Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

SKKN Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (926.78 KB, 106 trang )

SKKN Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
học sinh trong môn Sinh học 8
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra phương hướng: Đầu
tư phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh giáo dục từ chủ yếu
trang bị kiến thức sang phát triển nhân lực và phẩm chất người học, phát triển giáo dục
đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong đó, phát triển giáo dục và đào tạo phải tuân theo nguyên lý: Học đi đôi với hành,
giáo dục phải kết hợp với lao động sản xuất, lí luận phải gắn liền với thực tiễn, giáo dục
nhà trường phải kết hợp với giáo dục xã hội.
Sinh học là một bộ môn khoa học tự nhiên có nhiệm vụ nghiên cứu các đặc điểm
cấu tạo, hoạt động sống và các điều kiện sống của sinh vật cũng như các mối quan hệ
giữa các sinh vật với nhau và với môi trường. Ở Sinh học 8 các em được tìm hiểu sâu về
đặc điểm cấu tạo và sinh lí của con người, về những điều bí ẩn trong chính bản thân các
em.
Trong thực tế giảng dạy bộ môn Sinh học cấp trung học cơ sở, tôi nhận thấy phần
lớn học sinh đều không thích học bộ mơn Sinh học vì cho rằng mơn học này thường khơ
khan, khó hiểu. Nên dẫn đến nhiều em cịn có thái độ chưa quan tâm, chưa chú ý vào bài
1


học. Điều này đã gây ra ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng dạy và học
bộ môn. Mặt khác, ở lứa tuổi học sinh lớp 8 các em đang bước vào giai đoạn dậy thì nên
cơ thể phát triển mạnh. Tuy nhiên, mức độ phát triển của hệ thần kinh chưa đạt đến độ
hồn thiện, do đó các em chóng mệt mỏi, dễ hưng phấn song cũng dễ chuyển sang trạng
thái ức chế khi phải tiếp thu bài một cách thụ động, kém hào hứng. Vấn đề đặt ra là bản
thân mỗi giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tìm tịi các phương pháp cũng như
cách thức giảng dạy để có thể khơi dậy sự hứng thú cũng như sự chủ động trong học tập
của học sinh, nếu không sẽ dẫn đến tiết học trở nên nhàm chán, khó thành cơng.


Các tình huống có trong thực tiễn rất gần gũi và thân quen đối với chúng ta cũng
như đối với các em học sinh. Việc vận dụng các tình huống thực tiễn vào trong giảng
dạy bộ môn tạo cho các em cảm thấy môn Sinh học trở nên gần gũi và thiết thực. Đặc
biệt trong phần vào bài trước khi học bài mới giáo viên sử dụng những tình huống thực
tiễn, những câu chuyện ngắn có ý nghĩa giáo dục, các câu ca dao, tục ngữ ... sẽ tạo cho
các em một tâm thế học tập tốt, sự thích thú, muốn khám phá ra những kiến thức để lí
giải những vấn đề đó. Từ đó các em u thích mơn học hơn, đồng thời chất lượng bộ
mơn được nâng cao hơn.
Từ những lí do trên cùng với kinh nghiệm mà tôi đã đúc kết được qua nhiều năm
giảng dạy tại trường trung học cơ sở Nguyễn Trãi, Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kinh
nghiệm mà mình đã tích lũy được trong q trình giảng dạy và tôi chọn đề tài “ Một số
kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong
2


mơn Sinh học 8”. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cơ và bạn bè
đồng nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra những giải pháp hợp lí nhằm tạo hứng thú học tập đối với bộ mơn, giúp học
sinh chủ động, tích cực, tự giác trong học tập, biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn, góp
phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
Tìm hiểu các thông tin từ các nguồn tư liệu về những vấn đề thực tiễn liên quan đến
bộ môn, để lựa chọn và đưa ra các tình huống vào bài phù hợp với nội dung bài học
nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh, từ đó vận dụng vào giảng dạy đạt hiệu quả cao
nhất.
Đưa ra được các giải pháp, biện pháp cần thiết và hiệu quả cho việc áp dụng nhằm
nâng cao chất lượng học tập đối với bộ môn Sinh học 8.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận
Tại Đại hội Đảng lần thứ XII Đảng ta đã xác định đổi mới giáo dục và đào tạo theo

