Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

tiểu luận triết học làm chủ chính mình giúp ta giành chiến thắng, vì nó có nghĩa là ta làm chủ được người khác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.07 KB, 13 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN
CHỨNG, ANH (CHỊ) HÃY LẬP LUẬN QUAN ĐIỂM SAU ĐÂY VÀ RÚT
RA Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÔNG VIỆC ĐANG ĐẢM NHIỆM (GIÁM ĐỐC
PHÒNG GIAO DỊCH NGÂN HÀNG): "LÀM CHỦ CHÍNH MÌNH GIÚP
TA GIÀNH CHIẾN THẮNG, VÌ NĨ CĨ NGHĨA LÀ TA LÀM CHỦ
ĐƯỢC NGƯỜI KHÁC"

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1.
Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
2.

3.

chứng, cụ thể là mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan
để lập luận quan điểm “Làm chủ chính mình giúp ta giành


chiến thắng, vì nó có nghĩa là ta làm chủ được người khác”
Rút ra ý nghĩa đối với cơng việc đang đảm nhiệm (Giám

Đốc Phịng Giao Dịch Ngân Hàng)
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2

3

7
10
11


MỞ ĐẦU
Trong mắt những người chỉ trích, Rockefeller là một nhà tư bản tàn nhẫn
và tham lam, người đã phá vỡ sự cạnh tranh và tạo ra sự độc quyền. Cịn những
người ủng hộ Rockefeller lại xem ơng là thiên tài kinh doanh (công việc kinh
doanh của ông phát đạt ngay trong khủng hoảng kinh tế). Họ coi ông là đại diện
cho mẫu đàn ông tự lập ý tưởng, ổn định được một ngành công nghiệp bất ổn,
tạo ra công ăn việc làm, hạ giá dầu và là nhà từ thiện vĩ đại nhất lịch sử. Hiếm
khi nào trong lịch sử có một nhân vật mâu thuẫn như thế. Chúng ta có thể học
tập nhiều ngun tắc mà ơng vua dầu mỏ này đã áp dụng để xây dựng đế chế
của mình vươn đến thành cơng trong mọi hoạt động. Một trong những triết lý đó
là “Làm chủ chính mình giúp ta giành chiến thắng, vì nó có nghĩa là ta làm chủ
được người khác”.

Phương pháp luận Mác - Lênin cho chúng ta có phương pháp khách quan,
đúng đắn nhất để nhìn nhận, đánh giá các sự vật, hiện tượng trong cuộc sống.
Nắm vững phương pháp luận triết học có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi người
trên cương vị công tác khác nhau, là cơ sở để tiếp cận cơng việc, giải quyết cơng
việc hiệu quả. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề “Vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, anh (chị) hãy lập luận quan điểm sau đây và
rút ra ý nghĩa đối với công việc đang đảm nhiệm (Giám Đốc Phòng Giao Dịch
Ngân Hàng): Làm chủ chính mình giúp ta giành chiến thắng, vì nó có nghĩa
là ta làm chủ được người khác” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc.

1


NỘI DUNG
1. Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Thuật ngữ phương pháp có gốc từ tiếng Hy Lạp cổ là methodos (với
nghĩa là con đường, công cụ nhận thức) [3, tr.464].
Hiểu một cách vắn tắt, phương pháp là cách thức, thủ đoạn để thực hiện
mục đích đã đặt ra, là hoạt động được sắp xếp theo một trật tự nhất định.
Theo nghĩa chung nhất, phương pháp là hệ thống những nguyên tắc được
rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định.
Phương pháp là phạm trù gắn liền với hoạt động có ý thức của con người,
phản ánh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Phương pháp bao giờ cũng là sự thống nhất giữa khách quan và chủ quan.
Phương pháp chỉ đứng khỉ nó phù hợp với khách thể nhận thức và hoạt động
thực tiễn của con người, khỉ xuất phát từ khách thể đó.
Căn cứ vào tính phổ biến của phương pháp, người ta chia thành phương
pháp riêng, phương pháp chung và phương pháp phổ biến. Căn cứ vào lĩnh vực

