Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

tiểu luận đánh giá về công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục đào tạo hiện nay (kết quả, hạn chế) đề xuất, kiến nghị những giải pháp cụ thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.02 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (HSB)


BÀI TẬP CÁ NHÂN
GIÁO DỤC VÀ AN NINH
ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH
VỰC GIÁO DỤC-ĐÀO TẠO HIỆN NAY (KẾT QUẢ, HẠN CHẾ); ĐỀ
XUẤT, KIẾN NGHỊ NHỮNG GIẢI PHÁP CỤ THỂ

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC
I.
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤCĐÀO TẠO
1.1.

Quản lý

1.2.

1
2


2
2

Quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
II.
TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO HIỆN NAY
2.1.
Những kết quả đạt được
2.2.
Những hạn chế, yếu kém
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
III.
TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC GIÁO
DỤC - ĐÀO TẠO HIỆN NAY
Đổi mới quản lí nhà nước về giáo dục - đào tạo theo yêu cầu của
3.1.
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đổi mới phương thức đào tạo, thực hiện đào tạo theo nhu cầu xã
3.2.
hội, gắn nhà trường với doanh nghiệp, gắn giáo dục với nghiên
cứu khoa học
Xây dựng và triển khai thực hiện tốt các Nghị định, Luật, chính
3.3.
sách về giáo dục - đào tạo
KẾT LUẬN

3

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO

13

4
4
6
7
7
8
9


MỞ ĐẦU
Nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập, đặc biệt là Việt Nam đã chính
thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Đó vừa là thời
cơ, vừa là thách thức đối với mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là trách nhiệm
của các nhà giáo dục với thế hệ trẻ - Chủ nhân tương lai của đất nước. Sinh thời
Bác Hồ từng nói: “Muốn có chủ nghĩa xã hội, phải có những con người mới xã
hội chủ nghĩa” [4, tr.189]. Làm theo lời Bác, Đảng ta đã xác định “Giáo dục là
quốc sách hàng đầu” [5, tr.2].
Giáo dục và đào tạo được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm, coi đó là
chìa khóa để thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị
quyết 29/NQ-TW Ban Chấp hành Trung ương khố XI về Đổi mới căn bản, tồn
diện giáo dục và đào tạo đã nhấn mạnh: “Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong
phát triển giáo dục và đào tạo”. Trong những năm qua, sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao
của Đảng, Nhà nước, sự quan tâm của cả xã hội, nỗ lực của đội ngũ nhà giáo, nhà
quản lí, nhà khoa học, sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ nước

ta đã đạt được những thành tựu quan trọng về quy mô, chất lượng giáo dục các cấp;
công tác quản lý; đội ngũ nhà giáo; công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công
nghệ; tiềm lực khoa học và công nghệ; thị trường và các dịch vụ khoa học công
nghệ; hợp tác quốc tế… Tuy nhiên, bên cạnh đó chất lượng giáo dục và đào tạo cịn
bộc lộ những hạn chế, thiếu sót và yếu kém, nhất là đào tạo đại học và dạy nghề
chưa đáp ứng u cầu sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, nghiên cứu
vấn đề “Đánh giá về công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo
hiện nay (kết quả, hạn chế); đề xuất, kiến nghị những giải pháp cụ thể” làm đề
tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

1


NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC-ĐÀO TẠO
1.1. Quản lý
Thuật ngữ quản lý, có nhiều cách giải nghĩa khác nhau. Từ điển giáo dục
học, quản lý là hoạt động hay tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản
lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức làm
cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức. Theo góc độ xã hội học
quản lý, Nguyễn Minh Đạo cho rằng: “ Quản lý chính là sự tác động liên tục, có tổ
chức, có ý thức hướng mục đích của chủ thể vào đối tượng nhằm đạt được hiệu quả
tối ưu so với yêu cầu đặt ra” [2, tr.210]
Trần Khánh Đức lại cho rằng: “Quản lý là một q trình tác động có định
hướng, có tổ chức, lựa chọn trong số các tác động có thể dựa trên các thơng tin về
tình trạng của đối tượng nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và
làm cho nó phát triển tới mục đích đã định” [3, tr.95].
Trung tâm ngơn ngữ học, Đại từ điển tiếng Việt: “Quản lý được coi như là
sự kết hợp của quản và lý. Quản bao gồm sự coi giữ, tổ chức, điều khiển, trông nom

