Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Nguyên nhân và giải pháp chống lạm phát tại việt nam trong giai đoạn 2007 2012 đánh giá về triển vọng lạm phát năm 2022 ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.66 MB, 54 trang )

PHỤ LỤC
1. Danh mục bảng biểu
Hình 1: Lạm phát do lượng tiền cung ứng tăng liên tục và kéo dài
Hình 2: Lạm phát do cầu kéo
Hình 3: Lạm phát do chi phí đẩy
Biểu đồ 1: Biểu đồ CPI qua 12 tháng năm 2008
Biểu đồ 2: Diễn biến CPI năm 2009(%)
Biểu đồ 3: Diễn biến CPI năm 2010-2011(%)
Biểu đồ4: Diễn biến giá cả hàng hóa thế giới, giá lương thực và giá dầu thơ giai
đoạn 2006-2011
Biểu đồ 5: Vay nợ chính phủ ròng, giá trị nợ ròng và tổng nợ từ 2002-2010
Bảng 1: Dự báo CPI thế giới, ASEAN & Việt Nam 2021-2022f(%, yog)
Bảng 2: Dự báo giá hàng hóa thế giới giai đoạn 2022-2025
2. Danh mục từ viết tắt
CPI: Chỉ số giá tiêu dùng ( Consumer Price Index)
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội ( Gross Domestic Product)
PPI: Chỉ số giá bán của người sản xuất ( Producers Price Index)
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài( Foreign Direct Investment)
ICOR: Hệ số sử dụng vốn đầu tư( Incremental Capital - Output Ratio)
IPO: Chứng khốn phát hành cơng khai lần đầu (Initial Public Offering)
WTO: Tổ chức thương mại thế giới ( World Trade Organization)
WB: Ngân hàng thế giới ( World Bank)
OPEC: Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (Organization of the Petroleum
Exporting Countries)
NHTW: Ngân hàng Trung ương
NHTM: Ngân hàng thương mại
UBND: Ủy ban nhân dân


CSTK: Chính sách tài khóa
CSTT: Chính sách tiền tệ


NSNN: Ngân sách nhà nước

Lời mở đầu
Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là vấn đề hết sức
phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong mốn đặt
được kết quả khả quan. Lạm phát ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân,
đến đời sống xã hội đặc biệt là giới lao động. Nét đặc trưng của thực trạng nền
kinh tế có lạm phá, giá cả hầu hết các hàng hóa đều tăng cao và sức mua của
đồng tiền ngày càng giảm nhanh.
Ở nước ta, từ cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20. Lạm phát diễn ra nghiêm
trọng và kéo dài. Phá vỡ toàn bộ kế hoạch của nền kinh tế, phương hại đến tất
cả các mối quan hệ trong nền kinh tế - xã hội mà nguồn gốc của nó là do hậu
quả nặng nề của chiến tranh, cơ cấu kinh tế bất hợp lý kéo dài.
Nắm bắt được tầm quan trọng đặc biệt này, đề tài “Nguyên nhân và giải
pháp chống lạm phát tại Việt Nam trong giai đoạn 2007-2012. Đánh giá về
triển vọng lạm phát năm 2022 ở Việt Nam” giải quyết hai mục tiêu chính: Tìm
hiểu và phân tích những nguyên nhân của lạm phát tại Việt Nam trong giai
đoạn 2007-2012 Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện vấn đề lạm phát.
Đồng thời đánh giá về triển vọng lạm phát năm 2022 ở Việt Nam.

CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT


1. Các khái niệm về lạm phát
Trong kinh tế vĩ mô (macroeconomics), lạm phát được hiểu là sự tăng
lên trong mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa và dịch vụ theo thời
gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó. Khi mức giá chung tăng cao,
một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn so với trước đây, do
đó lạm phát phản ánh sự suy giảm sức mua trên một đơn vị tiền tệ. Khi so sánh
với các nước khác thì lạm phát là sự giảm giá trị tiền tệ của một quốc gia này so

với các loại tiền tệ của quốc gia khác. Theo cách hiểu thứ nhất thì lạm phát chỉ
có tác động trong lãnh thổ một quốc gia, cịn theo nghĩa thứ hai thì lạm phát
được hiểu là có tác động tới những quốc gia sử dụng loại tiền tệ đó. Cho tới hiện
tại, phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một vấn đề gây tranh cãi
giữa các nhà kinh tế học vĩ mơ.
Tuy nhiên các nhà kinh tế thích đo lường bằng những chỉ số cụ thể hơn, đó
là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số điều chỉnh thu nhập quốc dân.
CPI thể hiện sự thay đổi tính theo phần trăm của bình qn giá hàng tiêu
dùng qua một giai đoạn nhất định. Do khơng thể tính giá của tất cả hàng hóa
trên thị trường, CPI được tính trên cơ sở bình qn gia trọng của tập hợp một số
hàng hóa đại diện. Ví dụ, CPI ở Việt Nam được tính dựa vào 130 nhóm hàng
tiêu biểu. Trong tập hợp tính CPI, lương thực chiếm trọng số rất cao ở các nước
nghèo nhưng lại thấp ở các nước giàu.
Cao Thị Ý Nhi và Đặng Anh Tuấn (2018, tr.405) cho rằng “hiện nay, lạm
phát được định nghĩa là sự tăng lên liên tục của mức giá chung hoặc là quá trình
đồng tiền liên tục giảm giá”. Tuy nhiên, lạm phát không đồng nghĩa với việc giá
cả của tất cả mọi hàng hóa trong nền kinh tế buộc phải tăng lên, mà chỉ cần mức
giá trung bình của các hàng hóa đó tăng lên mà thơi. Thậm chí, ngay cả khi giá
của một số hàng hóa giảm đi thì lạm phát vẫn có thể xuất hiện khi giá hàng hóa
và dịch vụ khác tăng đủ mạnh để lấn át hiệu ứng giảm đi của các hàng hóa đó.
Ngồi ra, lạm phát cũng có thể được phát biểu là sự suy giảm sức mua của
đồng tiền. Thật vậy, khi một nền kinh tế có lạm phát thì điều đó đồng nghĩa với
việc một đơn vị tiền tệ sẽ ngày càng mua được ít hàng hóa hơn so với trước.
Hay các chủ thể trong nền kinh tế sẽ phải chấp nhận bỏ ra một số tiền lớn hơn
để mua được một số lượng hàng hóa như trước đây khi mà lạm phát xảy ra.
Về khía cạnh thu nhập, nếu như tốc độ trượt giá tăng nhanh hơn so với
thu nhập bằng tiền của người lao động thì thu nhập thực tế mà họ nhận được sẽ