hoạt động của con người, người ta chia thành phương pháp nhận thức và phương
pháp hoạt động thực tiễn. Mặc dù vậy, các phương pháp này có quan hệ chặt chẽ
với nhau.
Khác với các khoa học cụ thể, triết học Mác - Lênin đề ra phương pháp
nhận thức chung nhất, đó là phương pháp biện chứng duy vật. Phương pháp này
không thay thế phương pháp của các ngành khoa học khác mà là cơ sở lý luận
chung của các ngành khoa học và được dùng làm công cụ nhận thức trong mọi
lĩnh vực.
Phương pháp luận. Hiểu một cách vắn tắt, phương pháp luận là lý luận về
phương pháp, là khoa học về phương pháp.
Phương pháp luận giải quyết các vấn đề như: Phương pháp là gì; bản chất,
nội dung, hình thức của phương pháp là thế nào; phương pháp có bao nhiêu loại,
tiêu chí phân loại phương pháp là gì; phương pháp có vai trị như thế nào đối với
hoạt động nhận thức (nhất là nhận thức khoa học) và hoạt động thực tiễn của con
2


người, v.v..
Với nghĩa chung nhất, phương pháp luận là hệ thống quan điểm, ngun
tắc xuất phát có vai trị chỉ đạo trong việc xác định phương pháp cụ thể cũng
như xác định phạm vỉ, khả năng áp dụng chúng một cách hợp lý và có hiệu quả.
Vai trị phương pháp luận của phép biện chứng duy vật trong nhận thức
khoa học và hoạt động cải tạo xã hội.
Trong hoạt động thực tiễn, để cải biến sự vật, tạo nên sự thay đổi về chất,
đòi hỏi chúng ta phải quán triệt sâu sắc quan điểm toàn diện, đồng bộ; quan
điểm phát triển; lựa chọn những biện pháp, phương tiện phù hợp để tác động vào
đối tượng sao cho có hiệu quả nhất nhưng lại ít chi phí nhất.
Trong q trình tác động vào đối tượng, một mặt, chúng ta phải chú ý đến
sự đồng bộ, hệ thống về phương pháp, về phương tiện, về tính tồn vẹn trong sự
tác động, lựa chọn phương pháp tối ưu... Mặt khác, phải xác định đâu là trọng

tâm, trọng điểm; đâu là phương pháp có tính chất trung gian. Khơng được sử
dụng các phương pháp một cách ngang bằng nhau.
Phương pháp, phương tiện sử dụng để tác động vào đối tượng phải linh
hoạt, mềm dẻo; phải quán triệt nguyên tắc lịch sử - cụ thể. Tư duy của chúng ta
chỉ có thể là chân thực, đúng đắn khi nó theo sát sự vận động, biến đổi của hoàn
cảnh, của đối tượng nhận thức. Mỗi khi tình hình thực tế có sự thay đổi, địi hỏi
chúng ta phải lựa chọn phương pháp tác động phù hợp để có hiệu quả cao nhất.
2. Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, cụ
thể là mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan để lập luận quan điểm
“Làm chủ chính mình giúp ta giành chiến thắng, vì nó có nghĩa là ta làm
chủ được người khác”
Phương pháp luận biện chứng duy vật là một hệ thống các quan điểm,
nguyên tắc nền tảng chỉ đạo chủ thể trong việc xác định phạm vi, khả năng áp
dụng phương pháp một cách hợp lý và có hiệu quả. Do vậy, phép biện chứng
duy vật vừa là lý luận, vừa là phương pháp luận phổ biến. Vận dụng phương
pháp luận triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan
3


giúp chúng ta có cơ sở để lập luận quan điểm “Làm chủ chính mình giúp ta
giành chiến thắng, vì nó có nghĩa là ta làm chủ được người khác”.
Triết học Mác-Lênin và các trường phái triết học khác đối lập về nguyên
tắc trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, luận giải mối quan hệ
khách quan và chủ quan trong thực tiễn của con người. Việc quán triệt và vận
dụng sáng tạo quan điểm của triết học Mác-Lênin về mối quan hệ cơ bản trên
đây luôn có ý nghĩa rất quan trọng. Nó giúp cho các chủ thể, một mặt tránh được
chủ nghĩa chủ quan, mặt khác biết cách phát huy tính năng động chủ quan trong
thực tiễn.
Nói đến khách quan là nói đến tất cả những gì tồn tại độc lập, bên ngồi
và khơng lệ thuộc vào chủ thể hoạt động. Khách quan bao gồm: Những điều

