Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Mua sắm chính phủ theo quy định của WTO và án lệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.77 KB, 13 trang )

MỤC LỤC


A.

MỞ ĐẦU

Mỗi năm, Chính phủ các quốc gia bỏ ra một khoản tiền không nhỏ để chi
tiêu mua sắm, có thể nói đây là một vấn đề vô cùng nhạy cảm đối với mỗi quốc
gia. Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia đều dè dặt và thận trọng trong đối với
hoạt động này. Tuy nhiên, đứng trước xu thế hội nhập toàn cầu, các quốc gia đều
phải cân nhắc mở cửa mua sắm chính phủ. Việc mở cửa mua sắm chính phủ se
luôn có những cơ hội lớn để phát triển, bên cạnh đó là sự cạnh tranh, những
tranh chấp liên quan đến vấn đề này. Để làm rõ tranh chấp liên quan này, em xin
lựa chọn đề tài: “Vấn đề mua sắm chính phủ theo quy định của WTO” và án lệ:
“Hàn Quốc – Các biện pháp ảnh hưởng đến hoạt đợng mua sắm của chính phủ”.
NỢI DUNG
MỢT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN MUA SẮM CHÍNH
B.

I.

PHU
Khái niệm

1.

Án lệ là việc làm luật của tòa án khi công nhận và áp dụng các quy tắc mới
trong quá trình xét xử; vụ việc đã được giải quyết làm cơ sở để đưa ra phán
quyết cho những trường hợp có tình tiết hoặc vấn đề tương tự sau này. Án lệ có
một số đặc điểm cơ bản sau: án lệ do tòa án tạo ra trong qua trình xét xử nên


nguồn luật án lệ còn được gọi là luật được hình thành từ vụ việc ("case law”)
hay luật do thẩm phán ban hành ("judge make law”); án lệ được hình thành phải
mang tính mới; kỹ thuật xây dựng và vận hành là dựa vào yếu tố tương tự.
Hiệp định về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp thường được gọi
là Hiệp định giải quyết tranh chấp hay DSU. DSU quy định về phạm vi thẩm
quyền và chức năng cơ bản của các thiết chế trong việc giải quyết tranh chấp tại
WTO.
Mua sắm chính phủ (mua sắm công) có thể được định nghĩa là hoạt động
của một cơ quan công quyền trong hoạt động mua hàng hóa, dịch vụ hay giao

2


thầu công trình vì những nhu cầu của mình. Mua sắm của chính phủ là yếu tố
chính trong việc xác định tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của một quốc gia.
Thủ tục giải quyết tranh chấp

2.

Các cơ quan tham gia vào giải quyết tranh chấp là: Cơ quan giải quyết
tranh chấp (DSB), Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm. Tổng giám đốc và Ban
thư ký của WTO. Thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO gồm các giai đoạn:
giai đoạn Tham vấn; giai đoạn Hội thẩm; giai đoạn Phúc thẩm và Thi hành phán
quyết.
+ Giai đoạn tham vấn: là giai đoạn đầu tiên và bắt buộc trong giải quyết
tranh chấp tại WTO. Các quy định và thủ tục tham vấn được quy định trong
Điều 4 DSU. Việc giải quyết bắt đầu bằng một yêu cầu tham vấn chính thức
(yêu cầu tham vấn được lập thành văn bản) và được gửi cho các thành viên tham
vấn và DSB.
+ Giai đoạn hội thẩm: trong trường hợp tham vấn không giải quyết được