hướng phải phù hợp, thiết thực với từng cấp học, từng đối tượng, đảm bảo tính khoa
học, cơ bản, hiện đại; lựa chọn những kiến thức có tính ứng dụng cao. Chuyển từ nặng
về trang bị kiến thức lí thuyết trừu tượng sang nội dung gắn với thực tiễn đời sống, chú
trọng vận dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống trong học tập và cuộc
3


sống….nội dung các mơn học cần lựa chọn những gì cần thiết cho việc phát triển phẩm
chất năng lực người học, những tri thức thiết thực, gần gũi, gắn với đời sống có thể vận
dụng tốt trong thực tế.
Trong cơng văn hướng dẫn nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện trong năm học
2018-2019 của Phòng giáo dục và đào tạo huyện Krông Ana đã chỉ rỏ: “Tiếp tục đổi mới
phương pháp dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, rèn luyện
phương pháp tự học và vận dụng kiến thức, kỹ năng của học sinh. Đẩy mạnh việc vận
dụng dạy học giải quyết vấn đề, các phương pháp thực hành, dạy học theo dự án trong
các mơn học; tích cực ứng dụng cơng nghệ thơng tin phù hợp với nội dung bài học; khắc
phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc; tập trung dạy cách học, cách
nghĩ, phương pháp tự học; đảm bảo cân đối giữa trang bị kiến thức, rèn luyện kỹ năng
và định hướng thái độ, hành vi cho học sinh…”.
Theo các chun gia tâm lí học thì cùng với sự tự giác thì hứng thú học tập tạo nên
tính tích cực nhận thức, giúp học sinh học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi dậy
được sự sáng tạo, là động lực để người học có thể say mê, tự giác nghiên cứu và đạt
được hiệu quả cao trong chương trình giáo dục.
Ở lứa tuổi trung học cơ sở, các em có sự phát triển mạnh mẽ về tâm sinh lí, các em
rất tị mị, muốn tìm hiểu cũng như giải đáp được những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống
hằng ngày. Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy nhiều giáo viên còn quá coi trọng các kiến
thức lí thuyết nên tổ chức các hoạt động học còn thiên về cung cấp kiến thức trong sách
4



giáo khoa, ít chú trọng đến việc đưa các vấn đề thực tế vào giảng dạy. Điều này làm cho
các em cảm thấy kiến thức của các môn học trở nên xa lạ và khơ khan, từ đó các em ít
hứng thú đối với môn học hơn.
Qua thực tế giảng dạy tại trường trung học cơ sở Nguyễn Trãi, tôi nhận thấy rằng
trong mỗi tiết học mà giáo viên chỉ đưa ra những câu hỏi, những kiến thức đơn thuần có
trong sách giáo khoa thì tiết học sẽ trở nên khô khan, nhàm chán, không tạo được tâm
thế học tập tốt cho các em, các em không hứng thú với học tập, tiếp thu bài một cách bị
động, nên dẫn các em học mang tính chất học vẹt, khơng nắm được kiến thức trọng tâm,
khả năng tổng hợp cũng như vận dụng kiến thức vào thực tiễn còn hạn chế đã dẫn đến
kết quả học tập bộ mơn cịn thấp. Điều này đã làm tôi suy nghĩ rất nhiều, làm thế nào để
có tạo được hứng thú học tập cho các em? Làm thế nào để các em có thể chủ động trong
học tập? Làm thế nào để có thể các em u thích mơn Sinh học hơn? Làm thế nào để các
em có thể vận dụng những kiến thức mơn học vào xử lí các tình huống có trong thực
tiễn?.... Từ những suy nghĩ này, tơi đã tìm tịi, sưu tầm những tình huống thực tế, các câu
chuyện ngắn, các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ.… liên quan đến kiến thức bộ môn để
áp dụng tổ chức các tình huống vào bài ở một số tiết dạy và tôi tự nhận thấy rằng nếu
giáo viên biết cách tổ chức các tình huống vào bài đặc biệt là các tình huống có trong
thực tế vào giảng dạy sẽ tạo cho học sinh một tâm thế tốt, kích thích được hứng thú học
tập của các em, làm nảy sinh trong các em suy nghĩ muốn khám phá ra những kiến thức