giảm. Bởi vậy, thu nhập thực tế của họ tăng lên hay giảm xuống trong thời kì

lạm phát là do yếu tố thu nhập bằng tiền quyết định. Nếu như thu nhập bằng tiền
của họ tăng nhanh hơn tốc độ tăng giá thì các cá nhân hồn tồn vẫn có thể trở
nên khá giả hơn ngay cả khi lạm phát hiện hữu.
Vũ Kim Dũng và Nguyễn Văn Công (2018, tr.325) nhấn mạnh: “Một điều
quan trọng mà chúng ta cần nhận thức là lạm phát không chỉ đơn thuần là sự gia
tăng của mức giá chung mà đó phải là sự gia tăng liên tục của mức giá chung.
Nếu như chỉ có một cú sốc xuất hiện làm tăng mức giá chung, thì dường như
mức giá chỉ đột ngột bùng lên rồi lại giảm trở lại mức ban đầu ngay sau đó.
Hiện tượng tăng giá tạm thời như vậy khơng được gọi là lạm phát. Tuy nhiên,
trong thực tế mỗi cú sốc thường có ảnh hưởng kéo dài đối với nền kinh tế và do
đó có thể gây ra lạm phát.”
2. Đo lường lạm phát
Việc tính tốn được lạm phát của nền kinh tế trong từng giai đoạn nhất
định (thường là 1 năm) là rất quan trọng với mỗi quốc gia để đưa ra các chính
sách kinh tế vĩ mơ phù hợp. Để phục vụ cho việc đó, các nhà kinh tế sử dụng
chỉ tiêu tỉ lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi trong mức giá chung.
Hiện nay tồn tại 3 chỉ tiêu để biểu thị chỉ số giá, bao gồm:
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là chỉ tiêu phản ánh mức chi phí nói chung mà
một người tiêu dùng điển hình bỏ ra để mua hàng hóa và dịch vụ. Đây cũng
được xem là chỉ tiêu phổ biến nhất, được hầu hết các quốc gia sử dụng để tính tỉ
lệ lạm phát vì nó gắn liền với đời sống hàng ngày của người dân.
Chỉ số giá sản xuất hay chỉ số giá bán buôn (PPI) thường được các doanh
nghiệp hay các hãng kinh doanh quan tâm. Chỉ tiêu này cho biết chi phí mà
doanh nghiệp phải bỏ ra để mua một giỏ hàng hóa và dịch vụ. Cao Thị Ý Nhi và
Đặng Anh Tuấn (2018, tr. 408) nêu rõ “Chỉ số này phản ánh biến động giá của
ba nhóm hàng hóa: (1) lương thực thực phẩm, (2) các sản phẩm hàng hóa thuộc
ngành chế tạo và (3) sản phẩm của ngành khai khoáng.”
Chỉ số giảm phát hay chỉ số điều chỉnh GDP (D) thường được dùng để điều
chỉnh GDP danh nghĩa về GDP thực tế và chỉ số này cũng giúp các quốc gia có
thể đánh giá khái quát được tình trạng giá cả của nước mình. Chỉ số này tính

theo giá thị trường hay giá hiện hành được sử dụng trong tính GDP nhằm phản


ánh những biến động trong giá cả của tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ tồn tại
trong nền kinh tế quốc gia.
Cao Thị Ý Nhi và Đặng Anh Tuấn (2018, tr.408) cho rằng tỷ lệ lạm phát là
một chỉ tiêu cho biết sự biến động trong chỉ số giá chung giữa 2 thời kì:
gp= (IP1IP0-1)*100%=(CPI1CPI0-1)*100%
Trong đó:
- gp: tốc độ tăng trưởng của mức giá chung
- IP1: chỉ số giá cả chung của kì này
- IP0: chỉ số giá cả chung của kì trước
3. Phân loại lạm phát
3.1. Căn cứ vào mặt định lượng
- Dựa theo mức độ nghiêm trọng của tỷ lệ lạm phát tính theo từng năm, các nhà
kinh tế học chia lạm phát thành 3 loại, bao gồm: Lạm phát vừa phải, lạm phát
phi mã và siêu lạm phát.
+Lạm phát vừa phải được đặc trưng bởi mức giá tăng chậm và nhìn chung là có
thể dự báo trước được vì tỷ lệ lạm phát qua từng năm tương đối ổn định, khoảng
dưới 10%/năm. Đây là mức lạm phát khá lý tưởng đối với nền kinh tế bởi những
tác động tiêu cực của lạm phát là không đáng kể mà thậm chí nó cịn có thể giúp
nền kinh tế có động lực để phát triển. Khi nền kinh tế trải qua lạm phát vừa
phải, dân chúng và các doanh nghiệp vẫn sẵn sàng nắm giữ tiền mặt để phục vụ
mục đích giao dịch và kí kết các hợp đồng kinh tế có thời hạn dài vì mọi người
dự đốn rằng đồng tiền sẽ khơng bị mất giá quá nhiều trong tương lai.
+Lạm phát phi mã là lạm phát ở mức hai hoặc ba con số trong một năm, từ
10 đến dưới 100%/năm. Đối với một số nền kinh tế phát triển, lạm phát phi mã
ở mức thấp vẫn có thể được chấp nhận. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ lạm phát này được
duy trì trong một thời gian dài sẽ gây ra những tác động tiêu cực đối với nền



kinh tế. Đồng tiền quốc gia sẽ bị mất giá nhanh chóng khiến cho người dân mất
niềm tin vào tiền tệ nước mình và sẽ có xu hướng tích trữ vàng, ngoại tệ mạnh
hay đầu tư vào bất động sản.
+Siêu lạm phát là tỷ lệ lạm phát đặc biệt rất cao, mức lạm phát hàng tháng từ
50% trở lên. Như vậy, tỷ lệ lạm phát một năm có thể lên tới hơn 13.000%. Nhìn
chung, các cuộc siêu lạm phát đã từng xảy ra đều bắt nguồn từ việc cung tiền
tăng lên quá mức và điều này thường xuất phát từ việc phải bù đắp thâm hụt
ngân sách kéo dài của Chính phủ các quốc gia. Tuy nhiên, một khi lạm phát
xuất hiên, tình trạng ngân sách nhà nước bị thâm hụt sẽ càng trở nên trầm trọng:
tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế cao sẽ dẫn tới hậu quả là nguồn thu từ thuế sẽ
theo đó mà giảm sút mạnh, điều đó lại càng làm tăng thêm mức độ thâm hụt của
ngân sách nhà nước và Chính phủ sẽ phải tiếp tục dựa nhiều hơn vào công cụ
phát hành tiền, mà điều này đến lượt nó sẽ đẩy tỷ lệ lạm phát lên cao mất kiểm
sốt. Một ví dụ điển hình đó là siêu lạm phát ở Đức giai đoạn 1921-1923 do nhu
cầu bồi thường cho chiến tranh và tái thiết nền kinh tế sau Chiến tranh thế giới
thứ nhất. Do vậy mà chi tiêu của Chính phủ Đức đã tăng mạnh và cung tiền
trong nền kinh tế cũng theo đó mà tăng cao đột biến, kết quả là Đức đã phải trải
qua mức lạm phát hơn 1 triệu phần trăm vào năm 1923. Cuộc siêu lạm phát ở
Đức đã gây ra những tác động vô cùng khủng khiếp đối với nền kinh tế của
quốc gia này. Thậm chí, nhiều ý kiến cịn cho rằng chính cuộc siêu lạm phát này
là nguyên nhân làm nảy sinh chủ nghĩa Đức quốc xã và cuộc Chiến tranh thế
giới thứ hai. Hiện tượng siêu lạm phát ở Đức là một minh chứng làm rõ thêm
phát biểu của Friedman “Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền
tệ.”
Việt Nam của chúng ta cũng đã từng trải qua thời kì siêu lạm phát vào năm
1986- 1988 khi Nhà nước vừa thực hiện công cuộc đổi mới đất nước với mức
tăng giá phổ biến hàng tháng rất cao từ 15-20%. Cao Thị Ý Nhi và Đặng Anh
Tuấn (2018, tr.415) đã chỉ ra rằng “Lạm phát trong giai đoạn này có 6 đặc trưng
cơ bản: lạm phát 3 con số kéo dài 3 năm liên tục, được mở đầu bằng cuộc cải

cách lớn về giá và lương cùng việc đổi tiền. Thời kì này ảnh hưởng giá cả trong
quan hệ xuất nhập khẩu tuy có nhẹ hơn thời kì 1981-1985 song vẫn bất lợi cho
cán cân thanh toán của Việt Nam. Chu kì lạm phát cao đến mức siêu lạm phát
diễn ra sau 5 năm đã có những cải cách khá quan trọng, đạt tăng trưởng kinh tế
cao. Tính chất cơng khai của lạm phát được bộc lộ rõ rệt hơn bất cứ giai đoạn
nào trước đó. Hệ quả siêu lạm phát nghiêm trọng trong 3 năm là rất nặng nề.