kiện, khả năng và quy luật khách quan. Trong đó, quy luật khách quan ln giữ
vai trị quan trọng nhất. Triết học Mác-Lênin luôn xác định khách quan và chủ
quan căn cứ theo những chủ thể nhất định trong mối quan hệ xác định với khách
thể. Không phải mọi điều kiện, khả năng và quy luật khách quan bất kì, mà chỉ có
những điều kiện, khả năng và quy luật khách quan nào hợp thành một hoàn cảnh
hiện thực thường xuyên tác động đến các hoạt động của một chủ thể xác định mới
được coi là thuộc phạm trù khách quan đối với hoạt động của chủ thể ấy. Chính vì
thế, với những chủ thể khác nhau, quan hệ khác nhau, lĩnh vực hoạt động khác
nhau thì phạm vi, tính chất cái khách quan khơng hồn tồn như nhau. Phạm trù
khách quan luôn được đặt trong mối quan hệ với phạm trù chủ quan [2, tr.187].
Phạm trù chủ quan dùng để chỉ tất cả những gì cấu thành phẩm chất và
năng lực của một chủ thể nhất định, phản ánh vai trị của chủ thể ấy đối với
những hồn cảnh hiện thực khách quan trong hoạt động nhận thức và cải tạo
khách thể.
Chủ quan, trước hết bao gồm tất cả những gì cấu thành và phản ánh trình
độ phát triển về phẩm chất và năng lực của một chủ thể nhất định. Theo đó, phải
kể đến phẩm chất tư duy, trình độ hiểu biết, đến tình cảm, ý chí, nguyện vọng và
thể chất của chủ thể. Nói đến chủ quan là nói đến sức mạnh hiện thực bên trong
của chủ thể. Đến lượt nó, sức mạnh ấy lại ln được biểu hiện ra ở năng lực tổ
4


chức hoạt động (nhận thức và thực tiễn) của chủ thể mà tiêu thức cơ bản, quyết
định để đánh giá năng lực ấy là sự phù hợp giữa hoạt động của chủ thể với điều
kiện, khả năng và quy luật khách quan.
Quan điểm “Làm chủ chính mình giúp ta giành chiến thắng, vì nó có
nghĩa là ta làm chủ được người khác” là nói đến tính năng động chủ quan của
con người. Nói đến vai trị của nhân tố chủ quan là nói đến vai trị của con người
trong hoạt động (nhận thức và thực tiễn) để cải biến và thống trị thế giới của họ.
Con người, do bản chất xã hội của họ quy định, nên ln có nhu cầu và khả năng

tổ chức các hoạt động khám phá thế giới khách quan. Trên cơ sở đó, con người
nâng cao tri thức, phát triển ý chí, tình cảm của mình theo hướng ngày càng phù
hợp hơn với điều kiện, khả năng và quy luật khách quan của hiện thực. Cũng
nhờ đó mà đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ cũng như chủ trương, biện pháp mà
con người vạch ra ngày càng đúng đắn hơn, ít mang tính chất chủ quan duy ý chí
hơn. Nói cách khác, đó cũng chính là quá trình nhân tố chủ quan của chủ thể
ngày càng được khách quan hóa. Đồng thời, chính điều đó lại góp phần nâng cao
quyền lực của con người trong việc làm biến đổi thế giới khách quan theo ý chí,
nguyện vọng và nhu cầu của họ. Điều đó cũng có nghĩa con người ngày càng trở
thành chủ thể thực sự của thế giới khách quan, hay thế giới khách quan ngày
càng bị chủ quan hóa bởi hoạt động cải biến của con người. Do vậy những yếu
tố đó giúp chúng ta ln giành chiến thắng.
Vai trị đặc biệt trên đây của nhân tố chủ quan được thể hiện tập trung ở
phương thức nó biến các quy luật, các điều kiện và các khả năng khách quan
vốn tồn tại và vận động dưới dạng các “xu hướng có thể” thành hiện thực theo
hướng thỏa mãn tốt nhất nhu cầu, lợi ích của chủ thể. Thông thường, trong tự
nhiên, các “xu hướng có thể” tự phát biến thành hiện thực khi đủ điều kiện cần
thiết, nhưng trong xã hội q trình đó lại phụ thuộc một cách quyết định vào vai
trò của nhân tố chủ quan. Đó chính là chúng ta có thể làm chủ người khác.
Mặc dù mọi hoạt động của con người đều phải dựa vào những điều kiện
khách quan nhất định, nhưng con người không thụ động chờ đợi sự chín muồi
của điều kiện khách quan, mà trái lại, có thể dựa vào năng lực chủ quan của
5