và theo dõi. Lý được hiểu là lý luận về sự phân biệt phải trái, sự sửa sang, sắp xếp,
thanh lý, sự dự đoán cùng sự tạo ra thiết chế hành động để đưa hệ vào sự phát
triển” [6, tr.671].
Hiện nay có nhiều các lí thuyết về quản lí giáo dục khác nhau trên nhiều bình
diện bởi vì sự ra đời và phát triển của khoa học về quản lí giáo dục (quản lý giáo
dục) đều dựa trên một số bộ môn khoa học khác nhau như quản lí đại cương, chính
trị học, kinh tế học, xã hội học… mỗi môn học trong đó đều có những cách tiếp cận
riêng và nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau trong quản lý giáo dục.
Hầu hết các lí thuyết quản lí giáo dục đều có một số các đặc điểm chung sau:
Có xu hướng định chuẩn sâu sắc. Ở các mức độ khác nhau, các lí thuyết gia
về quản lý giáo dục đều đưa ra những quan điểm của họ về việc các thiết chế giáo
dục phải được quản lí như thế nào.
Có xu hướng chọn lọc tức chỉ nhấn mạnh đến một số khía cạnh của thiết chế
giáo dục mà bỏ qua nhiều khía cạnh khác. Chính vì thế, việc tán đồng một mơ hình
lí thuyết cụ thể sẽ đưa đến việc phủ nhận các cách tiếp cận khác.

2


Thường được xây dựng dựa trên sự quan sát thực tiễn trong các thiết chế
giáo dục. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa trên sự quan sát đó thì chưa đủ để hình thành lí
luận vì chủ thể quan sát có thể đưa ra những kết luận mang tính chủ quan.
1.2. Quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt “Quản lý giáo dục là quá trình thực hiện có
định hướng và hợp quy luật các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm
tra nhằm đạt tới mục tiêu giáo dục đã đề ra” hoặc “Quản lý giáo dục là quá trình đạt
đến mục tiêu giáo dục của hệ thống giáo dục trên cơ sở thực hiện có ý thức và hợp
quy luật các chức năng kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra” [6, tr.390].
Ở cấp độ vĩ mô, quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống tác động có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý vào hệ thống giáo dục quốc dân nhằm huy

động và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nguồn lực phục vụ cho mục tiêu phát
triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Cấp độ vi mô, quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có
kế hoạch của chủ thể quản lý vào hệ thống tổ chức giáo dục của nhà trường nhằm
điều khiển các thành tố trong hệ thống phối hợp hoạt động theo đúng chức năng,
đúng kế hoạch, đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt được mục đích, tục tiêu đã xác
định với hiệu quả cao nhất.
Nhà trường là tổ chức cơ sở của hệ thống giáo dục quốc dân Việt nam, là nơi
trực tiếp thực hiện công tác đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. Theo tác giả Nguyễn
Quốc Chí: “Quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy học nhằm đưa nhà trường
từ trạng thái này sang trạng thái khác và dần đạt tới mục tiêu giáo dục đã xác định”
[1, tr.120].
Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo là việc nhà nước thực hiện quyền
lực công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động giáo dục và đào tạo trong
phạm vi toàn xã hội nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà nước.
Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo là sự tác động có tổ chức và điều
chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động giáo dục và đào tạo do các cơ
quan quản lí có trách nhiệm về giáo dục của nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến
hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo qui định của nhà nước nhằm phát triển
sự nghiệp giáo dục và đào tạo, duy trì kỉ cương, thoả mãn nhu cầu giáo dục và đào

3


tạo của nhân dân, thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo của nhà nước.
Những yếu tố chủ yếu trong quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo.
Trong khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo nổi lên 3 bộ phận
chính, đó là chủ thể của quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo; Khách thể của
quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo; Mục tiêu giáo dục và đào tạo.
Chủ thể quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo là các cơ quan có thầm

