp
đến cung cấp cho sinh viên kiến thức về cách học ngoại ngữ và hướng dẫn họ
tự học có hiệu quả. Như vậy muốn nâng cao chất lượng học tập của sinh viên
trong trường học nói chung, chúng ta cần phải quan tâm đúng mức đến việc
bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ nghiệp vụ của người giáo viên đồng
thời phải đặc biệt chú ý đến vị trí trung tâm của người sinh viên trong hoạt
động tập thể để làm sao khai thác triệt để những tiềm năng vốn có trong người
họ, phát huy tính tự giác, tích cực sáng tạo, chủ động trong quá trình lĩnh hội

tri thức nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước, đáp ứng nhu cầu của xã hội và
đất nước.
Ba là, các điều kiện về nhà trường và các tổ chức chính trị - xã hội có
tác dụng lớn trong việc động viên khuyến khích hướng dẫn sinh viên có ý
23


thức tự học một cách đúng hướng và hiệu quả như: Nhà trường trang bị cơ sở
vật chất, phòng học hiện đại, thư viện và mạng máy tính có máy chủ để sinh
viên có thể tự học ở nhà, giáo viên thiết kế các giáo trình phù hợp để phát
triển năng lực tự học tự nghiên cứu. Thông qua trang thiết bị hiện đại sinh
viên có thể giao tiếp với giáo viên và bạn bè hiệu quả.
Bốn là, các hình thức tự học
Tự học thực hiện qua nhiều bước khác nhau như: tiếp nhận thông tin từ
nhiều kênh khác nhau, xử lý thông tin đã tiếp nhận dựa vào kinh nghiệm hiểu
biết của bản thân, tự kiểm tra, đánh giá thông tin thu được và giải quyết các
vấn đề do nhiệm vụ nhận thức và thực tiễn đạt ra, tự học diễn ra với các hình
thức sau:
- Tự học hồn tồn: là hình thức mà người học hồn tồn độc lập hồn
thành các nhiệm vụ học tập của mình, vai trò của người học là nhân tố trọng
yếu nhất trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Hình thức tự học này còn gọi là
tự nghiên cứu của các nhà khoa học.
- Tự học có sự điều khiển, chỉ đạo của thầy nhưng khơng giáp mặt:
Hình thức tự học này địi hỏi người học phải có tính tự giác và tính tự lực cao,
phải tuân thủ theo chỉ dẫn của thầy. Hiệu quả của hình thức tự học này phụ
thuộc vào vai trị của người hướng dẫn, và vai trị tích cực, chủ động hoàn
thành các nhiệm vụ học tập của người học.
- Tự học dưới sự tổ chức, chỉ đạo, điều khiển trực tiếp của thầy:
Thông qua biện pháp tổ chức, định hướng, thiết kế chỉ đạo của người
thầy nhằm giúp cho người học tự tổ chức, tự thiết kế, tự thi cơng hoạt động

học tập của mình bằng hoạt động tự nghiên cứu, tự thể hiện, tự kiểm tra, tự
điều chỉnh nhằm hoàn thành nhiệm vụ học tập. Kết quả tự học của sinh viên
trong hình thức này phụ thuộc vào mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa
người dạy và người học, yếu tố đóng vai trị quan trọng là sự tổ chức, chỉ đạo
của thầy, yếu tố đóng vai trị quyết định là sự tích cực, tính tự giác, năng lực
24


tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động tự học của sinh viên. Vì vậy nhiệm vụ
quan trọng của người thầy trong hình thức tự học này là phải phát huy được
tính chủ động tích cực, tính tự giác, tính độc lập hoàn thành các nhiệm vụ học
tập của sinh viên, hình thành phương pháp tự học cho sinh viên để họ có khả
năng tự học, tự hồn thành các nhiệm vụ học tập của mình.
1.2.3. Ý thức tự học của sinh viên nội trú
Khái niệm
Ý thức là một điều rất quan trọng để tạo ra động cơ và mục đích hướng
đến khi thực hiện một vấn đề nào đó. Do vậy, trong vấn đề tự học, một trong
những đòi hỏi đầu tiên là sinh viên phải tự ý thức được vai trò quan trọng của
được việc cần thiết tự học ở môi trường học tập bậc đại học. Thực tế cho thấy
rằng, không phải sinh viên nào cũng ý thức được một cách đầy đủ và tự giác
về việc tự học. Muốn vậy, sinh viên phải chủ động tự học, coi tự học là vấn đề
bức thiết, hình thành sớm ý thức tự học thì sẽ tạo thành thói quen cố hữu của
con người tự học sau này. Sinh viên phải coi tự học như là nhu cầu nội tại
vươn lên làm chủ tri thức để làm việc. Vì rằng, trong điều kiện nhiều học
phần không giảm số lượng và mức độ của tri thức, thậm chí tăng lên đồng
thuận với yêu cầu của xã hội ngày càng khắt khe, khi mà lượng thời gian dành
cho mỗi học phần giảm đi so với trước đây.
Ý thức tự học của sinh viên nội trú là nhận thức của sinh viên nội trú
về vai trị và vị trí của tự học đối với sự phát triển con người và toàn xã hội,
biểu hiện qua thái độ tự học, các hình thức tự học và kết quả của tự học. Ý

thức tự học chính là động lực quan trọng quyết định đưa con người đến thành
công.
Biểu hiện ý thức tự học của sinh viên nội trú
Một sinh viên có ý thức tự học tốt phải là người biết cách sắp xếp thời
gian học tập: Học tập trên lớp, nghiên cứu tài liệu mọi nơi mọi lúc ngay cả
trong vui chơi giải trí hoặc học qua mạng Internet. Trên lớp một người có ý
25


×