5


và có thể áp dụng những kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề trong thực tiễn,
từ đó các em u thích mơn học hơn, chất lượng bộ môn cũng được nâng cao.
2. Thực trạng
Hiện nay, để đáp ứng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, ngành giáo dục đã và
đang thực hiện đổi mới giáo dục căn bản, toàn diện với mục tiêu đào tạo nên những con
người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa phát triển một cách toàn diện về “ đạo đức- trí tuệ thẩm mỹ”. Để làm được điều này cần phải đổi mới một cách mạnh mẽ các phương pháp
dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; tăng cường rèn

luyện các kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức kỹ năng vào giải quyết các vấn đề thực
tiễn. Vậy vấn đề đặt ra là giáo viên phải có biện pháp gì để góp phần giáo dục nên
những thế hệ trẻ vừa chủ động, vừa sáng tạo,vừa có kỹ năng thực hành tốt, biết vận dụng
những kiến thức môn học vào giải quyết các tình huống thực tiễn.
Trong thực tế, tơi thấy rằng đa số giáo viên thường hay sử dụng Phương pháp dạy
học truyền thống trong giảng dạy. Ở phương pháp này chủ yếu là hoạt động của giáo
viên nhằm truyền đạt các kiến thức có trong sách giáo khoa cho học sinh. Phương pháp
này có ưu điểm là học sinh nắm được nội dung kiến thức của bài ngay trong tiết học, các
em có thể trả lời được những câu hỏi liên quan có trong sách giáo khoa. Tuy nhiên, khi
dạy học theo phương pháp này vẫn còn nhiều hạn chế như: Học sinh học bài cịn mang
tính chất học vẹt, tiếp thu bài một cách thụ động, không nắm được kiến thức trọng tâm
nên dẫn đến rất nhanh quên, khả năng tư duy còn hạn chế, khả năng vận dụng kiến thức
6


bộ môn vào giải quyết các vấn đề thực tiễn còn kém…điều này thể hiện qua kết quả ở
các bài kiểm tra của các em còn thấp, khi gặp các vấn đề thực tiễn có liên quan đến kiến
thức bộ mơn các em cịn lúng túng hoặc khơng giải đáp được.
Ở lứa tuổi trung học cơ sở đặc biệt là học sinh lớp 8, các em đang bước vào giai
đoạn dậy thì nên cơ thể có sự phát triển mạnh về kích thước và thể lực. Đồng thời các
em có sự phát triển mạnh mẽ về tâm sinh lí, các em rất tị mị, ham hiểu biết, muốn tìm
hiểu cũng như giải đáp được những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày. Những
câu hỏi: “Tại sao?” Hay “Do đâu?” thường xuất hiện trong đầu các em. Các em tự cho
mình là người lớn và cũng muốn được coi là người lớn, muốn được tham gia học tập
một cách độc lập, muốn thử sức mình…Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy nhiều giáo
viên chưa lựa chọn được các phương pháp dạy học phù hợp nên chưa tích cực hóa được
hoạt động học tập của học sinh, ít chú trọng đến việc đưa các vấn đề thực tế vào trong
giảng dạy. Điều này đã làm cho các em cảm thấy các kiến thức của môn học trở nên khô
khan, xa lạ …từ đó các em ít hứng thú hơn đối với môn học. Mặt khác, cùng với sự
bùng nổ của cơng nghệ thơng tin các em có rất nhiều sân chơi khác như: Facebook, Zing