quyền (cơ quan lập pháp, hành pháp) được quy định ở điều 100 của Luật Giáo dục.
Khách thể của quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo là hệ thống giáo dục
và đào tạo và mọi hoạt động giáo dục và đào tạo trong phạm vi toàn xã hội.
Mục tiêu giáo dục và đào tạo: về tổng thể đó là việc bảo đảm trật tự kỷ
cương trong các hoạt động giáo dục và đào tạo, để thực hiện được mục tiêu nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho xã hội, hoàn thiện và phát triển
nhân cách của công dân.
Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo là sự quản lí của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, của bộ máy quản lí giáo dục từ trung ương đến cơ sở lên hệ
thống giáo dục và đào tạo và các hoạt động giáo dục của xã hội nhằm nâng cao
dân trí - đào tạo nhân lực - bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và hồn thiện nhân
cách cho cơng dân.
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH
VỰC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO HIỆN NAY
2.1. Những kết quả đạt được
Trong lĩnh vực nhận thức tư tưởng đa số cán bộ và nhân dân đều nhận thức
được ý nghĩa, tầm quan trọng của giáo dục và coi phát triển giáo dục là quốc sách
hàng đầu, từ đó thấy được vai trị to lớn của công tác quản lý nhà nước đối với giáo
dục; đều nhận thấy sự cần thiết phải đổi mới, cải cách nội dung, hình thức và
phương pháp quản lý nhà nước đối với giáo dục, nhằm bảo đảm cho nền giáo dục
nước nhà phát triển theo hướng tiên tiến, hiện đại và có chất lượng, hiệu quả cao.
Trong lĩnh vực tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về giáo dục: hoạt động
tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục pháp luật về giáo dục thường xuyên
được đẩy mạnh và đổi mới về nội dung, hình thức và phương pháp thực hiện; cơng
tác tổ chức xã hội hố giáo dục ngày càng có nề nếp, quy củ; việc đầu tư cho giáo

4


dục ngày càng được Nhà nước quan tâm nhiều hơn; cơng tác kiểm tra, giám sát việc

thực hiện chính sách, pháp luật về văn hoá được tăng cường và nâng cao hiệu quả;
việc tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm và đưa ra bài học cần thiết của việc thực
hiện chính sách, pháp luật về giáo dục đã được chú ý trong những năm gần đây, do
đó việc xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật mới về văn hóa, nhìn chung có
cơ sở lý luận và thực tiễn,
Nhà nước đã tiến hành sắp xếp lại mạng lưới các trường học, gần đào tạo với
nghiên cứu khoa học và sản xuất, nhờ đó mà mạng lưới trường phổ thơng phát triển
khá tốt, trường tiểu học đã về đến thôn, ấp, trường trung học cơ sở về đến xã hoặc
liên xã; trường trung học phổ thông về đến quận, huyền hoặc cụm, xã, phường: các
trường công lập tiếp tục được giữ vững và phát huy vai trị của mình, được xây
dựng thêm ở nhiều nơi, đặc biệt tại các vùng kinh tế - xã hội cịn khó khăn.
Các quy định của Luật Giáo dục đã tạo cơ sở pháp lý và có hiệu lực cao để
triển khai tổ chức và hoạt động giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo trong hệ
thống giáo dục quốc dân tương đối hồn chỉnh từ mầm non đến đại học. Cơng tác
quản lý giáo dục có bước chuyển biến nhất định. Cơ hội tiếp cận giáo dục có nhiều
tiến bộ, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách; cơ
bản bảo đảm bình đẳng giới trong giáo dục - đào tạo.
Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục - đào tạo được cải thiện rõ rệt và từng bước
hiện đại hóa. Số lượng học sinh, sinh viên tăng nhanh, nhất là ở giáo dục đại học và
giáo dục nghề nghiệp. Chất lượng giáo dục - đào tạo được nâng cao. Đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng, với cơ cấu
ngày càng hợp lý. Chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo đạt mức 20% tổng chi ngân
sách nhà nước. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh, hệ thống cơ sở giáo dục ngồi
cơng lập tăng nhanh, góp phần đáng kể vào phát triển giáo dục - đào tạo chung của
toàn xã hội.
Giáo dục thường xuyên đã từng bước đa dạng hóa nội dung chương trình; chú
trọng các chương trình và hình thức tổ chức bồi dưỡng ngắn hạn, cập nhật kiến
thức, kỹ năng, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân được học tập suốt đời.
Nhiều cơ sở giáo dục thường xuyên đổi mới công tác quản lý theo hướng được giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đã tích cực phối hợp các lực lượng xã hội, đẩy


