0
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1
3
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SỰ TÁC ĐỘNG
CỦA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ TRONG QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI
Ở
VIỆT
NAM
HIỆN
NAY
7
1.1. Một số vấn đề chung về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
trong
quá
trình
hội
nhập
kinh
tế
quốc
tế
7
1.2. Cơ sở lý luận về sự tác động của xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ trong quá trình HNKTQT đến xây dựng quân đội
ở
Việt
Nam
hiện
nay
21
1.3. Thực trạng tác động của xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến xây dựng quân
đội
ở
Việt
Nam
trong
những
năm
qua
38
CHƯƠNG 2
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY TÁC
ĐỘNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA XÂY
DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI Ở
VIỆT
NAM
HIỆN
NAY
61
2.1
61
Những
quan
điểm
cơ
bản
1
2.2
Những
giải
pháp
chủ
yếu
73
KẾT
LUẬN
94
DANH
MỤC
TÀI
LIỆU
THAM
KHẢO
96
PHỤ
100
LỤC
3
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, khi tồn cầu hố và hội nhập kinh tế
quốc tế đang diễn ra như một xu thế khách quan, ngày càng có nhiều nước
tham gia, mà quá trình đó lại bị các nước tư bản phát triển và các tập đoàn
kinh tế siêu quốc gia chi phối, thì vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
với những nội dung mới càng được đặt ra nghiêm túc và trở thành bức xúc.
Các nước khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đều muốn
khẳng định chủ quyền kinh tế của mình. Ở nước ta vấn đề này càng được
nhấn mạnh và trở thành chủ trương lớn của Đảng, là nhiệm vụ quan trọng của
sự nghiệp cách mạng nước ta.
Độc lập tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản để phát triển đất
nước trong điều kiện hiện nay, bảo đảm sự bền vững của độc lập tự chủ về
chính trị, khẳng định sự quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con
đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Độc lập tự chủ về kinh tế là nhằm kết hợp nội lực với ngoại lực, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đẩy nhanh sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Q trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh
vực quốc phịng - an ninh và xây dựng quân đội. Thực tiễn xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ ở Việt Nam trong những năm qua đang là tâm điểm nghiên
cứu của nhiều tổ chức và các nhà khoa học, nhận thức về vấn đề này như thế
nào? Tác động của q trình đó như thế nào đến xây dựng Quân đội nhân dân
Việt Nam, lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa cũng là vấn đề cần được làm sáng tỏ. Từ đó cho thấy cần phải có sự
nghiên cứu, luận giải một cách tồn diện, có hệ thống sự tác động của xây
4
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến
xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là nhiệm vụ cần thiết, vừa có ý
nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn, nhằm luận chứng cho đường lối quân sự
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề “Tác động của
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
đến xây dựng quân đội ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đã có nhiều cơng trình khoa học và một số bài báo nghiêm cứu, đề cập
tới đề tài xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế như:
hội thảo khoa học “Doanh nghiệp Việt Nam với công cuộc xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế” do Tạp chí Cộng sản cùng với
Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam tổ chức; “Việc xây dựng một
nền kinh tế độc lập tự chủ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế”, tiến sĩ Võ Đại Lược, viện kinh tế thế giới, Tạp chí Những vấn đề kinh tế
thế giới, số4 (66), 8. 2000 ; “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ”, Vũ Hiền,
Tạp chí Cộng sản, số 18 năm 2000; “Vì sao phải xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ”, Nguyễn Thuý, Tạp chí Cộng sản, số 22 năm 2001; “Xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, Nguyễn Tấn
Dũng, Tạp chí Cộng sản, số 33 năm 2002; “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ trong bối cảnh tồn cầu hố”, Phạm Quốc Trụ, Tạp chí Cộng sản, số 28
năm 2003; “Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp”, Vũ Quang
Lộc, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, tháng 4. 2001; “Quân đội
tham gia xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ”, Trương Tuấn Biểu, Tạp chí
Giáo dục lý luận chính trị quân sự, tháng 4. 2002; “Xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ trong tình hình mới”, Nguyễn Đức Độ, Tạp chí Giáo dục lý
luận chính trị quân sự, tháng 4. 2002; “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
5
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Nguyễn Phú Trọng, Tạp chí Cộng
sản, tháng 8. 2001.
Các bài viết kể trên đều tập trung bàn về những vấn đề lý luận như: khái
niệm, nội dung, đặc trưng, mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
và hội nhập kinh tế quốc tế, quan điểm và giải pháp xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu,
đề cập đầy đủ và có hệ thống vấn đề “Tác động của xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến xây dựng quân đội ở Việt
Nam hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn sự tác động của nền kinh tế độc
lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến xây dựng quân đội ở Việt
Nam hiện nay, từ đó đề xuất những quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy thành tựu, khắc phục hạn chế của xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến xây dựng quân đội ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Tiếp tục làm sáng tỏ một số vấn đề có liên quan đến xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế .
- Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn sự tác động của xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến xây dựng quân đội ở
Việt Nam.