Những hệ quả đó là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng
nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội trong nhiều năm.”
3.2. Căn cứ vào mặt định tính
a. Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng
+Lạm phát cân bằng được hiểu là tỷ lệ lạm phát tăng lên tương ứng với
mức tăng lên của thu nhập. Bởi vậy, lạm phát dù có xảy ra cũng khơng có ảnh
hưởng q lớn tới đời sống của người lao động.
+Lạm phát không cân bằng được hiểu là tỷ lệ lạm phát tăng lên nhưng
không tương ứng với mức tăng lên của thu nhập. Điều đó sẽ khiến cho thu nhập
thực tế của người lao động bị giảm sút; hay nói cách khác, sức mua của thu
nhập bằng tiền sẽ giảm và điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người
lao động. Thông thường, loại lạm phát này thực tế sẽ xảy ra thường xuyên hơn
so với lạm phát cân bằng.
b. Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường
+Lạm phát dự đoán trước là loại lạm phát xảy ra trong một khoảng thời
gian tương đối dài, có xu hướng ổn định và đều đặn qua các năm. Vì vậy, tỷ lệ
lạm phát có thể được tính tốn trước một cách khá chính xác cho năm tiếp theo.
Với loại lạm phát này, người dân có thể dễ dàng thích nghi và chấp nhận nó như
là một thực tế của cuộc sống nên các tác động tiêu cực của lạm phát đối với nền
kinh tế là không quá đáng kể.
+Lạm phát bất thường là loại lạm phát xảy ra mang tính chất đột biến mà
chưa từng có tiền lệ trước đó. Chính bởi tính bất thường này mà các chủ thể

trong nền kinh tế chưa thể thích nghi hay thay đổi thói quen sẵn có của mình khi
lạm phát xảy ra quá đột ngột; và điều đó sẽ khiến đời sống của họ bị thay đổi,
tiền lương cũng chưa thể điều chỉnh ngay lập tức để phù hợp với tỷ lệ lạm phát
mới. Do đó, người dân có xu hướng mất niềm tin vào các chính sách nhằm ổn
định lạm phát của Chính phủ và điều đó đến lượt nó sẽ gây ra những tác động
tiêu cực đối với nền kinh tế của quốc gia.
c. Lạm phát thông thường và lạm phát lõi


+Lạm phát thông thường là lạm phát không loại bỏ đi các biến động mang
tính tạm thời hay các cú sốc giá. Chính vì vậy, lạm phát thơng thường có thể
khơng cho thấy được chính xác tình trạng sức khỏe của nền kinh tế quốc gia.
Tuy vậy, nó lại có ý nghĩa đối với người dân bởi nó phản ánh những biến động
trong giá cả sinh hoạt thực tế mà họ phải chi trả hàng ngày trong cuộc sống của
mình.
+Lạm phát lõi hay còn gọi là lạm phát cơ bản là lạm phát đã loại bỏ đi
những biến động mang tính chất tạm thời trong chỉ số giá tiêu dùng CPI. Hay
nói cách khác, lạm phát lõi phản ánh những tác động mang tính dài hạn và ổn
định của cầu tới sự biến động trong mức giá cả. Lạm phát lõi loại bỏ những biến
động hay cú sốc về giá tạm thời của một số mặt hàng trong nền kinh tế như giá
thực phẩm hoặc giá năng lượng. Bởi nếu chỉ có một cú sốc diễn ra thì mức giá
chỉ có thể đột ngột tăng lên trong một thời gian ngắn rồi sẽ lại trở về như cũ, mà
điều đó thì khơng dẫn tới hiện tượng lạm phát. Lạm phát lõi được xem là chỉ
tiêu quan trọng được NHTW các nước xem xét khi đề ra các chính sách tiền tệ
cho quốc gia mình. Hiện nay, loại lạm phát này đang được nhiều quốc gia trên
thế giới sử dụng như Mỹ, Canada, Nhật Bản…
3.3. Căn cứ theo mức độ của tỷ lệ lạm phát
- Lạm phát thấp là mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 0.3% đến
dưới 10%/năm.
- Lạm phát cao là mức lạm phát tương ứng với mức độ tăng giá từ hai tới ba chữ

số một năm và loại lạm phát này cịn có thể được gọi là lạm phát phi mã, nhưng
vẫn thấp hơn siêu lạm phát. Thực tế, Việt Nam và đa số các nước thực hiện đổi
mới cơ chế quản lý, từ kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh
tế thị trường đều đã từng phải trải qua thời kì lạm phát phi mã trong những năm
đầu thực thi công cuộc cải cách.
4. Nguyên nhân gây ra lạm phát
4.1. Lạm phát do lượng tiền cung ứng
Lý thuyết tiền tệ từ trước đến nay vẫn được xem là cách giải thích có tính
thuyết phục nhất về nguồn gốc gây ra hiện tượng lạm phát trong nền kinh tế. Tư
tưởng cơ bản mà các nhà kinh tế học đưa ra đó là lạm phát là một hiện tượng


tiền tệ. Tiêu biểu cho quan điểm này là Friedman khi ông nhấn mạnh rằng:
“Lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ …và nó chỉ có thể
xuất hiện một khi cung tiền tăng nhanh hơn sản lượng.”
Vũ Kim Dũng và Nguyễn Văn Công (2018) cho rằng kết luận trên thực
chất là dựa trên hai khía cạnh. Thứ nhất, các nhà tiền tệ nhấn mạnh rằng sự dư
thừa tổng cầu so với tổng cung gây ra hiện tượng lạm phát, và nguyên nhân của
sự dư cầu này là bắt nguồn từ việc dư thừa tiền trong lưu thông, vượt quá nhu
cầu cần thiết của các chủ thể trong nền kinh tế. Nếu cách giải thích này đúng về
mặt lịch sử thì nó đã chứng minh được rằng lạm phát khơng phải xuất pháy từ
phía cung mà là do sức ép đến từ phía cầu. Thứ hai, các nhà kinh tế học đưa ra
giả thiết rằng mối quan hệ nhân quả bắt nguồn từ cung ứng tiền đến mức giá,
chứ không phải ngược lại là do giá cả tăng lên dẫn tới lượng tiền cung ứng tăng
theo. Bằng việc tìm hiểu cơ chế lan truyền, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về mối
quan hệ đó. Với giả thiết thị trường cân bằng, và xuất phát từ điểm cân bằng
trên thị trường tiền tệ, khi đó nếu có một sự gia tăng trong cung ứng tiền tệ sẽ
dẫn tới hệ quả là thị trường tiền tệ mất cân bằng. Để có thể thiết lập lại trạng
thái cân bằng trước đó, một phần của số tiền đang dư thừa sẽ phải được sử dụng
để mua hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, do số lượng hàng hóa và dịch vụ trong

nền kinh tế được định đoạt bởi các nguồn cung ứng về các nguồn lực và trình độ
cơng nghệ hiện có, do vậy đã xuất hiện hiện tượng dư cầu trên thị trường hàng
hóa. Điều này đến lượt nó gây sức ép khiến cho giá cả trong nền kinh tế buộc
phải tăng lên để thiết lập trạng thái cân bằng mới trên thị trường hàng hóa.
Trong mơ hình tổng cung - tổng cầu, sự gia tăng trong cung ứng tiền tệ sẽ dẫn
tới việc đường tổng cầu dịch chuyển sang bên phải và làm mức giá gia tăng do
đưởng tổng cung được giả thiết là thẳng đứng trong dài hạn.
Lý thuyết số lượng tiền tệ cho rằng các chủ thể trong nền kinh tế nắm giữ
tiền mặt chủ yếu để phục vụ cho mục đích giao dịch, mua sắm hàng hóa và dịch
vụ. Giả sử Y là tổng mức sản lượng mà nền kinh tế sản xuất ra trong khoảng
thời gian một năm và P là mức giá của một đơn vị sản lượng điển hình. Như
vậy, P*Y có thể được xem là thu nhập quốc dân danh nghĩa (GDP). Vì tiền sẽ
được trao tay qua lại khi người dân thực hiện các giao dịch mua bán hàng hóa
và dịch vụ, chúng ta có thể ước tính được số lần mà một tờ giấy bạc điển hình
được trao tay trong khoảng thời gian một năm. Nếu kí hiệu V là tốc độ lưu
chuyển tiền tệ hay vòng quay tiền, tức số lần bình quân trong 1 năm mà 1 đơn vị
tiền tệ được sử dụng để thanh toán; và M là cung tiền của nền kinh tế. Vòng


quay tiền (V) được tính bằng cách chia thu nhập quốc nội danh nghĩa cho lượng
tiền cung ứng:
V=P x Y/M
Nhân cả hai vế của phương trình với M, ta thu được một đồng nhất thức:
M x V=P x Y
Phương trình trên được gọi là phương trình trao đổi, nó cho thấy rằng
lượng tiền cung ứng nhân với số nhân tiền phải bằng thu nhập danh nghĩa. Do
vậy, khi lượng tiền cung ứng tăng lên gấp đơi thì thu nhập danh nghĩa cũng sẽ
theo đó tăng lên gấp đơi.