5


mạnh xã hội hóa các nguồn lực nhằm bảo đảm hiệu quả phối hợp liên thơng giữa
giáo dục chính quy với giáo dục khơng chính quy.
Giáo dục đại học đã tập trung nâng dần các điều kiện bảo đảm chất lượng đào
tạo: kịp thời điều chỉnh phương án tuyển sinh bảo đảm chất lượng, hiệu quả; phát
triển đa dạng các hình thức đào tạo chất lượng cao; ổn định quy mô, phát triển đội
ngũ giảng viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo; triển khai khảo sát việc làm của
sinh viên tốt nghiệp; xây dựng, trình ban hành cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và
Khung trình độ quốc gia bảo đảm tính khoa học và tương thích với hệ thống giáo
dục các nước trong khu vực.
2.2. Những hạn chế, yếu kém
Quy định về hệ thống giáo dục quốc dân; quy định về mục tiêu, yêu cầu, nội
dung, chương trình giáo dục, phương pháp giáo dục phổ thơng chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực người học, nhất là những yêu cầu về
vận dụng kiến thức, rèn luyện tư duy độc lập, phản biện, khả năng tự học; văn bằng
chứng chỉ thiếu tính liên thơng giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành.
Quy định của Luật Giáo dục hiện hành về hệ thống giáo dục quốc dân chưa
có sự liên kết giữa các bộ phận (giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục
thường xuyên, giáo dục đại học). Hệ thống giáo dục quốc dân chưa hình thành rõ
ràng các hướng phát triển cho học sinh phổ thông và thiếu sự phân luồng người học
từ sau trung học cơ sở cho đến hết giáo dục phổ thông (sau lớp 12).
Mục tiêu, yêu cầu, nội dung, chương trình giáo dục, phương pháp giáo dục
phổ thông chưa thực sự hướng tới việc hình thành nhân cách, phát triển về thể chất,
tình cảm và phát triển năng lực của học sinh. Chương trình các môn học chủ yếu
xây dựng chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ mà chưa xây dựng chuẩn
đầu ra về phẩm chất và năng lực của học sinh; chưa tạo được điều kiện thuận lợi
cho học sinh Việt Nam theo học các chương trình đào tạo quốc tế. Các quy định về

giáo dục thường xuyên, giáo dục người lớn trong Luật hiện hành chưa thực sự đáp
ứng được yêu cầu đổi mới.
Các quy định trong Luật hiện hành chưa khẳng định được vị thế của nhà giáo
thơng qua các chính sách đối với đội ngũ nhà giáo từ đào tạo, bồi dưỡng đến thu

6


hút, tuyển dụng, sử dụng, để bảo đảm việc xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục có chất lượng. Đội ngũ giáo viên, giảng viên chưa cân đối
về số lượng và cơ cấu bộ môn. Chất lượng đào tạo giáo viên, giảng viên còn thấp,
một bộ phận giáo viên, giảng viên chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình, sách
giáo khoa và đổi mới giáo dục đại học, nhất là yêu cầu đổi mới phương pháp dạy
học. Chính sách đối với học sinh sinh viên sư phạm chưa phù hợp tình hình thực
tiễn. Hiện nay, nhu cầu của thị trường lao động đã có sự thay đổi, số sinh viên sư
phạm trên cả nước ra trường chưa có việc làm hoặc làm khơng đúng ngành, nghề
gây lãng phí rất lớn nguồn nhân lực đầu tư cho giáo dục.
Quản lý nhà nước về giáo dục chưa phân định được giữa quản lý nhà nước
với hoạt động quản trị trong các cơ sở giáo dục, đào tạo; việc phân cấp quản lý nhà
nước về giáo dục giữa trung ương và địa phương chưa rõ. Các quy định về đầu tư
cho giáo dục, các điều kiện bảo đảm phát triển giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu
thực hiện và xu thế phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế.
Ðội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn nhiều bất cập, cơ cấu khơng
hợp lý, trình độ khơng đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng
hiệu quả giáo dục của quận. Chưa hoàn thành việc quy hoạch mạng lưới các trường
tiểu học, trung học; chế độ ưu đãi đối với giáo viên, giảng viên, nhà giáo làm cơng
tác quản lý giáo dục cịn chậm.
Cơng tác quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục chưa có sự phối hợp chặt chẽ
với các ban, ngành, địa phương; chưa bám sát thực tế phát triển kinh tế - xã hội, sự
phát triển dân số tự nhiên dẫn đến mạng lưới cơ sở giáo dục tuy có tăng nhưng chưa

