Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nghị luận văn học: Dấu ấn thơ ca dân gian trong tương tư của Nguyễn Bính - Văn mẫu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.39 KB, 5 trang )

Đề bài: Dấu ấn thơ ca dân gian trong Tương Tư của Nguyễn Bính
Bài làm
Tình u ln là đề tài muôn thuở trong văn học Việt Nam và luôn mạng lại
nhiều cảm hứng sâu sắc cho các nhà thơ, nhà văn. Mỗi nhà thơ, họ đều có những quan
niệm, cảm xúc riêng về tình u và Nguyễn Bính cũng là một trong số đó. Ơng được
Hồi Thanh ghi nhận là nhà thơ quê mùa đã đưa hương đồng gió nội vào thơ ca. Qua
sàng lọc của thời gian, thơ Nguyễn Bính khẳng định được giá trị, đã khơi nguồn và
đánh thức hồn vía của dân tộc thơng qua những câu thơ mang phong vị ca dao, mang
cả tâm tình của người bình dân. Bài thơ Tương tư của ơng cũng đủ để chứng minh cho
cái chất ca dao, chất dân quê trong thơ ca.
Tương tư là cùng nhớ nhau. Nhưng trong thực tế, tương tư thường nói về nỗi
nhớ đơn phương của một người với người khác. Bởi vậy mà người đang yêu thường
có cảm giác bồi hồi, nỗi nhớ triền miên, day dứt khơng n, đơi khi cịn lo sợ và hy
vọng. Nỗi nhớ trong bài thơ là nỗi nhớ của một mối tình quê, được diễn tả bằng cách
thức và lời nói của dân quê, của ca dao.
Trong ca dao, dân ca, tương tư là nỗi nhớ đơn phương của người con gái hướng
về chàng trai yêu thương mình. Ở đây thì ngược lại, nhân vật tương tư là chàng trai,
đối tượng để nhớ nhung là người con gái. Khác với người thị dân thì trong tình yêu,
người dân q khơng phải bao giờ cũng dễ dàng có dịp để trực tiếp bày tỏ tình cảm
của mình với người mình thương u. Gặp nhau đã khó, mà gặp nhau để bày tỏ tâm tư
của mình càng khó hơn. Họ sợ người thiên hạ, làng xóm và cả người mình muốn bày
tỏ. Vì thế cho nên, khơng phải chỉ gần nhau rồi xa cách mới tương tư, hay không được
yêu mới tương tư mà ngay cả đến yêu nhau, khơng nói được với nhau cũng đủ để tạo
thành tương tư. Trạng thái tương tư mở đầu bài thơ bằng sự nhớ nhung:
“Thơn Đồi ngồi nhớ thơn Đơng
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng"
Câu thơ thứ nhất nên nói: anh ở thơn Đồi ngồi nhớ em ở thơn Đơng. Nỗi nhớ
trong tình u chỉ có thể là tình cảm rất riêng tư giữa cá nhân với cá nhân. Thế nhưng
khi anh nhớ em thì nhân vật “tơi" có cảm nhận cả đất trời, vũ trụ, thơn làng đều có thể


1


nhớ nhau. Mọi chàng trai thơn Đồi đều ngồi thụ động nhớ tất cả người con gái thôn
Đông. Đây là một cảm nhận rất phi lý nhưng lại rất thật trong tâm trạng của một người
yêu đơn phương. Người con trai trong thơ của Nguyễn Bính cùng làng nhưng lại khác
thôn với cô gái anh ta đang yêu. Làm sao mà cả một thôn này lại tương tư cả một thơn
kia? Có lẽ anh chàng này chỉ nói vu vơ, điều này làm cuộc nói chuyện khỏi đường đột,
để tạo ra cái cơ hội tỏ bày cùng cô gái. Trước sau rồi anh ta cũng sẽ bộc lộ tâm tư của
mình. Trong tập thể thơn Đơng thơn Đồi, người con trai bắt đầu tách biệt ra để bộc
bạch tâm trạng “Một người chín nhớ mười thương một người". Điều này khiến ta thấy
rằng chỉ có một người chứ khơng phải là tất cả mọi người. Câu thơ này có tám tiếng
thì bốn tiếng là số từ. “Một" đến “chín" rồi lại “mười" và cuối cùng quay lại “một".
Hai tiếng “một người" được sắp xếp ở cả đầu câu và cuối câu. Giữa một người này và
một người kia là thành ngữ “chín nhớ mười mong" nghìn trùng xa cách. Đây không
phải là xa cách về không gian địa lý bởi thơn Đồi và thơn Đơng “cùng chung một
làng" mà là không gian của tâm lý, một nỗi nhớ, một niềm mong đã mở rộng đến chín,
mười lần. Chàng trai đã dùng hình ảnh nắng mưa của trời đất như lời mở đầu để bộc
bạch tâm tư, tình cảm của mình:
“Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi u nàng"
Hai dịng thơ trên đều có từ “là". Nó là phép so sánh có tính suy luận. Sở dĩ có
gió, có mưa là do trời mắc bệnh qua biểu hiện của nắng, mưa, do tác động yếu tố bên
trong của cơ thể. Cịn bệnh của nhân vật “tơi" là do tác nhân bên ngoài. Rõ hơn là do
nhân vật “tôi" đơn phương yêu nàng cho nên phải mắc bệnh tương tư. Biểu hiện của
nó chính là hiện tượng của căn bệnh “tôi yêu nàng". Yêu nàng không phải là một ý
chủ quan nào đó của nhân vật “tơi", cũng khơng phải là tình cảm tự bản thân chàng
trai muốn có, mà căn bệnh này vốn tự nhiên mà có, cũng như trời đâu muốn gió mưa,
nhưng đó là thứ bệnh khơng trốn tránh được. Chàng trai giải bày tình cảm của mình
thật khéo léo, tế nhị. “Phương thuốc" để trị bệnh cho nhân vật “tơi" chỉ có thể là nàng