tranh chấp, nguyên đơn có thể yêu cầu DSB thành lập Ban hội thẩm. Ban hội
thẩm se được lập cho từng vụ tranh chấp. Ban hội thẩm se làm việc và đưa ra
báo cáo cuối cùng gửi cho các bên tranh chấp. Nếu báo cáo của Ban hội thẩm bị
kháng cáo, tranh chấp se được giải quyết tại Cơ quan phúc thẩm. Nếu không,
báo cáo của Ban hội thẩm se được DSB thông qua theo nguyên tắc “đồng thuận
nghịch”.
+ Giai đoạn phúc thẩm: trong trường hợp báo cáo của Ban hội thẩm bị
kháng cáo, tranh chấp se được giải quyết tại Cơ quan phúc thẩm. Giai đoạn phúc
thẩm bắt đầu bằng một thông báo bằng văn bản gửi tới DSB và một đơn kháng
cáo được điền đầy đủ gửi tới Ban thư ký. Theo khoản 5 Điều 17 DSU, thủ tục
kháng cáo hoàn thành trong vịng 60 ngày và khơng thể kéo dài quá 90 ngày kể
từ ngày gửi đơn kháng cáo. Báo cáo của cơ quan phúc thẩm se được DSB thông
qua theo nguyên tắc “đồng thuận nghịch”.
3


+ Thi hành phán quyết: DSB là cơ quan chịu trách nhiệm giám sát việc thi
hành các báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm. Khi báo cáo được
thông qua, các khuyến nghị và quyết định của báo cáo đó se trở thành phán
quyết của DSB. Theo quy khoản 3 Điều 21 DSU, các khuyến nghị và quyết định
được DSB thông qua phải được thi hành ngay.
II.

ÁN LỆ KOREA – MEASURES AFECTING GOVERNMENT

PROCUREMENT ( Hàn Quốc – Các biện pháp ảnh hưởng đến hoạt động

-

mua sắm của chính phủ)

1.
Tóm tắt vụ tranh chấp
Tên án lệ: Hàn quốc – Các biện pháp ảnh hưởng đến hoạt động mua sắm của

-

chính phủ; số tham chiếu: DS163.
Các bên tham gia tranh chấp và giải quyết tranh chấp:
+ Nguyên đơn: Hoa Ky
+ Bị đơn: Hàn Quốc
+ Cơ quan giải quyết tranh chấp: Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB),
Ban hội thẩm của WTO.

-

Sự kiện pháp lý:
Vào ngày 16 tháng 2 năm 1999, Chính phủ Hoa Ky đã yêu cầu tham vấn
với Chính phủ Hàn Quốc theo Điều 4 của Thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục
điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU) và Điều XXII của GPA liên quan
đến hoạt động mua sắm nhất định của Cơ quan Xây dựng Sân bay Hàn Quốc
(KOACA) và các tổ chức khác liên quan đến việc mua sắm xây dựng sân bay ở
Hàn Quốc. Hoa Ky cho rằng cách làm như vậy không phù hợp với các nghĩa vụ
của Hàn Quốc theo Hiệp định Mua sắm Chính phủ (GPA). Chúng bao gồm các
thông lệ liên quan đến năng lực đấu thầu với tư cách là nhà thầu chính, đối tác
trong nước và việc không được tiếp cận với các thủ tục thách thức vi phạm
GPA. Hoa Ky cho rằng KOACA và các tổ chức khác nằm trong danh sách các tổ
chức chính phủ trung ương của Hàn Quốc như quy định tại Phụ lục 1 về các
4



nghĩa vụ của Hàn Quốc trong Phụ lục I của GPA. Hoa Ky và Hàn Quốc đã tổ
chức tham vấn tại Geneva vào ngày 17 tháng 3 năm 1999, nhưng không giải
quyết được tranh chấp.
-

Vấn đề pháp lý:
Vấn đề mà Hoa Ky khiếu nại về việc các thực thể tiến hành mua sắm có
nằm trong danh sách các tổ chức chính phủ trung ương Hàn Quốc không? Việc
mua sắm xây dựng sân bay ở Hàn Quốc của KOACA và một số tô chức khác có
vi phạm nghĩa vụ của Hàn Quốc theo GPA không?