đáp ứng yêu cầu đặt ra, vẫn còn thiếu, chưa đủ tiêu chuẩn.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO HIỆN NAY
3.1. Đổi mới quản lí nhà nước về giáo dục - đào tạo theo yêu cầu của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong nền kinh tế tập trung bao cấp, giáo dục trở thành độc quyền của Nhà
nước; nhà trường chỉ là nơi chấp hành mọi kế hoạch và chỉ tiêu, pháp lệnh mà Nhà
nước giao, không cần quan tâm nhiều đến “đầu ra”. Chúng ta không phủ nhận
những thành tựu của giáo dục do cơ chế tập trung bao cấp tạo ra, song cũng cần

7


thấy rằng, cơ chế quản lý đó đã làm cho hệ thống giáo dục thiếu tính cạnh tranh,
kém năng động, sáng tạo, trở thành “mảnh đất” cho căn bệnh thành tích và chủ
nghĩa hình thức tồn tại. Ngược lại, trong nền kinh tế thị trường với tính cạnh tranh
quyết liệt, đòi hỏi nguồn nhân lực đa dạng, chất lượng cao, yêu cầu đổi mới giáo
dục, đổi mới cơ chế quản lý phù hợp với yêu cầu phát triển trong thời kì mới đang
đặt ra hết sức gay gắt. Trong bối cảnh đó, rất cần vai trị quản lý của Nhà nước trong
giáo dục để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt trái và những tác động tiêu cực của
kinh tế thị trường.
Vì vậy, những vấn đề cần quan tâm hiện nay trong quản lý nhà nước về giáo
dục là: Làm rõ quan điểm, chính sách và nguyên tắc, xây dựng khung pháp lí và thể
chế đồng bộ, tạo mơi trường pháp lí và tâm lí xã hội thuận lợi để có thể vận dụng cơ
chế thị trường trong giáo dục đại học hiệu quả nhất, phù hợp với định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trên cơ sở phân biệt rõ quản lý nhà nước về giáo dục và quản lý của cơ
sở giáo dục, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ
quan quản lý nhà nước về giáo dục và của các trường, thực hiện mạnh mẽ sự phân
cấp quản lý giáo dục, phát huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của các trường.
Xây dựng đồng bộ và kịp thời ban hành các văn bản pháp lí về giáo dục trong điều

kiện phát triển kinh tế thị trường, tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý chặt chẽ các loại hình đào tạo, chấn
chỉnh tình trạng thu - chi khơng minh bạch và những biểu hiện tiêu cực, vụ lợi, cạnh
tranh không lành mạnh, chạy theo lợi nhuận, hoặc xu hướng “thương mại hóa”
trong giáo dục...
3.2. Đổi mới phương thức đào tạo, thực hiện đào tạo theo nhu cầu xã
hội, gắn nhà trường với doanh nghiệp, gắn giáo dục với nghiên cứu khoa học
Giáo dục Việt Nam đang đứng trước “bài toán” về chất lượng “đầu ra” chưa
đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động. Hiện nay, các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế đang cần lực lượng lớn lao động có trình độ kĩ thuật cao, nhưng đào
tạo chưa đáp ứng được, trong khi nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng ra
trường lại khơng có việc làm. Chúng ta đang thừa lao động phổ thông chưa qua đào
tạo, nhưng lại thiếu lao động kĩ thuật lành nghề, thiếu chuyên gia và các nhà quản
lý, cán bộ khoa học - cơng nghệ có trình độ cao. Một trong những nguyên nhân chủ

8


yếu dẫn tới tình trạng trên là chương trình đào tạo trong các trường đại học và dạy
nghề còn nặng về lí thuyết, nhẹ về thực hành; chưa thực sự gắn với điều kiện và nhu
cầu thực tiễn của doanh nghiệp, thị trường và xã hội. Cơ chế thị trường đòi hỏi đào
tạo phải theo nhu cầu xã hội, phải có sự tham gia, liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước nhà trường - nhà doanh nghiệp để cùng hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình đào tạo, sử
dụng nguồn nhân lực.
Do đó, cần đổi mới cơ chế phân bổ kinh phí đào tạo, thực hiện cơ chế đấu
thầu, đặt hàng trong giáo dục. Nhà nước sẽ thực hiện cấp kinh phí đào tạo theo cơ
chế đấu thầu, đặt hàng trong đào tạo, thay vì phân bổ kinh phí cho các trường theo
dự toán hằng năm. Việc phân bổ ngân sách Nhà nước cho các trường cần gắn với
nhu cầu và đối tượng được đào tạo, nên đánh giá hiệu quả đào tạo qua chỉ số sinh
viên có việc làm. Điều này đòi hỏi các trường đại học phải gắn giảng dạy với
nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tiễn; đồng thời tích cực đổi mới chương trình