- cơ gái mà chàng trai u thương mới có thể chữa khỏi mà thơi. Nếu khơng thì nỗi
tương tư của anh ta cũng không dứt. Trạng thái thứ hai của tương tư mà tác giả đề cập
là sự băn khoăn, hờn dỗi:

2


Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này"
Trong văn hóa làng xã ngàn đời của dân tộc ta, làng thường được cấu trúc bởi
nhiều thôn. Một làng chung một mái đình, chung mọi sự sinh hoạt văn hóa vật chất
lẫn tinh thần. Thơn Đồi và thôn Đông chung với nhau như một lẽ tự nhiên. Hơn nữa,
con số “hai" thành “một" vốn là quy luật hợp nhất của tình u. Mặt khác, đó là sự tự
nguyện của nam và nữ để tạo thành một cặp, một mái ấm gia đình. Câu thơ “Hai thơn
chung lại một làng” ẩn phía sau là nói tới quy luật tình u hướng tới hơn nhân. “Bên
này" rất muốn sang “bên ấy", “hai” rất muốn chung lại làm “một”. Điều này sẽ thành
hiện thực nếu cô gái không hờ hững với chàng trai. “Cớ sao" biểu hiện sự trách móc,
dỗi hờn đồng thời thể hiện sự băn khoăn khi không hiểu được thái độ của “bên ấy" với
“bên này". Người có lỗi là nàng, lỗi đáng trách là chẳng sang bên này mà thời gian
chờ đợi quá lâu đến nỗi:
“Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng"
Nhưng anh chàng đã đưa ra lý do để bào chữa cho việc “khơng sang" ấy là cách
trở đị giang. Lý do đó đã bị bác bỏ ngay vì giữa hai người khơng có con sơng nào:
“Bảo rằng cách trở đị giang
Khơng sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xơi mấy mà tình xa xôi?”
Chàng trai đã chờ đợi khá lâu nhưng người anh mong chờ vẫn chưa thấy hình
bóng. Trạng thái thứ ba của tương tư chính là than thở. Trong thơ lục bát có lỗi ngắt

nhịp truyền thống là 2/2/2 nhưng Nguyễn Bính đã phá vỡ cách ngắt nhịp ấy để tạo nên
sự bất thường trong tâm trạng của người đang yêu. Nó thể hiện rõ ở hai câu: “Ngày
qua ngày lại qua ngày. Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng". Đơn vị thời gian ở đây
là từng ngày từng ngày chờ đợi mong mỏi, nhưng nó trơi qua một cách lạnh lùng, lại
tiếp tục thụ động đợi chờ một ngày mới. Nỗi day dứt, nóng ruột cứ tăng dần trong
lòng chàng trai. Điều đặc biệt hơn nữa là tác giả đã cho nhân vật “tơi" dùng con mắt
của mình để nhìn khơng gian màu sắc, thơng qua đó thể hiện một ý niệm cụ thể và
dòng chảy tiêu cực của thời gian chờ đợi, từ một chiếc lá xanh ngày nào còn trong
3