-

Luật áp dụng để giải quyết tranh chấp:
Phụ lục I, Điều III, VIII, XI, XVI, XX, XXII:2 Hiệp định Mua sắm chính
phủ (GTA).
2.
a.

Tóm tắt lập luận của nguyên đơn, bị đơn, cơ quan tài phán
Lập luận của nguyên đơn
Về phía Hoa Ky, cho biết họ đã yêu cầu tham vấn với Hàn Quốc theo Điều

4 của sự hiểu biết về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp
(DSU) và Điều XXII của Hiệp định Mua sắm Chính phủ (GPA) đối với một số
thực tiễn mua sắm của Cơ quan Xây dựng Sân bay Hàn Quốc (KOACA) và các
đơn vị khác liên quan đến việc mua sắm xây dựng sân bay ở Hàn Quốc, không
phù hợp với nghĩa vụ của Hàn Quốc theo GPA. Các phương thức đấu thầu mà
họ nhận thức được bao gồm:
+ Năng lực: Yêu cầu để được dự thầu với tư cách là nhà thầu chính, nhà

cung cấp quan tâm phải có giấy phép, theo đó yêu cầu nhà cung cấp phải có cơ
sở sản xuất tại Hàn Quốc. Yêu cầu này dường như không phù hợp với Điều III
(1), Điều VIII và Điều XVI của GPA.
+ Yêu cầu hợp tác: Các công ty nước ngoài phải hợp tác hoặc làm nhà thầu
phụ cho các công ty địa phương của Hàn Quốc để tham gia vào các thủ tục đấu
5


thầu. Các yêu cầu như vậy dường như không phù hợp với Điều III (1), Điều VIII
và Điều XVI của GPA.
+ Không có quyền tiếp cận với các thủ tục thách thức: GPA yêu cầu các
nước thành viên cung cấp các thủ tục hiệu quả cho phép các nhà cung cấp thách
thức các vi phạm bị cáo buộc đối với GPA phát sinh trong bối cảnh mua sắm.
Tuy nhiên, các thủ tục như vậy không tồn tại đối với Sân bay Quốc tế Inchon và
các gói thầu xây dựng sân bay khác.
+ Thời hạn đấu thầu không đầy đủ: Có những áp đặt về thời hạn nhận thầu
ngắn hơn 40 ngày yêu cầu của GPA, chẳng hạn như khi thủ tục đấu thầu bị hủy
bỏ mà không cần giải thích và đấu thầu lại ngay lập tức với thời hạn đấu thầu rút
ngắn.
Hoa Ky cho rằng các thực thể thực hiện việc mua sắm nằm trong danh sách
các tổ chức chính phủ trung ương Hàn Quốc. Căn cứ vào Điều I.1 của GPA, các
nghĩa vụ của Hàn Quốc theo GPA áp dụng đầy đủ đối với các hoạt động mua
sắm của chính phủ cho Sân bay Quốc tế Inchon. Do đó, các biện pháp trên
không phù hợp với các Điều III, VIII, XI, XVI và XX của GPA. Ngoài ra, theo
Điều XXII: 2 của GPA, cho dù các biện pháp này có mâu thuẫn với các quy định
của GPA hay không, chúng se vô hiệu hóa hoặc làm giảm lợi ích tích lũy cho
Hoa Ky theo GPA.
Hoa Ky lập luận rằng MOCT, giống như tất cả các "cơ quan chính phủ
trung ương" khác của Hàn Quốc; vì NADG, KAA, KOACA và IIAC là các văn
phịng chi nhánh hoặc tở chức con của một "cơ quan chính phủ trung ương", cụ

thể là MOCT, phạm vi của MOCT theo GPA bao gồm phạm vi của NADG,
KAA, KOACA và IIAC.
Hoa Ky lập luận rằng Bộ Công Thương đã làm điều đó khi đưa KAA trở
thành nhà điều hành dự án IIA vào tháng 12 năm 1991, KOACA trở thành nhà
điều hành dự án vào tháng 8 năm 1994 và IIAC là nhà điều hành dự án vào năm
1999. Tuy nhiên, Hoa Ky khẳng định rằng rõ ràng là xuyên suốt giai đoạn tám
6