mình để phát hiện các điều kiện khách quan và dựa vào các điều kiện đó để tổ
chức, xúc tiến tạo ra những điều kiện khách quan khác cần thiết cho những
nhiệm vụ cụ thể của mình. Bằng cách đó, con người có thể thúc đẩy nhanh hơn
tiến trình biến khả năng thành hiện thực.
Tương tự, trong một phạm vi, một sự vật hiện tượng cụ thể, tiến trình

khách quan có thể có nhiều con đường, nhiều khả năng phát triển. Ở đây, vai trị
của con người có thể dựa vào năng lực vốn có của mình để lựa chọn, tác động
sao cho chỉ một con đường, một khả năng khách quan nào đó phù hợp nhất với
tiến trình lịch sử cụ thể và nhu cầu của mình. Bằng cách đó, như thực tế lịch sử
cho thấy, con người có thể đẩy nhanh, rút ngắn tiến trình phát triển của sự vật
mà vẫn bảo đảm tính lịch sử tự nhiên của nó. Cuối cùng, vai trị to lớn của nhân
tố chủ quan cịn thể hiện ở chỗ, mặc dù khơng xóa bỏ hoặc sáng tạo ra bất cứ
quy luật khách quan nào, nhưng bằng năng lực chủ quan của mình, con người có
thể điều chỉnh hình thức tác động của quy luật khách quan và kết hợp một cách
khéo léo sự tác động tổng hợp của nhiều quy luật theo hướng phục vụ tốt nhất
cho mục đích của mình. Sở dĩ như vậy là vì tính tất yếu về sự tác động của quy
luật khách quan không mâu thuẫn với tính phong phú về hình thức và trật tự tác
động của nó trong những điều kiện cụ thể khác nhau; mà việc làm biến đổi
những điều kiện này lại nằm trong khả năng thực tế của con người.
Từ sự phân tích trên có thể thấy làm chủ chính mình giúp ta giành chiến
thắng, vì nó có nghĩa là ta làm chủ được người khác. Dù hiện trong thực tiễn con
người có thể gặp những khó khăn, những hồn cảnh éo le… nhưng nhờ sự năng
động, sáng tạo của con người, con người sẽ tìm cách để vượt qua nó.
Tóm lại, “thế giới không thỏa mãn con người, và con người quyết định biến
đổi thế giới bằng hành động của mình” [1, tr.90]. Nhưng hành động biến đổi thế
giới của con người chỉ có hiệu quả khi nó được thực hiện bởi những công cụ,
phương tiện vật chất và phù hợp với quy luật vốn có của thế giới vật chất, nghĩa là
hành động ấy luôn là một thể thống nhất giữa nhận thức và thực tiễn. Quá trình
thực tiễn - nhận thức - thực tiễn là một q trình vơ tận với sự chuyển hóa khơng
ngừng giữa khách quan và chủ quan theo hướng đứa con người trở thành chủ thể
6


thực sự của thế giới khách quan. Đó chính là q trình biện chứng “khách quan
hóa chủ quan và chủ quan hóa khách quan”, chống “khách quan chủ nghĩa” và