Phương trình hệ quả của phương trình trao đổi là:


%∆M + %∆V=%∆P + %∆Y
Phương trình này nói lên rằng tỷ lệ phần trăm thay đổi trong lượng tiền
cung ứng cộng với tỷ lệ phần trăm thay đổi trong tốc độ lưu chuyển tiền tệ sẽ
đúng bằng với tổng của tỷ lệ phần trăm thay đổi trong giá cả và tỷ lệ phần trăm
của sản lượng.
Phương trình số lượng chỉ ra rằng sự gia tăng khối lượng tiền trong nền
kinh tế phải được thể hiện thông qua một trong 3 nhân tố khác: mức giá phải
tăng, sản lượng phải tăng hoặc tốc độ lưu thơng tiền tệ phải giảm. Chính vì vậy,
khi cung ứng tiền tệ tăng lên một cách đột ngột và nhanh chóng sẽ kéo theo đó
là tỷ lệ lạm phát cũng sẽ tăng lên mất kiểm soát. Như vậy, tiền tệ chính là
nguyên nhân trực tiếp dẫn tới hiện tượng lạm phát, chỉ có tăng tiền mới có thể
tăng giá.
Nhìn chung, tốc độ chu chuyển tiền tệ (V) là tương đối ổn định theo thời
gian. Như vậy, lạm phát (P tăng) chỉ có thể xuất hiện nếu như lượng tiền cung
ứng (M) tăng nhanh hơn tốc độ tăng của sản lượng (Y), tức tốc độ tăng cung
ứng tiền càng nhanh thì tỷ lệ lạm phát theo đó cũng sẽ càng cao (với điều kiện
các nhân tố khác không đổi). Do vậy, theo quan điểm này, biện pháp chính để có


thể kiểm sốt lạm phát là chính sách tiền tệ. Quốc gia có thể áp dụng chính sách
tiền tệ thắt chặt để nhằm làm giảm cung ứng tiền tệ, qua đó giúp kiềm chế được
lạm phát gia tăng.
Hình 1: Lạm phát do lượng tiền cung ứng tăng liên tục và kéo
dài

Theo Frederic S.Mishkin (1992) phân tích; ban đầu, nền kinh tế đạt cân
bằng tại điểm 1 với sản phẩm ở mức sản lượng tự nhiên Yn với tỷ lệ thất nghiệp
tự nhiên và mức giá cả tại P1 (điểm giao nhau của đường tổng cầu AD1 và
đường tổng cung AS1). Nếu cung tiền tệ tăng lên đều đặn trong suốt cả năm thì

đường tổng cầu sẽ di chuyển sang phải đến AD2. Trước tiên, trong một thời gian
ngắn, nền kinh tế có thể di chuyển tới điểm 1’ và sản lượng có thể tăng lên trên
mức sản lượng tự nhiên đến Y’ (Y’>Yn). Điều đó đã làm tỷ lệ thất nghiệp thực tế
trong nền kinh tế giảm xuống thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, làm cho tiền
lương tăng lên và đường tổng cung sẽ dịch trái cho đến khi đạt đến AS2. Tại đây,
nền kinh tế quay trở lại mức sản lượng tự nhiên ban đầu là Yn nhưng mức giá đã
tăng lên từ P1 đến P2 và cân bằng tại điểm 2.
Nếu như năm sau đó, cung tiền tệ lại tiếp tục tăng lên, khiến cho đường
tổng cầu dịch chuyển sang phải đến AD3 và đường tổng cung sẽ di chuyển sang
trái từ AS2 đến AS3; nền kinh tế đạt tới mức cân bằng mới tại điểm 3. Tại đây,


mức giá cả đã tăng lên đến P3. Nếu như cung tiền vẫn tiếp tục tăng thì đường
tổng cầu và đường tổng cung sẽ tiếp tục di chuyển như minh họa trên Hình 1.1.
Cứ như vậy, nền kinh tế sẽ đạt tới mức giá cả ngày càng cao hơn và tỷ lệ lạm
phát cũng theo đó mà leo thang.
Những phân tích theo trường phái Keynes về tác động của việc tăng chi
tiêu Chính phủ hoặc cắt giảm thuế (hay chính sách tài khóa mở rộng) cũng sẽ
khiến cho tổng cầu tăng và khiến đường tổng cầu dịch phải, do đó mức giá trong
nền kinh tế bị đẩy lên cao. Tuy nhiên, những cơng cụ của chính sách tài khóa
vẫn có những giới hạn nhất định, vì vậy việc tăng lên trong tỷ lệ lạm phát ở
trường hợp này chỉ mang tính chất ngắn hạn. Một phân tích khác của phái
Keynes về tác động của những cú sốc tiêu cực lên tổng cung (ví dụ việc cấm
vận dầu mỏ khiến cho giá dầu tăng đột ngột) cũng sẽ khiến cho giá cả trong nền
kinh tế tăng lên do chi phí nguyên vật liệu đầu vào gia tăng. Ban đầu, đường
tổng cung sẽ vẫn dịch chuyển sang trái tới một điểm cân bằng mới; tại đó, sản
lượng sẽ giảm xuống dưới mức tự nhiên và mức giá cả là cao hơn trước. Tuy
nhiên, nếu như cung tiền không thay đổi, đường tổng cung sẽ quay trở lại vị trí
ban đầu, do thất nghiệp là trên tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, và nền kinh tế sẽ lại
quay trở về điểm cân bằng như trước. Như vậy, kết quả ròng của một cú sốc

cung là nền kinh tế trở lại tình trạng cơng ăn việc làm đầy đủ tại mức giá cả ban
đầu và hiện tượng lạm phát khơng hề xảy ra.
Tóm lại, qua việc phân tích ở trên, chúng ta có thể đưa ra kết luận rằng
quan điểm của trường phải Keynes và trường phái tiền tệ là không quá khác
biệt. Cả hai đều cho rằng tỷ lệ lạm phát cao chỉ có thể xuất hiện khi tỷ lệ tăng
trưởng trong cung tiền cao.
4.2. Lạm phát do theo đuổi mục tiêu công ăn việc làm (giảm tỷ lệ thất
nghiệp)
Mục tiêu đảm bảo cơng ăn việc làm đầy đủ cho người dân, góp phần thúc
đẩy nền kinh tế phát triển có lẽ được xem là một trong những mục tiêu quan
trọng nhất mà đa số Chính phủ các quốc gia đều theo đuổi.
Những người năng động cho rằng nếu chỉ dựa vào cơ chế tự điều chỉnh của
nền kinh tế thì lương và giá sẽ thay đổi rất chậm và vì vậy Chính phủ cần phải
sử dụng các chính sách của mình để làm giảm tỷ lệ thất nghiệp bất kì khi nào nó
bị tăng cao. Mặt khác, những người khơng năng động thì lại có quan điểm khác,
họ tin rằng những sự can thiệp của Chính phủ sẽ khơng thể tốt bằng việc để nền


kinh tế tự thân điều chỉnh. Cao Thị Ý Nhi và Đặng Anh Tuấn (2018, tr. 425) cho
rằng “Có hai loại lạm phát và kết quả của chính sách ổn định năng động nhằm
thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao, đó là lạm phát do cầu kéo và lạm phát
do chi phí đẩy.”
a. Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xảy ra do tổng cầu AD tăng khiến cho đường AD dịch
phải, đặc biệt là khi sản lượng Y trong nền kinh tế đã đạt hoặc vượt quá mức sản
lượng tự nhiên. Thực chất đây cũng có thể được xem là một cách định nghĩa về
lạm phát dựa vào nguyên nhân: lạm phát xảy ra do sự xuất hiện của một mức
cầu quá cao. Theo lý thuyết này, nguyên nhân dẫn tới tình trạng dư cầu được lý
giải là do nền kinh tế đã chi tiêu vượt quá năng lực sản xuất vốn có. Tuy nhiên
để cho định nghĩa này có đủ sức thuyết phục thì cần phải giải thích tại sao chi