năm chuyển đổi nhà khai thác dự án này, Bộ Công Thương vẫn giữ thẩm quyền
theo luật định và quyền kiểm soát cuối cùng đối với toàn bộ dự án phát triển sân
bay IIA.
Theo Hoa Ky, Hàn Quốc sau đó đã tham gia vào các biện pháp mua sắm
mà Hoa Ky không thể lường trước vào thời điểm đàm phán về việc xây dựng
sân bay. Hoa Ky cho rằng các biện pháp này làm đảo lộn mối quan hệ cạnh tranh
đã được thiết lập giữa các sản phẩm, dịch vụ và nhà cung cấp của Hoa Ky và các
sản phẩm, dịch vụ và nhà cung cấp của Hàn Quốc trong dự án xây dựng IIA,
một mối quan hệ cạnh tranh có khả năng trị giá 6 tỷ đô la Mỹ. Trên cơ sở này,
Hoa Ky cho rằng Hàn Quốc đang vô hiệu hóa hoặc làm suy giảm các lợi ích tích
lũy cho Hoa Ky theo GPA.
b.

Lập luận của bị đơn
Trong quá trình tham vấn, Hàn Quốc khẳng định rằng các đơn vị chịu trách

nhiệm mua sắm Sân bay Quốc tế Inchon không nằm trong nghĩa vụ của Hàn
Quốc theo GPA, và do đó không tuân theo các quy định của GPA. Hàn Quốc lập
luận rằng tuyên bố rằng "phạm vi bao phủ của 'cơ quan chính phủ trung ương'
theo Phụ lục 1 của GPA bao gồm phạm vi bảo hiểm của các đơn vị trực tḥc,
tức là các văn phịng chi nhánh và tổ chức con" không được hỗ trợ bởi bất ky

văn bản nào của GPA.
Hàn Quốc tuyên bố rằng Hoa Ky đang sử dụng các quy tắc của Công ước
Viên về Luật Điều ước để giải thích "ý nghĩa thông thường" của ngôn ngữ hiệp
ước không xuất hiện trong hiệp ước. Theo Hàn Quốc, các thuật ngữ "văn phịng
chi nhánh" và "tở chức con", là các tḥt ngữ không xuất hiện trong GPA và thay
vào đó, chỉ đơn thuần là các nhãn không có ý nghĩa về bản thân.
Hàn Quốc tuyên bố rằng, trong lĩnh vực luật doanh nghiệp, "chi nhánh"
được định nghĩa là một "bộ phận, văn phịng hoặc đơn vị kinh doanh khác đặt tại
mợt địa điểm khác với văn phòng chính hoặc trụ sở chính". Hàn Quốc lập luận
rằng điều quan trọng trong các định nghĩa này, vì mục đích của trường hợp này,
7


là "chi nhánh" thường không phải là một thực thể độc lập, mà chỉ đơn giản là
một bộ phận, văn phịng hoặc đơn vị khác nằm ở mợt nơi khác. Hàn Quốc lập
luận thêm rằng một chi nhánh có nghĩa vụ GPA giống như pháp nhân mẹ; công
ty con là một pháp nhân riêng biệt; một công ty con không nhất thiết phải có
nghĩa vụ GPA của một thực thể khác.
Hàn Quốc lập luận rằng NADG không phải là "văn phịng chi nhánh" của
Bợ Cơng Thương; NADG chỉ là mợt lực lượng đặc nhiệm được tổ chức trong
MOCT. Hàn Quốc lập luận rằng KAA, KOACA và IIAC không phải là tổ chức
con của MOCT; KAA, KOACA và IIAC là những pháp nhân độc lập theo luật
pháp Hàn Quốc, với tư cách là một pháp nhân riêng biệt, mỗi thực thể ký hợp
đồng thay mặt cho mình, theo các thông báo đấu thầu và các quy định mua sắm
của riêng mình.
Hàn Quốc lập luận rằng Bộ Công Thương không kiểm soát các hoạt động
mua sắm của KAA, KOACA và IIAC; KAA, KOACA và IIAC được thành lập
theo một đạo luật của Quốc hội với tư cách là những pháp nhân riêng biệt và do
đó, là những pháp nhân độc lập theo luật pháp Hàn Quốc.
Hàn Quốc lập luận rằng, ngay cả khi giả định rằng áp dụng thử nghiệm