chống “chủ quan duy ý chí”. Và tất yếu khi chúng ta làm chủ chính mình sẽ giúp
ta giành chiến thắng, vì nó có nghĩa là ta làm chủ được người khác.
3. Rút ra ý nghĩa đối với công việc đang đảm nhiệm (Giám Đốc Phòng
Giao Dịch Ngân Hàng)
Chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận có vai trò đặc
biệt quan trọng đối với cuộc sống con người. Bằng hệ thống quan niệm đúng
đắn về thế giới, con người tiếp tục tìm cách đi sâu, khám phá những bí ẩn của
thế giới. Theo nghĩa đó, nó giống như một thấu kính để nhìn nhận, xét đốn sự
vật hiện tượng của thế giới cũng như của chính bản thân mình một cách đúng
đắn, từ đó con người có cách thức, phương thức hoạt động thích hợp; xuất phát
từ một thế giới quan nhất định, con người sỗ đi đến lựa chọn một phương hướng
giải quyết vấn đề theo một cách thức nhất định. Như vậy, lập trường triết học,
thế giới quan khác nhau sẽ dẫn đến lựa chọn những phương hướng và cách thức
giải quyết vấn đề khác nhau. Thế giới quan khoa học đúng đắn là tiền đề xác lập
một nhân sinh quan tích cực và ngược lại, thế giới quan phi khoa học sẽ dẫn con
người đến những hành động sai lầm, chẳng hạn như thế giới quan duy tâm và
tơn giáo. Ngồi ra, thế giới quan khoa học còn cung cấp cho con người một bức
tranh chung tổng thể, khái quát, đúng đắn về thế giới.
Việc nghiên cứu mối quan hệ khách quan và chủ quan theo lập trường duy
vật biện chứng và quan điểm“Làm chủ chính mình giúp ta giành chiến thắng, vì
nó có nghĩa là ta làm chủ được người khác” có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động
của con người nói chung và công việc tại tại ngân hang, đặc biệt là trên cương vị
của Giám đốc Phòng giao dịch.
Trên cương vị của Giám đốc Phịng giao dịch Ngân hàng trong q trình
cơng tác phải luôn tôn trọng khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan; đóng
thời phát huy tính năng động, sáng tạo chủ quan trong nhận thức và thực tiễn
công việc. Bởi vì cơng việc có lúc thuận lợi nhưng cũng có lúc gặp khó khăn
như bị tác động của dịch Covid-19.
7



Nhận thức đúng đắn khách quan là tiền đề xác định mục tiêu, phương
hướng, nội dung, biện pháp phù hợp làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn của chủ
thể từng bước cải biến khách quan theo mục đích đặt ra. Phải căn cứ vào thực
tiễn kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tác động của đại dịch… để
chủ động đề ra các giải pháp đưa ngân hàng vượt qua khó khăn.
Từ vai trị quan trọng của nhân tố chủ quan nên trong nhận thức và thực
tiễn phải biết trên cơ sở tôn trọng khách quan để phát huy cao độ tính năng động
chủ quan. Trên cơ sở “cái” khách quan đã được nhận thức để huy động, phát huy
cao nhất mọi phẩm chất và năng lực của chủ thể vào việc nghiên cứu, phát hiện,
lựa chọn ra con đường, những biện pháp, hình thức, bước đi, những công cụ và
phương tiện phù hợp nhất, đạt hiệu quả cao nhất trong mọi hoạt động. Đối với
các ngân hàng hiện nay phải phát huy tính năng động, sáng tạo của từng nhân
viên với những kế hoạch cụ thể trong điều kiện dịch bệnh. Phát huy tính năng
động chủ quan cũng đồng thời bao hàm việc phê phán, đấu tranh khắc phục tư
tưởng thụ động, ỷ lại, bó tay, phó mặc trước khó khăn của hiện thực cuộc sống.
Để hồn thành tốt công việc tại ngân hàng, bản thân tôi ln phát huy cao
độ tính năng động chủ quan, phát huy cao nhất mọi phẩm chất và năng lực của
chủ thể vào việc nghiên cứu, phát hiện, lựa chọn ra con đường, những biện pháp,
hình thức, bước đi, những cơng cụ và phương tiện phù hợp nhất, đạt hiệu quả
cao nhất trong mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Phát huy tính năng
động chủ quan cũng đồng thời bao hàm việc phê phán, đấu tranh khắc phục tư
tưởng thụ động, ỷ lại, bó tay, phó mặc trước khó khăn của hiện thực cuộc sống.
Q trình cơng tác, bản thân tôi luôn phải biết lắng nghe, chia sẻ, giải
quyết thấu tình đạt lý đối với người dân, khách hàng. Đây là bài học kinh
nghiệm chứ không phải dùng quyền lực áp đặt. Người cán bộ ngân hàng phải
luôn trăn trở là làm sao để tạo mọi điều kiện tốt nhất cho người dân đến ngân
hàng giao dịch. Để hiểu được khách hàng, muốn lãnh đạo được đội ngũ cán bộ,
nhân viên cấp dưới thì chúng ta phải đặt mình vào hoàn cảnh của họ để thấu
hiểu, để lắng nghe những tâm tư, khó khăn của khách hàng, của cán bộ, nhân