me, Game online, Zalo…điều này đã làm phân tán sự tập trung của các em, hứng thú
học tập của các em ngày càng giảm sút, các em tiếp thu bài một cách thụ động nên
không nắm được kiến thức trọng tâm. Do đó, chất lượng học tập bộ mơn chưa cao.
Bên cạnh đó, nhiều phụ huynh cịn có tư tưởng phó mặc việc giáo dục con em họ
cho nhà trường, nên bỏ bê việc quan tâm đến học tập của con cái. Ngoài ra, kinh tế của
7


một số gia đình học sinh cịn nhiều khó khăn, bố mẹ mãi lo làm ăn kinh tế nên ít quan
tâm đến việc học tập, không giám sát việc học ở nhà của con em mình, đến lớp các em
lại không chú ý nghe giảng, không nắm được kiến thức trọng tâm của bài nên dần dần
sinh ra tâm lí chán nản, khơng thích học, khơng tập trung trong học tập…dẫn đến chất
lượng học tập không cao.
Kết quả bài kiểm tra định kì lần 1 học kì I mơn Sinh học lớp 8 trường THCS
Nguyễn Trãi khi chưa thực hiện đề tài trong 2 năm học 2017 – 2018 và năm học 20182019 như sau:
Năm học

2017 – 2018

Trung
Lớp

Tổng số

Giỏi

Khá

bình


Yếu

Kém

8A3

28

0

6

14

7

1

8a4

30

2

6

15

6


1

8a5

28

3

5

12

7

1

8a6

32

4

7

13

8

0


118

9

24

54

28

3

7,6%

20,3%

45,8%

23,7%

2,6%

Tổng
cộng
Tỉ lệ
8A1

30

0


7

15

8

0

8a2

34

3

8

14

8

1

8a3

27

2

5


12

7

1

8


8a5
2018 – 2019

28

3

6

11

7

1

119

8

26


52

30

3

6,7%

21,8%

43,8%

25,2%

2,5%

Tổng
cộng
Tỉ lệ

Qua kết quả kiểm tra trên, tôi thấy rằng kết quả học tập môn Sinh học 8 của các em
còn thấp, tỉ lệ bài kiểm tra bị điểm yếu và kém vẫn còn cao, tỉ lệ các bài đạt loại khá và
giỏi cịn ít.
Trong thực tế giảng dạy tơi nhận thấy rằng nếu trong q trình dạy hocjgiaos viên
tổ chức các tình huống vào bài trước khi học bài mới, đặc biệt là sử dụng các tình huống
có liên quan đến các vấn đề có trong thực tế hoặc một tình huống giả định, các câu
chuyện ngắn hay các câu ca dao, tục ngữ mang tính chất giáo dục… và yêu cầu học sinh
cùng tìm hiểu và giải thích qua bài học, sẽ tạo cho các em một tâm thế học tập tốt, các
em sẽ chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức. Từ đó, kích thích được hứng thú học tập

của học sinh, chất lượng bộ mơn cũng được nâng cao. Ngồi ra, thơng qua các tình
huống vào bài giáo viên cịn có thể lồng ghép các nội dung khác nhau chẳng hạn như:
giáo dục ý thức bảo vệ cơ thể, biết chăm sóc, giữ gìn sức khỏe và giáo dục đạo đức lối
sống cho các em.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
Trước những thực trạng trên, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp, biện
pháp mà tôi đã đúc rút được qua nhiều năm giảng dạy tại trường trung học cơ sở Nguyễn
9