kiểm soát của Hoa Ky, thì KAA, KOACA và IIAC không thể được coi là được
Bộ Công Thương kiểm soát theo thử nghiệm này. Hàn Quốc lập luận rằng điều
này xuất phát từ thực tế là mức độ kiểm soát không phải là cực đoan mà chỉ là
mức độ kiểm soát cần thiết để đảm bảo rằng lợi ích của công chúng được phản
ánh trong hoạt động của mỗi tập đoàn.
Hàn Quốc lập luận rằng Hoa Ky phải chứng minh, theo yêu cầu tại Điều
XXII: 2 rằng họ xác định "lợi ích tích lũy" cho mình theo GPA, rằng họ "mong
đợi một cách hợp lý" để đạt được lợi ích từ phạm vi bảo hiểm GPA cho hoạt
động mua sắm IIA.
c.

Lập luận của cơ quan tài phán
8


Tại cuộc họp ngày 16 tháng 6 năm 1999, DSB đã thành lập ban hội thẩm
theo yêu cầu của Hoa Ky (WT/DS163/4), phù hợp với Điều 6 của DSU (WT/DS
/M/64). Tại cuộc họp đó, DSB đồng ý rằng Ban Hội thẩm cần có các điều khoản
tham chiếu tiêu chuẩn theo Điều XXII: 4 của Hiệp định Mua sắm Chính phủ
(GTA).
DSB nêu ra quan điểm rằng là các Thành viên nói chung có thể, dựa trên
các cuộc đàm phán, quyết định những đơn vị nào (và việc mua sắm do các thực
thể đó chi trả) được đưa vào danh sách se được đưa vào phụ lục của họ. Câu hỏi
về "quyền kiểm soát" hoặc dấu hiệu liên kết khác không phải là một điều khoản
rõ ràng của GPA.
DSB lưu ý rằng khả năng xác định phạm vi cam kết này không phải là tuyệt
đối. Hoa Ky chỉ ra rằng hoạt động mua sắm của NADG được GPA bao trùm một
cách chắc chắn mặc dù nó không được liệt kê một cách rõ ràng cũng như trực
tiếp trong một tổ chức trực thuộc hoặc theo cách khác trong Chú giải 1 của Phụ
lục 1. Hàn Quốc trả lời rằng NADG là lực lượng đặc nhiệm của MOCT (phản

ứng này của Hàn Quốc phần nào né tránh thách thức). Cần phải xem xét thêm
phần nào đó để xem liệu có sự liên kết của hai thực thể để chúng có thể được coi
là cùng một thực thể về mặt pháp lý (như trường hợp giữa MOCT và NADG)
hoặc một người có thể hành động thay mặt cho người khác.
DSB cho rằng câu trả lời của Hàn Quốc cho câu hỏi của Hoa Ky rõ ràng
không phải là một câu trả lời đầy đủ và thấu đáo như thường lệ phù hợp cho các
cuộc đàm phán GPA. Vào thời điểm Hàn Quốc cung cấp câu trả lời của mình,
nước này đã ban hành luật, chỉ định một tổ chức khác (không phải Bộ Công
Thương) chịu trách nhiệm về dự án IIA. Hàn Quốc đã tuyên bố rằng họ biết rằng
dự án IIA là chủ đề của cuộc điều tra của Hoa Ky. Câu trả lời của Hàn Quốc có
thể được mô tả là không đầy đủ. Liên quan đến việc giải thích lịch sử đàm phán
về việc Hàn Quốc gia nhập GPA, DSB cho rằng thông tin này làm rõ rằng Chú
giải 1 của Phụ lục 1 là có ý nghĩa về bản chất là xác định và văn bản của Lịch
9