tiêu lại có thể liên tục vượt quá năng lực sản xuất. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét
các yếu tố cấu thành nên tổng cầu.
Vũ Kim Dũng và Nguyễn Văn Công (2018) cho rằng lạm phát có thể hình
thành khi cầu tiêu dùng và cầu đầu tư có sự gia tăng đột biến. Ví dụ khi có một
làn sóng mua sắm mới làm nhu cầu tiêu dùng tăng mạnh, điều đó sẽ làm giá cả
của những mặt hàng này tăng, lạm phát sẽ theo đó tăng cao và ngược lại. Tương
tự, lạm phát cũng chịu ảnh hưởng từ cầu đầu tư: nếu các doanh nghiệp lạc quan
về triển vọng mở rộng thị trường trong thời gian tới, họ sẽ mạnh dạn đầu tư
nhiều hơn và do đó đẩy mức giá trên thị trường tăng lên.
Bên cạnh đó, lạm phát cũng thường bắt nguồn từ sự gia tăng trong chi tiêu
Chính phủ. Nếu Chính phủ quyết định tăng đầu tư hay chi tiêu vào cơ sở hạ tầng
để phục vụ mục đích phát triển kinh tế - xã hội thì mức giá trong nền kinh tế
cũng sẽ bị đẩy lên. Ngược lại, khi Chính phủ đề ra các chính sách cắt giảm bớt
chi tiêu cơng hoặc các cơng trình đầu tư cơng, thực hiện chính sách “thắt lưng
bc bụng” thì mức giá lại giảm xuống.
Ngồi ra, lạm phát cịn có thể xuất phát từ cầu về hàng xuất khẩu. Tuy
nhiên, hàng xuất khẩu lại ảnh hưởng tới lạm phát của quốc gia theo một cách
khác: khi người nước ngoài tăng nhu cầu về hàng trong nước sẽ khiến cho nhu
cầu về hàng xuất khẩu tăng; nghĩa là lượng hàng hóa cịn lại để phục vụ cho thị
trường nội địa sẽ giảm đi và điều đó sẽ làm mức giá trong nước tăng lên. Ngồi
ra, cầu xuất khẩu và luồng vốn ngoại chảy vào trong nước cũng có thể khiến


lạm phát bùng nổ. Đặc biệt đối với quốc gia áp dụng chế độ tỉ giá cố định, khi
dòng vốn ngoại chảy vào trong nước sẽ làm cho đồng nội tệ bị lên giá. Để giữ
cho tỉ giá cố định, NHTW buộc phải làm tăng cung ứng tiền để ngăn việc nội tệ
lên giá. Việc tăng cung tiền sẽ khiến lạm phát cũng sẽ gia tăng. Trường hợp
ngược lại sẽ xảy ra khi cầu xuất khẩu và luồng vốn nước ngoài chảy vào giảm
do nền kinh tế thế giới hay khu vực đang lâm vào suy thoái.
Dựa vào đồ thị tổng cung - tổng cầu, lạm phát do cầu kéo sẽ xảy ra khi

đường tổng cầu AD dịch phải. Do đường tổng cung AS dốc lên trong ngắn hạn,
nền kinh tế sẽ đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn và tỉ lệ thất nghiệp
cũng sẽ giảm đi, nhưng đồng thời nền kinh tế lại phải chịu áp lực của lạm phát.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng lạm phát do cầu kéo trong nhiều trường hợp
sẽ khơng phải là vấn đề nghiêm trọng mà thâm chí cịn là cần thiết và có lợi cho
nền kinh tế khi còn dư thừa nguồn lực chưa được tận dụng, lạm phát dù có
nhưng sẽ ở mức thấp mà nền kinh tế có thể chịu đựng được. Ngược lại, lạm phát
do cầu kéo sẽ trở thành vấn đề nếu như nền kinh tế đang cân bằng tại mức toàn
dụng nhân công, sự gia tăng trong tổng cầu sẽ khiến lạm phát tăng lên mất kiểm
soát trong khi sản lượng và việc làm gia tăng khơng đáng kể.
Hình 2: Lạm phát do cầu kéo

Theo phân tích của Cao Thị Ý Nhi và Đặng Anh Tuấn (2018); giả sử ban
đầu nền kinh tế đang đạt trạng thái cân bằng tại điểm 1, tại mức sản lượng tiềm


năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Nếu các nhà hoạch định chính sách theo đuổi
một tỷ lệ thất nghiệp dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
Để hoàn thành mục tiêu đề ra, họ sẽ phải đưa ra các chính sách nhằm điều
chỉnh để đạt được mức sản lượng Y’ lớn hơn mức sản lượng tiềm năng Yn. Các
biện pháp họ đưa ra sẽ có ảnh hưởng lên tổng cầu và sẽ làm đường AD dịch
phải. Do vậy, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển từ AD1 sang AD2 và nền kinh tế sẽ
chuyển đến điểm 1’ (giao điểm của đường tổng cung ban đầu AS1 và đường
tổng cầu mới AD2). Sản lượng bây giờ đã đạt được tới mức Y’ lớn hơn sản
lượng tiềm năng và mục tiêu tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
đã đạt được.
Tại điểm cân bằng mới, tỷ lệ thất nghiệp thực tế trong nền kinh tế là thấp
hơn so với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nên tiền lương tăng lên khiến chi phí đầu
vào của doanh nghiệp gia tăng, làm đường tổng cung AS dịch trái đến AS2. Nền
kinh tế di chuyển từ điểm 1’ tới điểm 2’ và quay trở về mức sản lượng tiềm năng

và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng mức giá đã bị đẩy lên cao hơn tới P2.
Tại đây, tỷ lệ thất nghiệp lại gia tăng quá mức mà các nhà hoạch định mong
muốn.
Chính bởi vậy, họ lại tiếp tục thực hiện các chính sách nhằm đẩy tổng cầu AD
sang phải. Quá trình này cứ liên tục tiếp diễn và điều đó làm giá cả trong nền
kinh tế càng ngày càng tăng cao hơn.
b. Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát cũng có thể xuất hiện khi nền kinh tế phát sinh các cú sốc cung
tiêu cực hoặc do hệ quả từ những cuộc đấu tranh địi tăng lương của cơng nhân
gây ra. Xem xét đồ thị tổng cung - tổng cầu, chúng ta thấy rằng khi có một cú
sốc cung như vậy, đường AS sẽ dịch chuyển sang trái. Điều đó sẽ làm cho sản
lượng trong nền kinh tế giảm, tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát cũng sẽ biến động
tăng. Chính vì mọi yếu tố đều trở nên xấu đi nên loại lạm phát này còn được
định nghĩa là lạm phát đi kèm suy thoái.
Theo Cao Thị Ý Nhi và Đặng Anh Tuấn (2018), nhìn chung, có ba loại chi
phí thường dẫn tới hậu quả lạm phát, bao gồm: tiền lương, thuế gián thu và giá
nguyên liệu nhập khẩu. Khi cơng đồn đàm phán với doanh nghiệp để tăng
lương cho công nhân thành công, các doanh nghiệp sẽ bù đắp tổn thất bằng cách


tăng giá các mặt hàng của mình và kết quả là lạm phát sẽ xuất hiện. Vịng xốy
đi lên của tiền lương và giá cả sẽ tiếp diễn và trở nên trầm trọng hơn nếu chính
lựa phủ chọn biện pháp mở rộng cung ứng tiền tệ để nhằm tránh một cuộc suy
thối có thể diễn ra.
Việc Chính phủ đưa ra chính sách nhằm gia tăng các loại thuế có ảnh
hưởng đồng thời đến tất cả các nhà sản xuất cũng sẽ tồn tại nguy cơ xảy ra lạm
phát. Ở đây, thuế gián thu (bao gồm cả thuế nhập khẩu và các loại lệ phí bắt
buộc) đóng vai trị đặc biệt quan trọng bởi chúng có tác động trực tiếp tới giá cả
hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Có thể thấy rằng thuế gián thu chiếm tỉ
trọng lớn trong tổng nguồn thu từ thuế của Nhà nước là đặc trưng ở các nước

đang phát triển, cũng chính vì vậy mà thuế gián thu ở các nước này có tác động
rất lớn tới chỉ tiêu lạm phát của quốc gia.
Ngoài ra, đối với các nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào các nguồn nguyên
vật liệu đầu vào nhập khẩu do năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong
nước chưa thể đáp ứng được nhu cầu nội địa, thì sự biến động trong giá của các
nguyên vật liệu này cũng sẽ có ảnh hưởng lớn tới mặt bằng giá cả của các hàng
hóa trong nước và có thể dẫn tới tình trạng lạm phát. Nếu giá cả của những mặt
hàng này tăng cao trên thị trường thế giới hay đồng bản tệ bị giảm giá mạnh trên
thị trường tài chính quốc tế, điều đó sẽ khiến cho chi phí sản xuất của các doanh
nghiệp nội địa tăng và lạm phát sẽ bùng nổ.