Trãi. Nhằm mục đích trao đổi với các đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường để cùng
nhau tháo gỡ những khó khăn, hạn chế của cơng tác giảng dạy bộ mơn Sinh học nói
chung và mơn Sinh học 8 nói riêng trong nhà trường. Từng bước nâng cao chất lượng bộ
mơn.
Trong q trình giảng dạy mơn Sinh học 8 ở trường trung học cơ sở Nguyễn Trãi
tơi đã tìm tịi, sưu tầm và đúc kết được một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào
bài và đã sử dụng, trải nghiệm trong q trình giảng dạy mơn Sinh học 8 và bước đầu đã
mang lại hiệu quả. Tôi xin mạnh dạn đưa ra đây để cùng trao đổi với thầy cô và bạn bè
đồng nghiệp.
- Giải pháp 1: Sử dụng các câu chuyện ngắn có trong thực tế vào giảng dạy
Các câu chuyện ngắn có nội dung liên quan đến thực tế là những câu chuyện kể về
những sự việc diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, mang tính chất thời sự, làm cho các
em cảm thấy môn Sinh học trở nên gần gũi và thiết thực.
Cách thức thực hiện: Đối với giải pháp sử dụng các câu chuyện ngắn vào giảng dạy
giáo viên có thể sử dụng ở các bài như: Bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương; bài 13:
Máu và môi trường trong cơ thể; bài 18: Vận chuyển máu qua hệ mạch. Vệ sinh hệ tuần
hồn; bài 22: Vệ sinh hơ hấp; bài 27: Tiêu hóa ở dạ dày; bài 34: Vitamin và muối
khống; bài 52: Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện….
Một số ví dụ cụ thể:
10



Khi dạy bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương
Trước khi vào học bài mới giáo viên kể cho lớp nghe một câu truyện ngắn về tập
tục chữa bệnh lạc hậu ở một số vùng nông thôn.
“Thầy mo” chữa bệnh….
Ở một bản làng nọ, có một thầy lang nổi tiếng là chữa bệnh giỏi, bất cứ ai bị
bệnh gì đến gặp, thầy đều chữa khỏi. Một hôm bà Na có người con trai 10 tuổi chẳng
may bị ngã nên gãy chân. Bà liền mang con trai đến gặp thầy, ông liền lấy hai thanh
gỗ nẹp chân cậu con trai lại rồi đưa cho bà mẹ ba mươi tờ tiền vàng mà thầy đã làm
phép. Thầy căn dặn mỗi ngày bà hãy đốt một tờ tiền vàng và hòa với nước cho con
trai uống, ắt sẽ khỏi bệnh. Quả thật sau ba mươi ngày, chân cậu con trai này đã lành.
Em nghĩ sao về cách chữa bệnh của ‘thầy mo” này? Có phải thuốc của thầy quá hay
nên chân cậu con trai đã lành? Sau khi học xong phần II- Sự to ra và dài ra của xương,
giáo viên nhắc lại câu chuyện ở đầu bài và yêu cầu học sinh nói ra quan điểm của mình.
Sau khi học sinh phát biểu giáo viên chốt kiến thức: Ở xương có lớp màng xương gồm
những tế bào có khả năng phân chia tạo ra những tế bào mới, đẩy vào trong và hóa
xương. Do đó khi bị gãy xương chỉ cần cố định xương sau một thời gian lớp màng
xương sẽ sinh ra lớp xương mới hàn gắn lại chỗ xương bị gãy nên xương sẽ lành lại.
Qua đây giáo viên chỉ ra cho học sinh thấy việc “thầy mo” sử dụng tiền vàng làm thuốc
chữa bệnh là sai khoa học, qua đó giáo dục ý thức bảo vệ cơ thể cho các em tránh các
tập tục chữa bệnh lạc hậu.
11


Khi dạy bài 18: Vận chuyển máu qua hệ mạch. Vệ sinh hệ tuần hồn.

Cuộc thi chạy Maratơng
Để tạo hứng thú trước khi vào bài giáo viên kể cho các em một câu chuyện:
“Nguồn gốc cuộc thi chạy Maratông”

Năm 490 trước công nguyên, tại làng Maratông trong vùng Attic, quân đội Hi
Lạp đã đánh tan quân xâm lược Ba Tư, một người lính nhận lệnh chạy từ làng
Maratơng về thủ đô Aten để báo tin chiến thắng. Anh đã chạy một mạch 42,195 km
và chết ngay sau khi báo tin chiến thắng. Để kỉ niệm sự kiện đáng nhớ đó, từ 1896
người ta đã tổ chức cuộc thi chạy hằng năm từ Maratông đến Aten và vô số vận động
viên đã vượt qua quảng đường này an toàn với thời gian ngày càng rút ngắn. Tại sao
các vận động viên có thể chạy một quảng đường dài như vậy nhưng vẫn an toàn?