đào tạo, phương pháp dạy và học, tăng cường năng lực đội ngũ giảng viên, đổi mới
phương thức quản lý và đào tạo theo hướng hiện đại, hiệu quả, nhằm đáp ứng được
nhu cầu ngày càng đa dạng, đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Doanh nghiệp cần
chủ động đặt hàng với các cơ sở đào tạo, tham gia xây dựng chương trình đào tạo và
hỗ trợ trực tiếp quá trình đào tạo, thực hiện mơ hình trường trong doanh nghiệp.
Cần có cơ chế, chính sách khuyến khích các chun gia có trình độ cao đang làm
việc tại các doanh nghiệp tham gia đào tạo sinh viên. Nhà nước đóng vai trị “bà
đỡ”, là cầu nối giữa nhà trường và doanh nghiệp, cung cấp thông tin dự báo nhu cầu
nhân lực, hỗ trợ kinh phí, ban hành cơ chế, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho
nhà trường thực hiện đào tạo theo nhu cầu xã hội. Cần thành lập Ban chỉ đạo quốc
gia phụ trách vấn đề này.
3.3. Xây dựng và triển khai thực hiện tốt các Nghị định, Luật, chính
sách về giáo dục - đào tạo
Triển khai thi hành Luật Giáo dục năm 2019 đã được Quốc hội thông qua.
Đây là căn cứ pháp lý để các cấp, các ngành lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện và thống
nhất trong hoạt động giáo dục, là công cụ quan trọng giúp Nhà nước quản lý hệ
thống giáo dục quốc dân; cơ sở giáo dục, nhà giáo, người học; quản lý nhà nước về
giáo dục; quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt

9


động giáo dục; quản lý hệ thống giáo dục nghề nghiệp; tổ chức, hoạt động của cơ sở
giáo dục nghề nghiệp; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động
giáo dục nghề nghiệp nói riêng.
Bộ Giáo dục - Đào tạo tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị quyết về
triển khai thi hành Luật Giáo dục; theo dõi, đơn đốc, kiểm tra, giám sát tình hình
triển khai thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về triển khai thi hành Luật Giáo dục;
thường xuyên tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình, kết quả triển
khai thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp nêu tại Nghị quyết này.

Tiếp tục hoàn thiện Luật Giáo dục theo hướng bổ sung vào Luật Giáo
dục hình thức dạy học trực tuyến và quản lý nhà nước đối với hình thức dạy học
này. Thực hiện có hiệu quả việc tổ chức dạy học qua Internet, trên truyền hình theo
các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Giáo dục - Đào tạo. Tổ chức tuyên truyền,
tập huấn phổ biến kiến thức, kỹ năng sử dụng internet, mạng xã hội bảo đảm an
toàn, an ninh mạng khi tham gia hoạt động dạy - học qua internet; kỹ năng phòng,
tránh các nguy cơ, tình huống, tác hại có thể xảy ra đối với thầy cô giáo, học sinh
sinh viên và cha mẹ học sinh sinh viên trong dạy học qua internet…
Bộ Giáo dục - Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ và ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xây dựng Nghị định quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giáo dục trình Chính phủ về các nội
dung như: hướng nghiệp và phân luồng trong giáo dục theo từng giai đoạn phù hợp
với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; liên thơng giữa các cấp học, trình độ đào tạo
trong hệ thống giáo dục quốc dân; chuyển đổi loại hình nhà trường trong hệ thống
giáo dục quốc dân; trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân; điều kiện, thủ tục thành lập hoặc cho phép
thành lập; chính sách đối với nhà giáo; chính sách ưu đãi đối với trường dân lập,
trường tư thục và hợp tác, đầu tư của nước ngoài về giáo dục…
Chủ động nghiên cứu, rà soát, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tổ chức
hoạt động giáo dục và giáo dục nghề nghiệp được phân công theo quy định của Luật
Giáo dục và Luật Giáo dục nghề nghiệp. Phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội rà soát cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học tuyển sinh
trước ngày Luật Giáo dục nghề nghiệp có hiệu lực thi hành để được tiếp tục tổ chức
đào tạo, cấp bằng, chứng chỉ cho người học theo quy định của Luật Giáo dục.