mùa xuân đã trở thành những chiếc lá vàng của mùa thu tàn héo. Nếu khơng có trạng
thái tương tư đợi chờ thì khó lịng cảm nhận thời gian từ những chiếc lá theo ngày,
theo mùa. Nhà thơ Nguyễn Du có một câu thơ về mùa thu rất nổi tiếng:
“Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san"
Sự mong đợi, nhớ thương người con gái có thể chấp nhận tình cảm của mình là
điều hiển nhiên. Chàng trai cũng rất mong muốn sang “bên ấy", điều này khiến ta
bỗng nhớ đến câu ca dao cổ:
“Muốn sang nhưng ngại vắng thuyền
Muốn về bên ấy nhưng duyên lỡ rồi"
Người con gái trong thơ của Nguyễn Bính chẳng có sơng, núi nào cách trở, mà
cho dù là như vậy thì nếu có tình cảm chân thật thì vẫn có thể vượt qua mọi thử thách:
“Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua"
Vì thế, lý do quan trọng là ở tấm lịng. Tấm lịng của cơ gái dường như khơng
có được cái bệnh đồng tương tư vốn là căn bệnh “của tơi u nàng". Lời trách móc
vừa nhẹ vừa nặng, vừa tha thiết, chân thành. Những từ ngữ “bảo rằng" với “đã đành",
“nhưng đây", “có xa xơi mấy" cứ như là lời của chàng trai quê nói với người khác, lại
như tự tâm sự với chính mình. Trách móc nhưng vẫn không thay đổi được sự thật.
Chàng trai vẫn mang trong mình nỗi nhớ, nỗi tương tư khơng người chia sẻ. Nhưng có

lẽ, đâu đó trong tâm tư, người con trai này vẫn mang hy vọng:
“Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau"
Nhưng hy vọng này vẫn cịn q mong manh. Cùng với hai hình ảnh ẩn dụ
“bến", “đị" có tính truyền thống của ca dao, Nguyễn Bính lại thêm “hoa khuê các",
“bướm giang hồ" có sức gợi cảm mang sắc thái ý nghĩa khác hơn. Cô gái là “hoa khuê
các", là con nhà nho giáo, nề nếp, giàu sang, còn chàng trai là “bướm giang hồ" - là kẻ
phiêu bạt, lang thang, nghèo khó, hai người dường như không thể đến được với nhau
nhưng anh chàng vẫn chờ đợi và hy vọng. Trong ca dao thì hình ảnh thuyền và bến
cũng được nhắc đến:
“Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền"
4


Câu thơ gợi lên làn điệu dân ca hoa thơm bướm lượn rất say đắm, trữ tình. Bến
và đị, hoa và bướm là những ẩn dụ về tình yêu hạnh phúc trong ca dao. Đị phải về
bến, bướm phải tìm hoa, thơn Đồi và thơn Đơng phải chung làng. Tất cả là hợp lý, là
quy luật hoàn mỹ. Nhưng hai tiếng “bao giờ" không cho thấy thời gian cụ thể, một
cuộc chờ đợi khơng hề có ước hẹn:
Tâm trạng cuối cùng của tương tư là hy vọng xa xôi. Ngôn ngữ biểu cảm đã bất
ngờ thành ngôn ngữ trần thuật. Nhân vật “tơi" tự xưng để mơ tả:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà tơi có một hàng cau liên phịng
Thơn Đồi thì nhớ thơn Đơng
Câu thơn Đồi nhớ giầu khơng thơn nào?”
Hình tượng trầu cau đã hé lộ một ước mơ về cuộc hôn nhân trong tương lai
hạnh phúc, vui vẻ. Vì thơn Đồi vẫn ngồi nhớ thơn Đơng, cau vẫn nhớ trầu, tương tư
vẫn nối tiếp tương tư,... Trong mơ hồ, chàng trai đã gửi vào trầu cau một ước vọng bởi
vì trầu khơng thể thiếu cau và ngược lại:

“Có phải dun nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vơi"
(Hồ Xn Hương)
Mối tình sơi nổi, thiết tha mà vẫn chừng mực, kín đáo, tuy buồn đau nhưng vẫn
trong sáng, đó chính là tình u trong bài “Tương tư". Nếu như không biết cụ thể đây
là một bài thơ của Nguyễn Bính, ta có thể sắp xếp nó vào trong số những bài ca dao
hay nhất về tình yêu.
Giữa phong trào Thơ mới rộn ràng, Nguyễn Bính vẫn giữ cho mình một phong
cách, một lối thơ mang đậm tính dân tộc, khơng Tàu cũng khơng Tây. Nó rất mộc
mạc, giản dị, là cái đặc sắc trong thơ của ông - nhà thơ của hương đồng gió nội nơi
vùng quê đầy thơ mộng và đậm chất tình người.

5



×