trình của Hàn Quốc không bao gồm phạm vi bảo hiểm của KAA và các cơ quan
kế nhiệm của nó.
DSB còn cho rằng Hoa Ky chưa đưa ra những chứng cứ chứng minh hành
động của Hàn Quốc là ảnh ưởng đến lợi ích tích lũy của mình. Việc Hoa Ky cho
rằng Hàn Quốc làm như vậy là ảnh hưởng đến lợi ích tích lũy của mình chưa có
căn cứ rõ ràng cho sự ảnh hưởng của Hoa Ky.
Sau thời gian làm việc, Ban hội thẩm đã đưa ra báo cáo cuối cùng của mình
rằng:
+ Các thực thể tiến hành mua sắm cho dự án được đề cập không phải là các
thực thể thuộc Phụ lục I của GPA của Hàn Quốc và không nằm trong các nghĩa
vụ của Hàn Quốc theo GPA.
+ Dựa trên những câu trả lời chưa đầy đủ của Hàn Quốc đối với một số câu
hỏi của Hoa Ky trong quá trình đàm phán để Hàn Quốc gia nhập GPA, ban đầu
đã có lỗi từ phía Hoa Ky về việc cơ quan có thẩm quyền của Hàn Quốc phụ

trách dự án đang được đề cập. Tuy nhiên, dựa trên tất cả các sự kiện mà ban hội
thẩm cho rằng đã có thông báo về sai sót và Hoa Ky ít nhất nên tiến hành các
cuộc điều tra thêm về vấn đề này trước khi các cuộc đàm phán kết thúc.
+ Hoa Ky đã không chứng minh rằng các lợi ích được mong đợi một cách
hợp lý để tích lũy theo GPA, hoặc trong các cuộc đàm phán dẫn đến việc Hàn
Quốc gia nhập GPA, đã bị vô hiệu hoặc bị suy giảm bởi các biện pháp của Hàn
Quốc (cho dù có mâu thuẫn với các quy định của GPA), theo nghĩa của Điều
XXII:2 của GPA.
DSB đã thông qua Báo cáo của Ban Hội thẩm tại cuộc họp ngày 19 tháng 6
năm 2000.
3.

Đánh giá, bình luận

10


Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu án lệ: “Hàn Quốc - Các biện pháp ảnh
hưởng đến hoạt động mua sắm của chính phủ” thì em có đưa ra một số bình
luận, đánh giá như sau:
Thứ nhất, về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp. Trình tự, thủ tục giải
quyết tranh chấp được các bên tranh chấp và cơ quan giải quyết tranh chấp thực
hiện đúng theo quy định của WTO. Ở giai đoạn tham vấn thì Hoa Ky đã gửi yêu
cầu tham vấn cho Hàn Quốc và hai bên đã tiến hành tham vấn nhưng không
thống nhất được phương thức giải quyết, cho nên Hoa Ky đã yêu cầu DSB thành
lập Ban hội thẩm. Ban hội thẩm sau thời gian làm việc đã ra báo cáo cuối cùng
của mình. Báo cáo của Ban hội thẩm sau khi gửi cho các bên tranh chấp không
có bất kì kháng cáo nào của các bên cho nên đã được DSB thông qua.
Thứ hai, về phán quyết và lập luận của cơ quan giải quyết tranh chấp. Theo
quan điểm của em thì em đồng ý với phán quyết của DSB vì:

+ Theo như quy định tại phụ lục I của Hiệp định mua sắm chính phủ (GPA
2012) thì chỉ có những tổ chức thuộc sự điều hành, chỉ đạo quản lý thuộc các cơ
quan được nêu trong phụ lục thực hiện việc mua sắm mới được coi là vi phạm
Hiệp định. Theo lập luận của phía Hàn Quốc thì các thực thể tiến hành việc mua
sắm sửa chữa sân bay là KAA, KOACA và IIAC là các pháp nhân riêng biệt
không thuộc sự quản lý, điều hành của cơ quan nào của chính phủ Hàn Quốc.
Chính vì vậy việc Ban hội thẩm ra phán quyết về việc các thực thể mua sắm
không thuộc Phụ lục I của GPA của Hàn Quốc và không nằm trong nghĩa vụ của
Hàn Quốc theo GPA là hợp lý.
+ Việc ra phán quyết về việc Hoa Ky không đưa ra được những bằng chứng
chứng minh việc hành động của Hàn Quốc làm ảnh hưởng đến lợi ích tích lũy
của Hoa Ky là hợp lý. Phía Hoa Ky chỉ đưa ra lập luận rằng việc các thực thể
tiến hành mua sắm gây thiệt hại trên 6 tỷ USD chứ không hề có bất kì bằng
chứng nào chứng minh. Và chỉ khi các thực thể tiến hành mua sắm đó thuộc
chính phủ Hàn Quốc thì việc mua sắm đó mới gay ảnh hưởng đến lợi ích của
11


Hoa Ky. Trong trường hợp này, các thực thể đó không thuộc chính phủ Hàn
Quốc cho nên việc họ mua sắm sửa chữa sân bay không hề ảnh hưởng đến lợi
ích tích lũy của Hoa Ky theo Điều XXII:2 của GPA.
Thứ ba, thông qua quá trình giải quyết vụ tranh chấp của Cơ quan giải
quyết tranh chấp (DSB) thì nó đã trở thành một án lệ cho việc giải quyết các vụ
tranh chấp tương tự sau này. Thông qua án lệ cũng se là bài học kinh nghiệm
cho các quốc gia đang là thành viên của GPA và các quốc gia đang muốn tham
gia vào GPA trong đó có Việt Nam.
C.

KẾT LUẬN


Mua sắm chính phủ là một lĩnh vực đem đến rất nhiều lợi thế và thách thức
cho các thành viên khi tham gia. Với xu thế ngày càng gia tăng mua sắm chính
phủ của các quốc gia kết hợp sự hoàn thiện khuôn khổ pháp lý GPA. Rất nhiều
quốc gia trong đó có Việt Nam đang nỗ lực hoàn hiện cơ chế pháp lý của mình
để được tham gia vào vịng mua sắm cơng q́c tế.
Bên cạnh việc góp phần thức đẩy phát triển kinh tế của quốc gia cũng đem
đến những thách thức to lớn đối với chất lượng hàng hóa, hệ thống mua sắm,
cung ứng hàng hóa, dịch vụ của các nước khi tham gia vào GPA. Việc xảy ra
tranh chấp là điều tất yếu trong quá trình mua sắm chính phủ. Do vậy cần có sự
can thiệp và giải quyết một cách hợp lí để ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp
lý, tạo hành lang chung thân thiện, bảo vệ các thành viên khi tham gia vào hoạt
động này.
Án lệ “Hàn Quốc – Các biện pháp ảnh hưởng đến hoạt động mua sắm của
chính phủ” là một trong những tiền lệ phù hợp cho việc giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong lĩnh vực này, cũng như là cơ sở bài học để các quốc gia
chuẩn bị gia nhập GPA có thể tham khảo, nghiên cứu và đưa ra quyết định,
những sự chuẩn bị đầy đủ nhất để phát triển nền kinh tế quốc gia và hội nhập và
xu thế quốc tế.
12



×