- Đề xuất những quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
thành tựu, khắc phục hạn chế của xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế đến xây dựng quân đội ở Việt Nam .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự tác động của xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến xây dựng quân đội ở
Việt Nam.
Luận văn tập trung phân tích, khảo sát làm rõ sự tác động của xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
đến xây dựng quân đội ở Việt Nam từ những năm đầu thập niên 90 của thế
kỷ XX đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối quân sự, về
bản chất, vai trò, chức năng của Quân đội nhân dân Việt Nam; các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng về các vấn
đề có liên quan đến đề tài.
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học, các phương pháp tổng kết, thống
kê, lôgic-lịch sử, điều tra xã hội học, phân tích, tổng hợp trên cơ sở nghiên
cứu thực tế của bản thân và các nguồn tư liệu có liên quan, đồng thời có kế
thừa kết quả nghiên cứu và kết luận của các cơng trình khoa học đã được công
bố.
6. Ý nghĩa của luận văn
Với kết quả nghiên cứu đã đạt được, luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm
sự tác động của xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế đến xây dựng quân đội ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy ở các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
7
Gồm mở đầu, 2 chương (5tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA
XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề chung về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Quan niệm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
- Ở nước ta, do cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau nên có
nhiều quan niệm khác nhau về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế:
Quan niệm thứ nhất, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo cách
hiểu thông thường và truyền thống là một nền kinh tế phát triển toàn diện, có
khả năng tự thoả mãn những nhu cầu mọi mặt của đời sống xã hội; của quốc
phòng - an ninh và q trình tái sản xuất; khơng bị lệ thuộc vào bên ngoài cả
khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm, để có thể vận hành một cách bình
thường và bảo đảm được nền tảng cho việc duy trì an ninh quốc gia [32,
tr.19].
Một nền kinh tế như vậy nhìn chung chỉ tồn tại trong điều kiện các
quốc gia có đầy đủ nguồn tài nguyên thiên nhiên, điều kiện địa lý, khí hậu lý
tưởng, qui mơ thị trường quốc gia đủ lớn, có trình độ phát triển cao về khoa
học - cơng nghệ và khơng cần phải có quan hệ kinh tế với nhau mà vẫn có thể
tồn tại và phát triển được.
Quan niệm thứ hai, cho rằng, trong điều kiện tồn cầu hố, mở cửa hội
nhập mà lại đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là thiếu nhạy bén,
9
khơng thức thời, thậm chí là bảo thủ, tư duy kiểu cũ. Thế giới bây giờ là một
thị trường thống nhất, cần thứ gì thì mua, thiếu tiền thì đi vay, sao lại chủ
trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Tham gia quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, điều quan trọng nhất là làm gì, làm thế nào để có được hiệu quả
kinh tế cao, thu được nhiều lợi nhuận, có tích luỹ cho nền kinh tế, khơng việc
gì phải rụt rè, cần phải tích cực chủ động trong thực hiện tự do hố thương
mại, có cơ chế thơng thống nhất để thu hút đầu tư và tiếp nhận càng được
nhiều vốn, kỹ thuật bên ngoài càng tốt.
Quan niệm trên, mới nghe qua thì thấy có vẻ có lý, nhưng nếu suy
ngẫm kỹ thì thấy khơng có cơ sở khoa học, vì nó q giản đơn và phiến diện.
Chúng ta biết rằng, độc lập tự chủ là xu thế phát triển của thế giới. Trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế, liên doanh, liên kết rất đa dạng và phức tạp như
hiện nay lại càng phải giữ vững độc lập tự chủ.
Quan niệm thứ ba, đồng nhất nền kinh tế độc lập tự chủ với nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho rằng bản thân nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã bao hàm đầy đủ tố chất của nền
kinh tế độc lập tự chủ, vậy nên khơng cần phải nói đến kinh tế độc lập tự
chủ, coi đó là nhận thức, là định hướng, là nguyên tắc chỉ đạo khi xây dựng
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cịn trong thực tế khơng
nên đặt ra những chính sách qui định riêng về nó [15, tr.34].
Những quan niệm trên tuy có khía cạnh đúng, nhưng lại nhấn mạnh
một chiều, gây ra cách hiểu hoặc thiếu đầy đủ hoặc sai lệch kinh tế độc lập tự
chủ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
đặc biệt quan tâm tới vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Quan điểm về
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã
được đề cập trong nhiều nghị quyết của Đảng, nhất là từ Đại hội VI đến nay.
10
Đại hội VI của Đảng (12. 1986) được tiến hành khi đổi mới đã trở
thành yêu cầu bức xúc và là vấn đề sống còn của cách mạng nước ta. Với tinh
thần trách nhiệm cao trước toàn Đảng, toàn dân, Đại hội đã thẳng thắn nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá rõ những sai lầm khuyết điểm. Đại hội VI đã có
bước đột phá lớn, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, tư duy mới về kinh tế
của Đại hội là thừa nhận sự tồn tại khách quan của qui luật sản xuất hàng hoá
và của thị trường. Những quan điểm quan trọng của Đại hội VI là bước mở
đường để những tư duy mới về kinh tế được hình thành và hồn thiện, trong
đó có nội dung về kinh tế độc lập tự chủ. Đó chính là những luận điểm:
+ Để có nền kinh tế thực sự vững mạnh và không ngừng phát triển phải
xây dựng được chương trình hành động cụ thể, đặc biệt phải bảo đảm cho đủ
lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng cho xã hội, bảo đảm lợi ích cho
người lao động, cho tập thể và cho Nhà nước.
+ Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế độc lập tự chủ nhưng thơng
thống ở trong nước và mở cửa ra bên ngồi.
+ Nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng là nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước. Thị trường xã hội chủ nghĩa là một thể thống nhất
trong cả nước và từng bước hoà nhập vào thị trường thế giới. Bởi vậy kiên
quyết đoạn tuyệt với sự chia cắt, khép kín về kinh tế.
Đại hội VII của Đảng (6. 1991) đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 1991 - 2000. Cương lĩnh nêu rõ những đặc trưng của xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, những phương hướng cơ bản để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ Đại hội VI đến Đại hội VII, những
quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
đã được hình thành trên những mặt chủ yếu nhất. Cơn chấn động chính trị to
lớn trên thế giới do sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu
11
đã tác động sâu sắc đến tình hình nước ta. Chúng ta phải tăng cường sức
mạnh kinh tế trên cơ sở nội lực, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác, phá
thế bị bao vây, cấm vận, tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế.
Kinh nghiệm rút ra từ những năm tháng đó thực sự là những bài học lớn
đối với việc hình thành và từng bước hoàn thiện quan điểm xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ của Đảng ta.
Đại hội VIII của Đảng (6. 1996) đã nêu rõ những quan điểm chỉ đạo: “Giữ
vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa
dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đơi
với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngồi. Xây dựng nền kinh tế mở, hội
nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế
nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Lấy hiệu
quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển,
lựa chọn phương án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối
đa năng lực tổ chức hiện có. Tạo ra những mũi nhọn trong từng bước phát
triển. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực và các địa bàn trọng
điểm, đồng thời quan tâm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mọi vùng trong
nước, kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh” [8, tr.86]. Như vậy, Đại hội
VIII đã có những quan điểm có tính đồng bộ hơn về xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ. Đó là:
+ Đã nêu rõ quan điểm giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng
hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Đây là kết
quả tư duy mới trên cơ sở nắm bắt xu hướng quốc tế hố kinh tế, phân cơng
hợp tác quốc tế.
+ Xác định rõ tính chất của nền kinh tế nước ta là nền kinh tế mở, hội
nhập với khu vực và thế giới. Như vậy, từ chỗ định hình kinh tế nước ta là
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
12
nghĩa ở Đại hội VI, VII, Đại hội VIII đã nêu bật việc than gia vào xu thế quốc
tế hoá, tồn cầu hố kinh tế, cụ thể là hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
+ Xác định chiến lược phát triển hội nhập kinh tế là kết hợp giữa
việc hướng mạnh về xuất khẩu với việc thay thế nhập khẩu, bảo đảm đáp
ứng nhu cầu cho tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng sinh hoạt trong nước.
+ Bước đầu mơ hình hố nền kinh tế độc lập tự chủ là: cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, bảo đảm cho giữ vững ổn định chính trị,
củng cố quốc phòng - an ninh.
+ Đã nêu bật những mục tiêu và bước đi cho 5 năm trước mắt cũng
như lâu dài. Những mục tiêu định tính và định lượng cũng như những bước
đi và giải pháp được đề ra vừa là những lời giải cho bài toán phát triển kinh
tế, vừa là luận cứ cho việc hoàn thiện quan điểm về xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ.
Đại hội IX của Đảng đã khẳng định đường lối phát triển kinh tế là:
“Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng
sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên
ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả
và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội
với tăng cường an ninh - quốc phòng” [9, tr.46].
Quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở Đại hội
IX đã có sự bổ sung hồn chỉnh hơn, điều đó được biểu hiện trên một số mặt:
13
Thứ nhất, Đảng ta khẳng định tính tất yếu phải xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, điều này xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của sự nghiệp cách
mạng nước ta, phù hợp với xu thế vận động của nền kinh tế.
Thứ hai, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế không phải là một chủ trương nhất thời, một phản ứng tự vệ,
giải pháp đối phó tình thế, mà trên cơ sở nhận biết tình hình và qui luật khách
quan, Đảng ta vận dụng qui luật một cách chủ động.
Thứ ba, độc lập tự chủ về kinh tế Đảng ta luôn đặt trong mối quan hệ
biện chứng với độc lập tự chủ về chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa phát triển kinh tế với
phát triển văn hố, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội.
Như vậy, nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế được Đảng đề ra không chỉ xuất phát từ quan điểm,
đường lối chính trị độc lập tự chủ, mà cịn xuất phát từ tình hình thực tiễn, nhằm
bảo đảm cho sự phát triển bền vững, có hiệu quả cho nền kinh tế cũng như cho
việc chủ động mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Quan điểm của Đảng về xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một
bước phát triển về lý luận, vừa là sự kế tục những luận cứ của các Đại hội trước.