Hình 3: Lạm phát do chi phí đẩy

Theo Cao Thị Ý Nhi và Đặng Anh Tuấn (2018) phân tích; giả sử ban đầu
nền kinh tế đang đạt cân bằng tại điểm 1 với mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ
thất nghiệp tự nhiên. Nếu những người công nhân mong muốn cải thiện cuộc
sống của mình hoặc họ cho rằng tỷ lệ lạm phát dự tính của nền kinh tế trong
thời gian tới sẽ tăng cao, họ sẽ đấu tranh địi tăng tiền lương. Vì tỷ lệ thất nghiệp
đang ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nên những yêu cầu địi tăng lương của
cơng nhân sẽ dễ được đáp ứng. Ảnh hưởng của việc tăng lương (tương tự ảnh
hưởng của các cú sốc cung tiêu cực) sẽ làm cho đường tổng cung AS1 dịch sang
trái đến AS2. Nền kinh tế do đó cũng sẽ dịch chuyển từ điểm 1 đến điểm 1’ (giao
điểm của đường tổng cung mới AS2 và đường tổng cầu ban đầu AD1). Tại đây,
sản lượng giảm xuống dưới mức sản lượng tự nhiên Y’ (Y’nghiệp thì tăng cao hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, mức giá cả cũng gia tăng lên
đến P1'. Vì mục tiêu duy trì một mức cơng ăn việc làm cao hơn hiện tại, Chính
phủ sẽ thực thi các chính sách điều chỉnh năng động để tác động làm tổng cầu
dịch phải từ AD1 sang AD2, khiến cho nền kinh tế quay trở về mức sản lượng
tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tại điểm cân bằng mới (điểm 2) và mức

giá cả trong nền kinh tế tăng lên đến P2.
Các công nhân đã được chấp nhận yêu cầu tăng lương trước đó vẫn có thể
tiếp tục đòi tăng lên cao hơn nữa. Đồng thời, những sự nhượng bộ đó đã tạo ra
sự chênh lệch về mức lương trong tầng lớp công nhân khiến cho tình trạng tăng
lương cứ thế tiếp diễn liên tục, kết quả là đường tổng cung lại tiếp tục dịch trái


sang AS3, tỷ lệ thất nghiệp lại tăng lên cao hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Do đó,
Chính phủ lại phải tiếp tục thực hiện các chính sách can thiệp để đẩy đường
tổng cầu sang phải đến AD3 nhằm đưa nền kinh tế trở lại mức sản lượng tiềm
năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, nhưng điều đó lại khiến mức giá cả tăng lên
đến P3. Nếu quá trình này cứ lặp lại liên tục thì sẽ dẫn tới kết quả là mức giá cả
liên tục tăng lên và tình trạng lạm phát do chi phí đẩy sẽ xuất hiện.
Theo những phân tích của trường phái Keynes, những chính sách tài khóa
mà Chính phủ áp dụng để can thiệp lên nền kinh tế ln có những giới hạn nhất
định, nên mặc dù các chính sách này có thể làm dịch chuyển đường tổng cầu
AD sang phải nhưng đó chỉ là tăng từng đợt một và không thể liên tiếp sử dụng
trong dài hạn. Do đó, các biện pháp này không thể liên tục đẩy đường tổng cầu
sang phải mà điều này chỉ có thể xảy ra trong trường hợp NHTW liên tục tác
động làm tăng cung ứng tiền tệ. Như vậy, ta có thể nói rằng lạm phát chi phí đẩy
hay lạm phát do cầu kéo cũng đều là một hiện tượng tiền tệ.
4.3. Lạm phát do thâm hụt ngân sách Chính phủ kéo dài
Tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước kéo dài được Chính phủ tài trợ
bằng việc phát hành tiền cũng là một trong những ngun nhân phổ biến gây ra
tình trạng lạm phát.
Chính phủ có thể đối phó với tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước bằng
nhiều biện pháp khác nhau. Đầu tiên, nếu Chính phủ chọn cách phát hành trái
phiếu để vay vốn từ dân chúng trong nước thì điều này sẽ không gây ra lạm phát
do cung ứng tiền và cơ sở tiền trong nền kinh tế là không thay đổi, tiền chỉ di
chuyển từ tay người dân sang tay Chính phủ mà thơi. Tuy nhiên, nếu Chính phủ

chọn cách phát hành thêm tiền vào lưu thơng thì kết quả sẽ khác. Biện pháp này
ngay lập tức sẽ làm cho cơ sở tiền và cung ứng tiền trong nền kinh tế tăng lên,
tác động làm cho tổng cầu cũng tăng cao và dẫn tới hệ quả là lạm phát bùng nổ.
Tuy vậy, biện pháp phát hành trái phiếu Chính phủ để bù đắp thâm hụt lại khá
khó có thể đạt được thành công tại các nước đang phát triển do thị trường vốn
tại các quốc gia này chưa thể đáp ứng đủ các yêu cầu cần thiết. Đối với họ, biên
pháp đơn giản và dễ thực hiện nhất chỉ có thể là bơm thêm tiền vào lưu thơng.
Vì thế, khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt trầm trọng và kéo dài sẽ dẫn tới hậu
quả là cung ứng tiền tệ tăng lên cùng với đó là tỷ lệ lạm phát cũng sẽ gia tăng. Ở
các quốc gia phát triển, do thị trường vốn của họ đã hoàn thiện nên một khối
lượng lớn trái phiếu Chính phủ sẽ được hấp thụ bởi thị trường và Chính phủ sẽ


có thể sử dụng số vốn vay từ dân để bù đắp thâm hụt. Tuy nhiên, nếu Chính phủ
cứ liên tục phát hành trái phiếu mới ra thị trường sẽ khiến cầu vốn vay tăng và
đẩy lãi suất trong nền kinh tế tăng. Để thực hiện mục tiêu giữ vững ổn định lãi
suất trên thị trường, NHTW buộc phải mua vào các trái phiếu đó và kết quả là
lại làm cho cung tiền tệ tăng lên.
Cao Thị Ý Nhi và Đặng Anh Tuấn (2018, tr.429) kết luận “Trong mọi
trường hợp, tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước cao, kéo dài sẽ là nguồn
gốc tăng cung ứng tiền và gây ra lạm phát”.
4.4. Lạm phát do biến động của tỷ giá hối đoái
Theo Cao Thị Ý Nhi và Đặng Anh Tuấn (2018, tr.441) định nghĩa: “Tỷ giá
hối đoái là giá của một đơn vị tiền tệ một nước được tính theo tiền tệ của nước
khác.”
Khi tỷ giá tăng hay đồng nội tệ mất giá sẽ có tác động trực tiếp tới tâm lý
của các doanh nghiệp sản xuất nội địa, họ sẽ mong muốn nâng giá các hàng hóa
của mình lên để bù đắp sự tăng lên trong tỷ giá hối đối. Khơng những thế, tỷ
giá tăng cũng khiến cho giá hàng hóa và nguyên vật liệu đầu vào nhập khẩu
cũng sẽ tăng, đẩy chi phí sản xuất của doanh nghiệp lên, dẫn tới hiện tượng lạm