12


Qua câu chuyện này sẽ tạo cho các em sự tị mị, muốn tìm hiểu kiến thức để có
thể giải thích được sự phi thường mà các vận động viên đã làm được khi phải chạy qua
một quảng đường rất dài như vậy. Qua đó giáo dục cho các em ý thức tự giác rèn luyện
để có một cơ thể khỏe mạnh.
Khi dạy bài 22: Vệ sinh hô hấp
Trước khi học bài mới, giáo viên có thể mở bài bằng một câu chuyện
“Đốt than để sưởi ấm…”
Ngày 27 tháng 11 năm 2018 do thời tiết quá lạnh nên một gia đình ở thành phố
Vinh thuộc tỉnh Nghệ An đã đốt than trong nhà để sưởi ấm. Cả gia đình đã phải nhập
viên cấp cứu trong tình trạng khó thở, tức ngực và 1 người đã bị tử vong. Vậy tại sao
lại có hiện tượng này? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu qua bài 22: Vệ
sinh hô hấp. Khi học phần I- Cần bảo vệ hệ hơ hấp khỏi các tác nhân có hại, giáo viên
nhắc lại câu chuyện và yêu cầu học sinh lí giải hiện tượng đó. Qua việc chủ động tìm
hiểu kiến thức học sinh chỉ ra được: Đốt than sưởi ấm trong nhà đã thải ra khí cacbon
ơxit, khí cacbon ơxit này sẽ chiếm chỗ của ôxi trong máu, làm giảm hiệu quả hơ hấp, có
thể dẫn đến tử vong.
Khi dạy bài 27: Tiêu hóa ở dạ dày
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, trước khi học bài mới giáo viên kể cho các
em một câu chuyện

13


“Dạ dày biết nói…”
Một vụ án mạng xảy ra tại một khu trung cư, nạn nhân là một cô gái khoảng 25
tuổi. Sau khi tiếp nhận vụ án, bác sĩ pháp y tiến hành lấy dịch của dạ dày rồi phân
tích chúng và đã xác định được giờ chết của nạn nhân. Từ đặc điểm này các chiến sĩ
công an đã lần ra các đầu mối và tìm ra được thủ phạm. Vậy tại sao khi kiểm tra dịch
ở dạ dày bác sĩ pháp y có thể xác định được giờ chết của nạn nhân? Liệu có phải
chính dạ dày đã nói lên điều gì với bác sĩ pháp y? Để giải đáp được câu hỏi này chúng
ta cùng tìm hiểu qua bài 27: Tiêu hóa ở dạ dày. Khi học phần II- Tiêu hóa ở dạ dày, giáo
viên yêu cầu học sinh giải thích câu hỏi trong tình huống ở đầu bài. Sau khi các em trình
bày suy nghĩ của mình, giáo viên chốt kiến thức và cung cấp thêm một số thông tin cho
học sinh: Dạ dày giữ thức ăn một thời gian, dài hay ngắn tùy thuộc vào bản chất và trạng
thái thức ăn. Đối với thức ăn lỏng như cháo hoặc sữa qua dạ dày và được đẩy xuống ruột
ngay. Thức ăn gluxit như cơm tẻ lưu lại khoảng 2 giờ, cơm nếp khoảng 4 giờ. Thức ăn
chứa nhiều mỡ như thịt chiên, cá chiên…lưu lại trong dạ dày rất lâu khoảng 9 giờ hoặc
hơn một chút… Bác sĩ pháp y dựa vào đặc điểm này để xác địnhgiờ chết của nạn nhân.
Chẳng hạn, tử thi được phát hiện lúc 5 giờ sáng. Bác sĩ mổ khám nghiệm và phát hiện
cơm đang rời dạ dày qua ruột thì ngừng lại. Như vậy nạn nhân chết khoảng 2 giờ sau khi
ăn. Lúc này chỉ cần điều tra xem nạn nhân ăn tối lúc mấy giờ thì sẽ xác định được giờ
chết của nạn nhân.
* Khi dạy bài 34: Vitamin và muối khoáng
14