Tiếp cận vấn đề nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị Mác-Lênin,
quan điểm đường lối chính sách của Đảng, đồng thời có kế thừa, phát triển
các quan niệm nêu trên, tác giả luận văn xin được nêu quan niệm về xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như sau:
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế ở nước ta là hoạt động tích cực, chủ động của Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta nhằm làm cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững,
hiệu quả theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có thực lực kinh tế đủ mạnh,
sức cạnh tranh cao, cơ cấu kinh tế hợp lý có khả năng huy động được
14
nguồn vốn trong, ngoài nước và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế thành công.
1.1.2. Nội dung, đặc trưng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay
* Nội dung xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Chúng ta biết rằng độc lập tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản
để giữ vững độc lập tự chủ về chính trị và tăng cường độc lập tự chủ của quốc
gia. Khơng thể có độc lập tự chủ về chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Độc
lập tự chủ về kinh tế được đặt trong mối quan hệ biện chứng với các mặt khác
sẽ tạo ra độc lập tự chủ và sức mạnh tổng hợp của một quốc gia. Vậy nội
dung xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế ở Việt Nam hiện nay là:
Thứ nhất, độc lập tự chủ về kinh tế, trước hết phải nói đến độc lập tự
chủ về đường lối, chính sách phát triển, một nền kinh tế phát triển bền
vững, không bị lệ thuộc vào nước khác, hoặc vào tổ chức quốc tế nào đó về
đường lối, chính sách, định hướng phát triển, vào những điều kiện kinh tế,
chính trị mà họ áp đặt cho ta, gây tổn hại đến chủ quyền quốc gia và lợi ích
cơ bản của dân tộc.
Thứ hai, độc lập tự chủ về kinh tế luôn đặt trong mối quan hệ biện
chứng với việc chủ động tham gia vào quá trình giao lưu, hợp tác và cạnh
tranh quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực và lợi thế so sánh của quốc
gia. Chúng ta hoàn toàn tự chủ quyết định đường lối, chính sách của ta trong q
trình hội nhập, chủ động xây dựng lộ trình hợp lý trong khn khổ qui định
chung, chủ động điều chỉnh pháp luật, chính sách cho phù hợp, tổ chức sản xuất
15
và điều hành kinh tế trong nước nhằm không ngừng nâng cao khả năng cạnh
tranh không chỉ trong thị trường nội địa mà cả trên thị trường quốc tế.
Thứ ba, độc lập tự chủ về kinh tế, là sự bình ổn, có khả năng chủ động
và thích ứng cao, có thể duy trì sự ổn định kinh tế - xã hội và giữ vững định
hướng phát triển ngay cả trong tình hình chấn động của thị trường, của khủng
hoảng kinh tế, tài chính ở khu vực và trên thế giới, trong tình thế bị bao vây,
cơ lập và chống phá của các thế lực thù địch. Bảo đảm độc lập tự chủ về kinh
tế chính là bảo đảm vững chắc định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc văn
hóa dân tộc trong hội nhập, mở cửa, đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước.
* Đặc trưng của nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế mà chúng ta đang xây dựng
Thứ nhất, có năng lực cạnh tranh cao. Sức cạnh tranh này phải được thể
hiện trên các mặt: thể chế chính trị, kinh tế, xã hội phải đủ mạnh, đủ tạo ra
một môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, chi phí thấp, rủi ro thấp, khả
năng sinh lợi lớn. Cơ cấu kinh tế gồm những ngành có khả năng cạnh tranh
cao, có khả năng tự điều chỉnh, tự rút lui khỏi những ngành kém khả năng
cạnh tranh. Cơ cấu doanh nghiệp cũng phải bao gồm những doanh nghiệp
có sức mạnh cơng nghệ và trí lực, đủ sức cạnh tranh trên thương trường
trong nước và quốc tế. Nguồn nhân lực trong nước phải được đào tạo tốt và
sử dụng có hiệu quả.
Biểu hiện tập trung sức cạnh tranh của nền kinh tế là ở chất lượng và
giá thành của sản phẩm và dịch vụ của đất nước. Nếu sản phẩm và dịch vụ
của một đất nước có giá thành cao, chất lượng thấp thì sẽ khơng tiêu thụ được
ở cả thị trường trong nước và quốc tế. Kết cục sẽ dẫn đến nền kinh tế của
quốc gia đó sẽ lâm vào suy thoái, khủng hoảng, tụt hậu kéo dài. Trong điều
kiện đó khó có thể nói tới độc lập và tự chủ. Ngược lại một nền kinh tế làm ra
16
các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao, giá cả thấp, có thể chiếm lĩnh cả thị
trường trong nước và quốc tế, tạo ra thu nhập ngoại tệ, dự trữ ngoại tệ lớn, có
thể nhập khẩu nhiều loại hàng hóa và dịch vụ đáp ứng các nhu cầu trong
nước. Một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao như vậy trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay là một nền kinh tế có tính độc lập và tự chủ cao.