10


Bộ Giáo dục - Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, ban hành văn bản quy định, quy chế tổ chức và hoạt

động của lớp xóa mù chữ, lớp ngoại ngữ, lớp tin học, lớp dành cho trẻ em có hồn
cảnh khó khăn khơng có điều kiện đi học ở trường, lớp dành cho trẻ khuyết tật;
trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục
thường xuyên, trung tâm giáo dục nghề nghiệp, trung tâm học tập cộng đồng, trung
tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập, các trung tâm khác thực hiện nhiệm vụ giáo
dục thường xuyên; quy định chi tiết về chương trình, sách giáo khoa, giáo trình, tài
liệu giáo dục thường xuyên.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, ban hành Thơng tư quy định chi tiết điều kiện, trình tự, thủ tục, thẩm quyền
công nhận văn bằng; cung cấp thông tin về cơ sở giáo dục đại học bảo đảm chất
lượng được nước sở tại công nhận; khối lượng kiến thức văn hóa trung học phổ
thơng mà người học phải tích lũy để học trình độ cao đẳng.
Bộ Giáo dục - Đào tạo chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan để tổ chức
tuyên truyền, phổ biến Luật Giáo dục với nội dung, hình thức phù hợp đến cán bộ,
công chức, viên chức và nhân dân hiểu rõ, thực hiện; tổ chức tập huấn nội dung quy
định của Luật Giáo dục và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục cho cán
bộ, công chức tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ
quan, tổ chức liên quan.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các cơ quan quản lý nhà nước về giáo
dục nghề nghiệp ở trung ương chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng
Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giáo dục trình Chính phủ
xem xét, ban hành về việc hợp tác quốc tế về giáo dục nghề nghiệp; quyền, trách
nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp; thẩm quyền và nội
dung quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp; việc xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi vi phạm pháp luật. Tham mưu Chính phủ xem xét, ban hành văn
bản hướng dẫn về các nội dung như: chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với tổ
chức, cá nhân đóng góp, đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục nghề nghiệp; thủ tục thành
lập, sáp nhập, chia, tách hoặc cho phép thành lập, sáp nhập, chia, tách đối với cơ sở
giaosa dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi; chế độ chính sách đối với nhà
giáo; chính sách đối với người học…


11


KẾT LUẬN
Đổi mới nền giáo dục Việt Nam là nhu cầu cần thiết đã được khẳng định tại
Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 khóa
XI của Đảng về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục, đáp ứng u cầu cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế. Nghị quyết đề ra 09 nhóm nhiệm vụ và giải pháp, trong đó có giải
pháp “xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, đào
tạo và trách nhiệm quản lý theo ngành, lãnh thổ của các bộ, ngành, địa phương.
Phân định công tác quản lý nhà nước với quản trị của cơ sở giáo dục và đào tạo…”
[5, tr.8]. Như vậy, phân định công tác quản lý nhà nước với quản trị của cơ sở giáo
dục và đào tạo trở thành một vấn đề cần làm rõ trong công tác quản lý nhà nước về
giáo dục và đào tạo.
Quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo là tạo động lực cho giáo dục phát
triển nhanh, mạnh, phát triển liên tục, phù hợp và hài hoà với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường. Quản lý giáo dục coi trọng sự dân chủ, bình đẳng, cạnh tranh, xã
hội hố với những chính sách thơng thống giúp các cơ sở giáo dục chủ động, sáng
tạo tự xây dựng thương hiệu của mình ở trong nước cũng như trên thế giới. Hiệu
quả là mục tiêu quan trọng số một của quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo. Thực
tiễn những năn quan công tác quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo bên cạnh
những kết quả đã đạt được vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định cần có giải pháp
khắc phục. Những giải pháp nêu trên mang tính định hướng, để thực hiện có kết quả
cần phải tiến hành đồng bộ, phát huy trách nhiệm của mọi cấp, ngành và cần căn cứ
tình hình thực tế để áp dụng giải pháp cho phù hợp.

12



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Quốc Chí (2014), Quản lý các cơ sở giáo dục - đào tạo, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
2. Nguyễn Minh Đạo (1997), Cơ sở khoa học quản lý, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.Luật Giáo dục 2019.
3. Trần Khánh Đức (2010), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế
kỷ XXI, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
5. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11 2013 của Ban Chấp hành Trung
ương “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế”.
6. Trung tâm ngôn ngữ học, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1994.

13



×