viên cấp dưới và giải thích về chủ trương phát triển ngân hàng cho người hiểu.
8


Trên cương vị là trưởng phòng ngân hàng, bản thân tôi luôn tôn trọng và
xem cán bộ, nhân viên thuộc quyền như người thân của mình, xem nỗi khổ của
cán bộ, nhân viên thuộc quyền như nỗi khổ của mình, không xem thường và
nhất là không quan liêu, hách dịch, cửa quyền cán bộ, nhân viên thuộc quyền,
biết dựa vào cán bộ, nhân viên thuộc quyền, biết tranh thủ tình cảm của cán bộ,
nhân viên thuộc quyền mà từ đó vận động cán bộ, nhân viên thuộc quyền thực
hiện các nhiệm vụ được hiểu quả cao nhất.
Do vậy, nghiên cứu phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
cụ thể là mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan có ý nghĩa rất quan trọng đối
với mỗi người chúng ta trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đó là cơ sở để
lập luận quan điểm “Làm chủ chính mình giúp ta giành chiến thắng, vì nó có
nghĩa là ta làm chủ được người khác” - một quan điểm mang lại nhiều giá trị
trong cuộc sống.

9


KẾT LUẬN
Phương pháp là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các
quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
của con người nhằm thực hiện mục tiêu đề ra [4, tr.92]. Như vậy, phương pháp
do con người tạo ra trên cơ sở các quy luật khách quan đã được nhận thức và
được khái quát thành lý luận. Phương pháp không phải do con người tuỳ tiện đặt
ra mà là kết quả của việc con người nhận thức hiện thực khách quan và từ đó rút
ra những nguyên tắc, những yêu cầu để định hướng cho mình trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Do đó, cơ sở để con người định ra phương pháp đúng đắn là

những quy luật khách quan đã được nhận thức, chính phương pháp bắt nguồn từ
thực tiễn phản ánh đúng đắn những quy luật khách quan của thế giới và đem lại
cho khoa học và thực tiễn một cơng cụ có hiêụ quả để nhận thức thế giới và cải
tạo thế giới.
Phương pháp luận biện chứng duy vật là một hệ thống các quan điểm,
nguyên tắc nền tảng chỉ đạo chủ thể trong việc xác định phạm vi, khả năng áp
dụng phương pháp một cách hợp lý và có hiệu quả. Do vậy, phép biện chứng
duy vật vừa là lý luận, vừa là phương pháp luận phổ biến. Vận dụng phương
pháp luận triết học Mác - Lênin giúp chúng ta giải thích luận điểm “Làm chủ
chính mình giúp ta giành chiến thắng, vì nó có nghĩa là ta làm chủ được người
khác” đúng đắn nhất, khách quan nhất, khoa học nhất.

10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Hiền (2019), Mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan trong
nhận thức và cải tạo thực tiễn, Tạp chí Lý luận truyền thơng, số 32/2019.
2. Hội đồng lý luận Trung ương, Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb
Giáo dục, 2011.
3. Trung tâm ngôn ngữ học, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1994.
4. Trần Hùng Yên (2018), Phương pháp luận triết học trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, Tạp chí Lý luận chính trị, số 167/2018.

11




×