Thứ hai, có khoa học và cơng nghệ phát triển ở trình độ cao, có cơ
cấu kinh tế hợp lý phù hợp với khả năng và điều kiện về địa lý, chính trị,
văn hóa và xã hội của đất nước. Tuy nhiên, nền kinh tế này cần có khả
năng tự bảo đảm được những vấn đề trọng yếu như an ninh lương thực, an
ninh năng lượng và có một số ngành cơng nghiệp then chốt phát triển như
luyện kim, cơ khí chế tạo để có thể nhanh chóng chuyển sang phục vụ
quốc phịng khi cần thiết.
Thứ ba, duy trì được tương quan giữa đầu tư nước ngồi với đầu tư
trong nước một cách có thể kiểm sốt được; đa dạng hóa cơ cấu đầu tư nước
ngồi (ngành, lĩnh vực và đối tác), tránh để các nhà đầu tư nước ngồi nắm
được vai trị độc quyền hoặc kiểm soát những ngành then chốt của nền kinh
tế. Hạn chế dịng vốn đầu tư nước ngồi ngắn hạn q lớn hoặc quá tập trung
vào một vài lĩnh vực quan trọng.
Thứ tư, có khả năng ứng phó hiệu quả cao với những chấn động chính
trị, kinh tế, xã hội bên ngồi. Những chấn động bên ngồi có thể là: một
cuộc chiến tranh từ bên ngoài tới, một cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực
hay thế giới… Chiến lược tốt nhất của một quốc gia là cố tránh tham gia
những cuộc chiến tranh ở bên ngoài và tránh để xảy ra những xung đột và
chiến tranh ở trong nước. Nếu một khi chiến tranh đã bùng nổ, đã tham
chiến, thì đất nước nhất định sẽ bị tàn phá, nhất là trong điều kiện chiến
tranh hiện đại ngày nay. Song một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao, có dự
trữ ngoại tệ lớn, sẽ có sức chịu đựng cao hơn các nền kinh tế lạc hậu khác.
17
Một nền kinh tế hội nhập quốc tế cao, lợi ích quốc gia đan xen chặt chẽ với
lợi ích của nhiều quốc gia khác, nhiều trung tâm kinh tế, sẽ có nhiều khả
năng kết hợp giữa sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế để bảo vệ đất
nước tốt hơn.
Một cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hay khu vực nổ ra đương nhiên
sẽ tác động đến một nền kinh tế tham gia với các mức độ khác nhau. Một
nền kinh tế ít tham gia hội nhập quốc tế có thể sẽ chịu tác động ít hơn.
Nhưng khả năng ứng phó với cuộc khủng hoảng lại phụ thuộc lớn hơn vào
sức cạnh tranh của nền kinh tế và mức độ gắn kết lợi ích quốc gia và quốc tế.
1.1.3. Những ảnh hưởng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở Việt Nam hiện nay
Mục tiêu lâu dài của nước ta phải trở thành nước xã hội chủ nghĩa có
nền kinh tế phát triển, cịn mục tiêu trước mắt là đến năm 2020 chuyển nước
ta từ nước nông nghiệp cơ bản trở thành một nước cơng nghiệp có nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục tiêu đó, chúng
ta phải tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, phát triển đồng bộ
thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ngày nay, việc
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ khơng phải trong điều kiện đóng cửa,
khép kín. Bởi lẽ, tồn cầu hóa kinh tế đang trở thành xu hướng khách quan,
nền kinh tế thế giới đang trở thành nền kinh tế thị trường thế giới thống nhất,
mà nền kinh tế của mỗi quốc gia, dân tộc chỉ là một bộ phận của nền kinh tế
đó. Nền kinh tế của mỗi quốc gia dân tộc không thể phát triển được, nếu tách
khỏi tiến trình phát triển chung của nền kinh tế thị trường thế giới, đòi hỏi
mỗi nước phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong q trình tồn cầu hóa,
khu vực hóa. Chính vì vậy, có thể khẳng định: phát huy nội lực, xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, mở rộng hợp tác quốc tế trở thành yêu cầu cơ bản của
18
công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng đã khẳng định: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm
độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ
vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”
[9, tr.43].
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, Đảng ta
khẳng định:
“Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với việc chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế.
Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu
quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng
kinh tế độc lập tự chủ.
Xây dựng kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về
đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ
sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và
sức cạnh tranh; có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm nền kinh tế đủ sức đứng vững và
ứng phó được với các tình huống phức tạp, tạo điều kiện thực hiện có hiệu
quả các cam kết hội nhập quốc tế.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển
trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ
quyền quốc gia và bản sắc văn hóa dân tộc; bình đẳng cùng có lợi, vừa hợp
tác vừa đấu tranh; đa phương hóa đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại;
đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.
19
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế,
nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và
giảm dần hàng rào bảo hộ. Nâng cao hiệu quả hợp tác với bên ngồi; tăng
cường vai trị và ảnh hưởng của nước ta đối với kinh tế khu vực và thế
giới” [9, tr.166 -167].
Hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hai mục tiêu của cùng một q trình
phát triển. Hai mục tiêu này khơng tách rời nhau mà gắn chặt với nhau, hội
nhập là phương tiện để đạt tới nền kinh tế độc lập tự chủ hiệu quả hơn và
ngược lại, độc lập tự chủ về kinh tế là điều kiện để tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế tốt hơn. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong giai đoạn hiện nay
ở nước ta luôn chịu những tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự
tác động này mang tính hai mặt: mặt thuận lợi và những thách thức đặt ra.
Thứ nhất, những thuận lợi của hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ:
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực để nâng cao hiệu quả và năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp. Quá trình này buộc chúng ta
phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng của các nước và giữa các
doanh nghiệp cả trong nước lẫn ngoài nước. Sự cạnh tranh như vậy là động
lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy các doanh nghiệp luôn luôn
đổi mới và hồn thiện về mọi mặt để tăng tính hiệu quả và năng lực cạnh
tranh của toàn bộ nền kinh tế và của các doanh nghiệp.
Tạo cơ hội để chúng ta tiếp cận, huy động các nguồn vốn, FDI, các
công nghệ mới, chất xám và kỹ năng cao cấp từ bên ngoài để phát triển các
ngành, lĩnh vực kinh tế cần thiết cho việc duy trì kinh tế độc lập tự chủ, nâng
cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp.
20
Tạo điều kiện để mở rộng, đa dạng hóa thị trường quốc tế và đối tác
quốc tế, tránh bị lệ thuộc tập trung vào một số thị trường và đối tác nước
ngoài, giữ độ an toàn cao hơn cho nền kinh tế; tạo cơ hội để tăng cường xuất
khẩu và tích lũy, nâng nguồn lực dự trữ quốc gia, tạo khả năng ứng phó cao
hơn đối với các biến cố về tài chính, về các nguồn ngun liệu có thể tạo ra,
hạn chế việc phải xin viện trợ từ bên ngồi. Q trình hội nhập kinh tế quốc tế
cũng tạo động lực thúc đẩy chúng ta phải cải cách hệ thống tài chính - ngân
hàng, lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, tạo điều kiện để phát triển kinh tế
và từ đó triệt tiêu dần nguy cơ bị lệ thuộc từ bên ngồi về tài chính, về các
nguồn ngun liệu cho phát triển kinh tế đất nước.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để
nắm bắt thông tin, tri thức mới một cách nhanh chóng, kịp thời và tối đa, từ
đó giúp cho việc phân tích, đánh giá tình hình và hoạch định chính sách kinh
tế phù hợp, nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả của bộ máy nhà nước. Bên
cạnh đó, q trình hội nhập kinh tế quốc tế cịn tạo điều kiện để đào tạo, nâng
cao trình độ của đội ngũ các nhà khoa học, các nhà quản lý doanh nghiệp và
tay nghề chuyên môn của đội ngũ lao động dần dần theo kịp với trình độ
chung của thế giới.
Tạo dựng được các mối quan hệ quốc tế đan xen ở nhiều cấp độ, tránh
bị phân biệt đối xử trong quan hệ kinh tế quốc tế, nâng cao vị thế và tiếng nói
của nước ta trong quan hệ với các nước và tổ chức quốc tế, từ đó có điều kiện
thuận lợi để bảo vệ lợi ích và độc lập tự chủ của nước ta.
Thứ hai, những ảnh hưởng bất lợi của hội nhập kinh tế quốc tế đối với
quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở nước ta:
Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc
gia trên nhiều phương diện, đặc biệt là về kinh tế, từ đó làm suy giảm hay hạn
chế sự độc lập tự chủ về kinh tế của các nước theo quan niệm truyền thống.
21
Thúc đẩy phân công lao động quốc tế theo hướng mỗi nước tập trung
vào các ngành, lĩnh vực họ có ưu thế và hiệu quả kinh tế cao, do vậy, ít chú ý
hoặc bỏ rơi những ngành, lĩnh vực có hiệu quả kinh tế thấp. Đồng thời làm
gia tăng sự lưu chuyển của các nguồn vốn mà chính phủ khơng dễ dàng kiểm
sốt được. Nó cũng làm cho dịng FDI đổ vào các nước ngày càng một nhiều
hơn. Ngày nay, FDI chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia cung cấp; chúng
có thế lực hùng mạnh, cắm chân rết trên khắp thế giới. Có khơng ít bài học
lịch sử về sự can thiệp làm khuynh đảo kinh tế và chính trị của nhiều nước bởi
các cơng ty xun quốc gia. Hầu hết các chế định tài chính thế giới thường
hạn chế vai trị kinh tế nhà nước, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển,
nhằm làm cho kinh tế tư nhân tư bản giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế, dẫn
đến thay đổi bản chất chế độ ta. Nếu sức cạnh tranh của nền kinh tế, của các
doanh nghiệp trong nước khơng được cải thiện nhanh chóng, khơng đáp ứng
được lộ trình hội nhập đã cam kết thì Việt Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ
hàng hóa dư thừa của các nước phát triển, các cơng ty xuyên quốc gia sẽ
thống trị thị trường dịch vụ nước ta.