phát chi phí đẩy.
5. Tác động của lạm phát
Lạm phát không phải luôn luôn đem lại những tác động tiêu cực, nếu nó
được duy trì ở mức ổn định khoảng 2-5%/năm, điều đó sẽ có ảnh hưởng tích
cực tới nền kinh tế quốc gia. Khi đó, lạm phát sẽ như một chất xúc tác giúp cho
năng lực sản xuất tăng cao, khả năng sinh lợi tài chính cũng tăng… Tuy nhiên,
những tác động tích cực ấy chỉ có thể xuất hiện nếu tỷ lệ lạm phát là thấp, tương
đối ổn định và có thể kiểm soát được, trong khi lạm phát xảy ra chủ yếu sẽ gây
ra những ảnh hưởng không tốt tới mọi khía cạnh của đời sống kinh tế, xã hội,
chính trị của một quốc gia.
5.1. Lạm phát và lãi suất
Đây có thể được xem là tác động đầu tiên khi có lạm phát xảy ra. Ta có
cơng thức lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa- tỉ lệ lạm phát. Do các quốc gia
ln mong muốn duy trì mức lãi suất ổn định nên khi nền kinh tế xuất hiện lạm


phát, hệ thống ngân hàng sẽ phải điều chỉnh lãi suất danh nghĩa tăng để lãi suất
thực được giữ ổn định. Việc lãi suất danh nghĩa tăng có thể sẽ khiến nền kinh tế
lâm vào tình trạng suy thối và tỷ lệ thất nghiệp theo đó cũng sẽ gia tăng.
5.2. Tác động đối với sản lượng
- Nếu lạm phát do cầu kéo thì sản lượng có thể tăng và mức độ tăng nhiều
hay ít tùythuộc vào độ dốc của đường tổng cung.
- Nếu lạm phát do xuất phát từ phía cung sẽ khiến cho sản lượng giảm và
mức giảmtùy thuộc vào độ dốc của đường tổng cầu.
- Nếu do cả hai yếu tố cung và cầu gây nên thì sản lượng có thể tăng, giảm
hoặcthậm chí khơng đổi tùy thuộc vào độ dốc của hai cả hai đường.
5.3. Tác động đối với phân phối lại của cải và thu nhập
Cao Thị Ý Nhi và Đặng Anh Tuấn (2018, tr.431) cho rằng lạm phát tác
động đến việc phân phối lại của cải và thu nhập ở mức độ nhiều hay ít còn phải
phụ thuộc vào nhiều yếu tố và các tác nhân kinh tế khác. Tác động chính về

phân phối lại khi lạm phát xảy ra được biểu hiện thông qua ảnh hưởng của nó
đối với giá trị thực tế trên của cải mà các chủ thể trong nền kinh tế nắm giữ.
Nhìn chung, lạm phát khơng dự kiến trước được thường gây ra những tác động
tiên cực, chuyển của cải từ tay chủ nợ sang tay con nợ; giúp đỡ người đi vay và
làm thiệt cho người cho vay… Trong trường hợp lạm phát giảm xuống không
lường trước sẽ gây ra những tác động ngược lại.

5.4. Tác động đến cơ cấu kinh tế
Tuy rằng lạm phát xảy ra khiến cho mức giá chung trong nền kinh tế tăng
lên nhưng trong đó, có những hàng hóa tăng nhiều và có những hàng hóa tăng
ít, hay thậm chí có mặt hàng vẫn bị giảm giá ngay cả trong thời kì lạm phát.
Chính bởi vì lý do này, những ngành nào có giá tăng nhanh sẽ có thể nâng tỷ
trọng ngành đó lên trong tổng sản lượng.
Như vậy, sẽ có ngành phát triển ngày càng tốt hơn nhưng cũng có những ngành
khơng thể tồn tại được nữa, họ sẽ phải chuyển sang ngành nghề khác để tiếp tục
kinh doanh, dẫn đến kết quả là cơ cấu kinh tế sẽ bị thay đổi.


5.5. Tác động đến nợ quốc gia
Cao Thị Ý Nhi và Đặng Anh Tuấn (2018, tr.434) có viết “Lạm phát cao
làm cho Chính phủ được lợi do thuế thu nhập đánh vào người dân, nhưng những
khoản nợ nước ngoài sẽ trở nên trầm trọng hơn. Chính phủ được lợi trong nước
nhưng sẽ bị thiệt với nợ nước ngoài. Lý do là vì: lạm phát đã làm tỷ giá tăng cao
và đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so với đồng tiền nước ngồi
tính trên các khoản nợ.”
Hơn nữa, tác động tích cực ban đầu của lạm phát chỉ có thể đem lại nguồn
thu cho ngân sách nhà nước trong ngắn hạn thông qua cơ chế phân phối lại của
cải và thu nhập quốc dân. Tuy nhiên, sau đó ảnh hưởng trầm trọng mà lạm phát
gây ra khiến cho những nguồn thu cho ngân sách ngày càng suy giảm do các
doanh nghiệp trong nước lâm vào tình trạng sản xuất sa sút, yếu kém; trật tự an

toàn xã hội theo đó cũng bị phá hủy.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG – NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT Ở
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2007-2012
1. Thực trạng lạm phát ở việt nam giai đoạn 2007
*Năm 2007:
Khác với tình trạng lạm phát của những năm trước đó, chỉ số giá tiêu dùng các
tháng trong năm 2007 tăng liên tục ngồi dự đốn, vượt qua chỉ tiêu Quốc hội
đề ra hết lần này đến lần khác (nói khác đi là khơng kiểm sốt được!). Ví dụ, tại
thời điểm cuối năm 2006, lạm phát năm 2007 được dự báo ở mức 6 7%, và tỷ lệ
tăng trưởng kinh tế là 9 - 10%. Nhưng, mới đến tháng 7/2007 chỉ số lạm phát đã
đạt mức 6,19%, trong đó riêng tháng 7 là 0,94%. Trước tình hình đó, thay vì chỉ
tiêu lúc đầu là 6% - 7%, Chính phủ đã phải điều chỉnh chỉ tiêu lạm phát cả năm
ở mức dưới 8%, với niềm tin là chỉ số giá tiêu dùng của các tháng còn lại giữ ở
mức tăng khoảng 0,4%/tháng. Nhưng rồi, ngay trong tháng 8 giá đã tăng thêm
0,55% (cao hơn dự đoán), tháng 9 vẫn tiếp tục tăng 0,51%, tháng 10 tăng
0,74%, tháng 11 tăng 1,23% và tháng 12 tăng kỷ lục: 2,91% (cao nhất so với
các tháng trong năm, kể cả tháng 2/2007 là tháng có Tết Nguyên Đán; và cũng
cao nhất so với các tháng 12 của 11 năm trước đó). Kết thúc năm 2007, tốc độ
tăng giá tiêu dùng chung đã lên đến 12,63% so với năm trước, gần gấp rưỡi tốc
độ tăng trưởng kinh tế (8,44%). Điều đó đã khiến cho nhiều người phải lo lắng,
nhất là những người nghèo. Họ lo lắng khơng phải vì mức lạm phát cao (bởi nền
kinh tế Việt Nam cũng đã từng đối mặt với lạm phát cao trong nhiều năm, như
1990: 67,4%; 1991:67,6%; 1992: 17,6%; 1994: 14,4%; và 1995: 12,7%, thậm
chí cịn rất cao, như các năm trước 1990), mà lo vì tốc độ tăng giá diễn ra quá
nhanh, trong khi các nhà hoạch định chính sách lại lúng túng trong cách xử.
Với mức 12,63%, chỉ số lạm phát năm 2007 cao hơn nhiều so với lãi suất huy
động tiết kiệm (lãi suất của các ngân hàng thương mại nhà nước khoảng trên
8%, và của các ngân hàng thương mại cổ phần khoảng 9,5%). Điều đó đã khiến

cho người có tiền gửi tiết kiệm bị thiệt thịi lớn do lãi suất thực âm, và kết quả
là dòng tiền ồ ạt được rút khỏi ngân hàng để đầu tư vào “kênh” khác có hiệu
quả hơn (người giàu thì mua nhà ở và bất động sản, đầu tư chứng khốn; cịn
người nghèo thì có được đồng nào đều đổi hết thành vàng). Kết quả là lượng
tiền trong lưu thông càng lớn thêm, làm cho giá cả càng tăng cao hơn, đồng thời
lại tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng thanh khoản cho hệ thống ngân hàng.