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, lợi dụng mở cửa hội nhập, tăng cường
giao lưu giữa các dân tộc và tính đồng nhất trên nhiều lĩnh vực của đời sống
xã hội, các nước tư bản phát triển, đặc biệt là Mỹ ln tìm cách áp đặt các giá
trị văn hóa, tư tưởng, đạo đức của họ lên các nước khác. Họ tìm cách đề cao
lối sống thực dụng của phương Tây, đề cao cái gọi là dân chủ, nhân quyền, hạ
thấp giá trị văn hóa truyền thống của nước ta, thơng qua các biện pháp về văn
hóa để đánh vào lòng tin của cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ đối với vai
trò lãnh đạo của Đảng và chủ nghĩa xã hội. Cùng với sự khuyến khích và tạo
điều kiện cho kinh tế tư nhân, tư bản phát triển, ở nước ta đã và đang xuất
hiện tầng lớp những người giàu có, thậm chí rất giàu, đồng thời xuất hiện tầng
22
lớp những người rất nghèo, do thất nghiệp, khơng có vốn, đất đai, kinh
nghiệm sản xuất… Đó chính là mần mống để gây bất ổn về xã hội.
Đối với quốc phòng - an ninh, hội nhập là phải mở cửa từ thị trường
đến luật lệ, đây là điều kiện tốt nhất để các thế lực thù địch xâm nhập vào
nước ta ta, gây sức ép, đòi tự do đi trên các vùng chiến lược quân sự của ta,
đòi tham gia vào các dự án liên quan mật thiết đến nhiệm vụ quốc phịng - an
ninh và tìm cách đầu tư đứng chân trên các địa bàn chiến lược quan trọng,
thông qua các dự án phát triển (ODA) và các tổ chức phi chính phủ (NGO) để
thâm nhập sâu vào các vùng căn cứ cách mạng của ta để truyền đạo trái pháp
luật, nắm dân và tuyên truyền chống phá Nhà nước ta. Bằng chiến lược “diễn
biến hịa bình”, các thế lực thù địch đã và đang tiến hành nhiều thủ đoạn tinh
vi, xảo quyệt, trắng trợn như: thông qua con đường ngoại giao, du lịch, hợp
tác quốc tế, thương mại, đầu tư… để thâm nhập, mua chuộc, can thiệp sâu vào
công việc nội bộ của nước ta, nhằm thúc đẩy nhanh q trình “tự diễn biến”
trong lịng xã hội ta, làm biến chất chế độ ta. Thông qua các tổ chức kinh tế tài chính và các định chế tài chính thế giới để gây sức ép với ta về kinh tế,
chính trị, quốc phịng - an ninh. Ngồi ra, chúng sử dụng các chiêu bài, dân
chủ, nhân quyền, dân tộc và tơn giáo để kích động và chia rẽ, khoét sâu mâu
thuẫn nội bộ ta, nhen nhóm lực lượng phản động bên trong, kết cấu với các
thế lực bên ngoài tạo cớ tiến hành bạo loạn lật đổ kết hợp với can thiệp vũ
trang bằng nhiều hình thức và qui mơ khi có điều kiện.
Với nhận thức như trên về chiều hướng phát triển và tác động lâu
dài của hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta cần có sự đổi mới phù hợp hơn
về tư duy kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
để xác định đúng đắn chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trung hạn và
dài hạn cũng như các chính sách kinh tế cụ thể, đưa đất nước tiến nhanh,
23
mạnh và vững chắc trên con đường cơng nghiệp hố, hiện đại hoá theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2. Cơ sở lý luận về sự tác động của xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến xây dựng quân đội ở
Việt Nam hiện nay
1.2.1. Mối quan hệ của xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và xây
dựng quân đội
Quân đội là sản phẩm của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định,
mang bản chất của giai cấp thống trị chế độ xã hội đó, là cơng cụ bạo lực của
Nhà nước, giai cấp đã tổ chức ra nó. Sự phát triển, lớn mạnh của quân đội phụ
thuộc rất lớn vào sự phát triển của nền kinh tế. Các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin cho rằng, sức mạnh quân sự của một nước nói chung, sức
mạnh quân đội của nước ấy nói riêng, xét đến cùng được quyết định bởi trình
độ phát triển kinh tế của nước đó. Ph.Ăngghen từng chỉ rõ: “Bạo lực khơng
phải đơn thuần là một hành vi của ý chí, mà đòi hỏi những tiền đề rất hiện
thực để thực hiện nó, cụ thể địi hỏi phải có những cơng cụ, trong đó cơng cụ
hồn hảo hơn sẽ thắng cơng cụ khơng hồn hảo bằng… Thắng lợi của bạo lực
dựa vào việc sản xuất vũ khí, các việc sản xuất vũ khí lại dựa vào sản xuất nói
chung, do đó lại dựa vào “lực lượng kinh tế”, vào “tình hình kinh tế”, và
những phương tiện vật chất mà bạo lực chi phối được” [1, tr.234 - 235].
C.Mác và Ph.Ăghghen còn chứng minh rằng, khơng chỉ có các cuộc
cách mạng xã hội tác động chi phối đến việc thay đổi các phương thức tiến
hành chiến tranh, mà cịn do tình trạng của nền kinh tế đất nước, của khoa học
và kỹ thuật. Khơng những thế, trình độ kỹ thuật qn sự cũng qui định chiến
thuật quân sự; những hình thức chiến thuật và phương thức tác chiến cũng
thay đổi khi cách thức chế tạo và sử dụng vũ khí thay đổi. Đây là một trong
những qui luật phản ánh tác động của sự phát triển kinh tế đối với quân sự,
24
quân đội. Lịch sử các cuộc chiến tranh cho thấy, chỉ khi nào sản xuất phát
triển thì lúc đó các phương tiện đấu tranh vũ trang mới xuất hiện. Sự xuất hiện
của các loại vũ khí mới đến lượt mình lại tạo ra điều kiện làm biến đổi cơ cấu
tổ chức, biên chế của lực lượng vũ trang, quân đội, và đương nhiên làm thay
đổi cả hình thức và phương pháp chiến đấu của qn đội. Ph.Ăngghen khẳng
định: “Khơng có gì lại phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế hơn là chính
ngay quân đội và hạm đội. Vũ trang, biên chế, tổ chức, chiến thuật, chiến lược
phụ thuộc trước hết vào trình độ sản xuất đạt được trong một thời điểm nhất
định và vào phương tiện giao thông” [1, tr.235].
Từ đó thấy rằng, quân đội phụ thuộc rất chặt chẽ vào kinh tế, chịu sự chi
phối và tác động nhiều mặt của kinh tế. Từ bản chất, trạng thái chính trị tinh
thần, biên chế tổ chức, vũ khí trang bị đến cả chiến lược, chiến thuật, nghệ
thuật tác chiến của quân đội, xét đến cùng và trước hết đều phụ thuộc vào chế
độ kinh tế và trình độ phát triển lực lượng sản xuất của mỗi quốc gia. Nói như
vậy khơng có nghĩa là qn đội chỉ phụ thuộc thụ động vào kinh tế như nhận
thức sai lệch của một số ít người. Trái lại, qn đội cịn tác động trở lại đối với
nền kinh tế theo hai hướng tích cực và tiêu cực. C.Mác cho rằng: “Nói chung
qn đội đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển kinh tế” [23, tr.246]. Cũng
cần thấy rằng, trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò quan trọng của
quân đội đối với kinh tế được biểu hiện khác nhau. Điều này xuất phát từ bản
chất, truyền thống của quân đội mỗi nước và nhiệm vụ chính trị của quân đội
trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Sự khác nhau đó được biểu hiện cụ thể
trong chức năng, nhiệm vụ của quân đội mà Nhà nước giao cho nó.
Bất kỳ một thời đại nào thì kinh tế vẫn giữ một vai trò quyết định đối
với mọi lĩnh vực, trong đó có quốc phịng và qn đội. Trong điều kiện ngày
nay nguyên lý đó vẫn giữ nguyên giá trị. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
và xây dựng quân đội mặc dù là hai lĩnh vực hoạt động khác nhau, nhưng
25
chúng không hề tách rời, biệt lập với nhau, trái lại giữa chúng có quan hệ hữu
cơ, tác động qua lại nhau. Một mặt quân đội phụ thuộc vào quá trình xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, nhưng mặt khác qn đội có vai trị to lớn
trong xây dựng, phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ.
Đối với nước ta, sự tác động của xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
đến sự nghiệp xây dựng quân đội diễn ra một cách toàn diện, trên nhiều
mặt; phương thức tác động cũng rất đa dạng, vừa trực tiếp vừa gián tiếp, có
tác động tích cực, có tác động tiêu cực đến quá trình xây dựng quân đội.
Kết quả của sự tác động đó có thể nhận biết ngay, nhưng cũng có thể bộc lộ
dần dần hoặc khó thấy.
1.2.2. Nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình
hình mới.
Sau chiến tranh lạnh, cục diện thế giới đã có nhiều thay đổi: chủ
nghĩa đế quốc khơng còn đối trọng; chủ nghĩa xã hội tuy lâm vào khó khăn,
thối trào, nhưng với sự hiện hữu của một số nước xã hội chủ nghĩa còn lại,
cùng với sự tồn tại và phát triển của phong trào công nhân thế giới, phong
trào đấu tranh vì hồ bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội vẫn là thách
thức đối với chủ nghĩa đế quốc. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản vẫn là một trong những mâu thuẫn cơ bản của thời đại hiện
nay nhưng đã có nét mới.
Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực đã có tác
động khơng nhỏ đến Việt Nam. Để “ Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã
hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc” [9, tr.117], thì một
trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải đặc biệt quan tâm xây dựng quân
đội nhân dân cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nhằm đáp ứng