Lạm phát cao trên thực tế đã làm cho đồng tiền Việt Nam có xu hướng tăng giá
so với đồng đô la Mỹ, dù cho trên danh nghĩa đồng Việt Nam vẫn mất giá
tương đối so với đô la Mỹ một cách đều đều qua các năm (tỷ giá giữa
USD/VND năm 2001 là 14.725 VND; năm 2002: 15.280 VND; năm 2003:
15.510 VND; năm 2004: 15.740 VND; năm 2005: 15.859 VND; năm 2006:
15.994 VND; và năm 2007: 16.241 VND). Nhưng do giá cả tại Việt Nam tăng
cao hơn giá cả tại Mỹ (12,63% so với 4,1% năm 2007), nên dù tỷ giá danh
nghĩa có phần hạ thấp giá trị đồng Việt Nam thì trên thực tế đồng đơ la vẫn
đang bị hạ thấp giá trị so với VND (USD đã bị mất giá 8,1% so với năm 2006,
do lạm phát 4,1%, tại Mỹ 1 đơ la năm 2007 có sức mua tương đương với 0,959
đô la năm 2006, và bằng 16.241 đồng Việt Nam năm 2007. Cũng do lạm phát
12,63%, tại Việt Nam 16.241 đồng năm 2007 chỉ có sức mua tương đương với
14.189 đồng của năm 2006; cịn 1 đơ la tại Việt Nam năm 2006 chỉ còn bằng
14.795 đồng vào tháng 12/2007. Như vậy, nếu so với sức mua là 15.994 đồng
của năm 2006, thì đồng đơ la tại Việt Nam vào cuối năm 2007 đã bị mất 8,1%
giá trị. Điều đó vơ hình chung đã góp phần hạn chế xuất khẩu và khuyến khích
nhập khẩu. Thực tế là năm 2007 Việt Nam nhập siêu kỷ lục, với 12,45 tỷ USD,
bằng 25,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Có thể thấy, sự biến động của các chỉ số
giá tiêu dùng, giá vàng, và giá đô la là rất khác nhau qua các tháng. Những
tháng đầu và cuối năm, nhất là cuối năm chỉ số giá biến động mạnh hơn.
Dù so sánh theo cách nào, thì sự biến động của giá cả cũng vẫn thể hiện
một xu hướng chung là chỉ số giá tiêu dùng và giá vàng tăng cao, đặc biệt là giá

vàng tăng rất cao và liên tục không chỉ trong năm 2007, mà cả trong suốt 7 năm
(năm 2001 tăng 5%, năm 2002 tăng 19,4%, năm 2003 tăng 26,6%, năm 2004
tăng 11,7%, năm 2005 tăng 11,3%, năm 2006 tăng 27,2%, năm 2007 tăng
27,35%). Cịn giá đơ la tăng chậm, thậm chí trong vài năm gần đây có xu
hướng giảm nhẹ. Nếu so với tháng 12/2000, giá vàng năm 2007 đã tăng gấp 2,2
lần, còn giá tiêu dùng tăng hơn 1,5 lần, và giá USD tăng 1,1 lần.
* Năm 2008:
Nếu như năm 2007, lạm phát tăng đến 2 con số đã gây nên hoang mang cho
người dân và cả các nhà lãnh đạo đất nước, thì đến năm 2008, lạm phát thực sự
bùng nổ và thực sự gây nên những bất ổn vĩ mô. Chỉ số giá khởi đầu năm 2008
với mức tăng cao 2,38%, đã báo hiệu một năm đầy khó khăn và nỗi lo lạm phát
thực sự đã xuất hiện vào ngày 21/2 khi chỉ số giá tiêu dùng tháng 2/2008 đạt
mức tăng 3,56% so với tháng trước, tháng Ba tăng 2,99%; tháng Tư là 2,2%,
tháng Năm đạt đỉnh tăng của năm 2008 là 3,91%, tháng Sáu tăng 2,14%, tính


trung bình 6 tháng đầu năm 2008 lạm phát lên tới 2,86% cho mỗi tháng. Lạm
phát đỉnh điểm vào tháng 7 năm 2008 khi lên tới trên 30%. Qua đến tháng 9
năm 2008, lạm phát đã giảm mạnh so với những tháng trước đó và liên tiếp 3
tháng 10, 11 và 12/2008 CPI tăng trưởng âm. Tất cả là do các chính sách thắt
chặt tiền tệ của NHNN, các biện pháp kìm chế lạm phát của chính phủ đồng
thời từ tháng 9 năm 2008 khủng hoảng tài chính từ Mỹ bắt đầu lan rộng ra toàn
cầu làm giá cả nhiều mặt hàng giảm mạnh. Đối với từng nhóm hàng cụ thể,
nhìn chung trong năm 2008 có 4 nhóm hàng có chỉ sốgiá bình quân tăng cao so
với năm trước là: hàng ăn - dịch vụ ăn uống tăng 36,57% (riêng lương thực
tăng 49,16%, thực phẩm tăng 32,36%); nhà ở - vật liệu xây dựng tăng 20,51%;
phương tiện đi lại - bưu điện tăng 16% và đồ dùng - dịch vụ khác tăng 13,17%.
Ngồi ra, chỉ số giá bình qn của vàng trong năm 2008 đã tăng 31,93%, trong
khi chỉ số giá USD chỉ tăng bình quân 2,35% so với năm 2007. Bên cạnh đó,
tác động tâm lý đã đẩy nhiều loại hàng hóa tăng giá bất hợp lý. Tại một số thời

điểm, trong lúc giá xi măng xuất xưởng của một số nhà cung cấp chỉ có
53.00055.000 đồng/bao, thì giá bán trên thị trường lên 80.000 - 90.000
đồng/bao...CPI cũng đẩy lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng
thương mại tăng liên tục trong giai đoạn này, có những thời điểm vượt trên 1819%, đối với huy động tiền gửi, và 21-24% với cho vay. Bình quân mức tăng
CPI thời kỳ này đạt 2,48%/tháng, dù đã được điều chỉnh bởi các nhóm giải
pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ.
Kết thúc năm 2008, lạm phát lùi về cịn 19,89%, đây là mức cao nhất trong
vòng
17 năm qua. Trong đó CPI của lương thực tăng cao nhất và đạt 49,16%, chỉ số
giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2008 giảm 0,68% so với tháng trước, nhưng so
với tháng 12 năm 2007 tăng 19,89% và chỉ số giá bình quân năm 2008 so với
năm 2007 tăng 22,97%; đặc biệt, so với kỳ gốc năm 2005 đã tăng 46,07%.


Biểu đồ 1: Biểu đồ CPI qua 12 tháng năm 2008

*Giai đoạn 2009-2010:
Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều
hàng hóa cũng xuống mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế. CPI
năm 2009 tăng 6.52%, thấp hơn đáng kể so với những năm gần đây. Tuy vậy,
mức tăng này nếu so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới lại cao hơn
khá nhiều.
Khép lại với mức tăng CPI trong vịng kiểm sốt, nhưng gạo và xăng dầu,
hai mặt hàng có quyền số lớn trong rổ hàng hóa, dịch vụ tính CPI vẫn ln là
yếu tố bất định trong năm. Một số chuyên gia nhận định, chỉ số giá năm 2009
đang nằm trong mức như mong đợi, tuy nhiên vẫn còn một số lo ngại bởi, so
với cùng kỳ năm ngoái một số mặt hàng thiết yếu vẫn đang có xu hướng tăng
cao, từ 8,53 đến 9,56%.
Mức lạm phát 2 con số của Việt Nam trong năm 2010 đã chính thức được
khẳng định. Con số 11,75% tuy khơng quá bất ngờ nhưng vẫn vượt so với chỉ

tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu năm gần 5%.


×