Giáo viên có thể mở bài bằng một câu chuyện ngắn:
“Chuyến thám hiểm của tàu Cartier”
Năm 1536, các thủy thủ và đoàn viên tàu Cartier tiến hành chuyến thám hiểm đi
Canađa, chuyến đi kéo dài mấy tháng trời, lượng thức ăn rau, củ, quả tươi mang từ

đất liền đã hết, mọi người trong đoàn chủ yếu ăn thịt cá suốt một thời gian dài. Nhiều
thủy thủ và đoàn viên trên tàu đã mắc một căn bệnh nghiêm trọng, đó là bệnh
Xcorbut, người bệnh bị chảy máu lợi, chảy máu dưới da, viêm khớp, đau cơ….và
nhiều người đã bị chết. Vậy tại sao họ lại bị mắc căn bệnh này? Để giải đáp câu hỏi
này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 34: Vitamin và muối khoáng. Điều này sẽ tạo cho
học sinh sự tị mị, muốn tìm hiểu kiến thức để lí giải được nguyên nhân gây bệnh trên.
Sau khi tìm hiểu phần I- Vitamin, giáo viên nhắc lại tình huống vào bài và yêu cầu học
sinh trình bày quan điểm của mình. Học sinh sẽ chỉ ra được nguyên nhân chính của căn
bệnh này là do trong khẩu phần ăn thiếu rau, củ, quả tươi nên cơ thể bị thiếu vitamin C
15


làm cho mạch máu giòn, dễ vỡ, gây chảy máu. Đồng thời qua đây giáo dục các em kỹ
năng thiết lập khẩu phần ăn chứa đầy đủ các chất, đặc biệt phải đủ các loại vitamin và
muối khoáng.
Khi dạy bài 52: Phản xạ khơng điều kiện và phản xạ có điều kiện
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh giáo viên mở bài bằng câu chuyện
“ Tào tháo với rừng mơ”
Trong một lần hành quân qua một chặng đường dài, trời vừa nắng và nóng,
quân sĩ của Tào Tháo vừa đói lại vừa khát, mọi người đều mệt lã tưởng chừng khơng
thể đi nổi nữa. Tình hình khá là nguy cấp vì cịn phải hành qn qua một đoạn
đường rất dài nữa mới đến nơi đóng quân. Thấy vậy, Tào Tháo liền thông báo cho
quân sĩ rằng: Các quân sĩ hãy cố gắng lên một chút nữa, ở phía trước có một khu
rừng mơ chín mọng, mọi người tha hồ mà ăn. Cuối cùng quân sĩ của Tào Tháo cũng
đến được nơi đóng quân. Vậy tại sao quân sĩ lại hết khát ? Để giải đáp câu hỏi này
chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 52: Phản xạ khơng điều kiện và phản xạ có điều kiện.
Khi học phần II- Sự hình thành phản xạ có điều kiện, giáo viên nhắc lại câu hỏi ở đầu
bài và yêu cầu học sinh đưa ra quan điểm của mình, sau khi học sinh đưa ra các ý kiến,
giáo viên chốt kiến thức, từ đó giúp các em khắc sâu kiến thức về sự hình thành phản xạ
có điều kiện.


16


Cũng trong bài này giáo viên có thể sử dụng một câu chuyện khác vào phần mở bài
như câu chuyện
“ Mèo của Trạng Quỳnh ”
Một vị chúa nọ có một con mèo rất đẹp, chúa rất yêu quý con mèo. Suốt ngày
chúa chăm bẵm, chơi đùa với mèo mà không quan tâm gì đến việc triều chính. Thấy
vậy, Trạng Quỳnh liền bắt trộm mèo của chúa và mang về nhà ni. Chúa cho qn
lính tìm kiếm khắp nơi, mãi một thời gian sau chúa thấy nhà Trạng Quỳnh có một
con mèo giống của mình liền đến địi mèo lại. Trạng quỳnh liền nói: Đây là mèo của
thần và để chứng minh là mèo của mình, Trạng Quỳnh liền mang ra hai bát cơm,
một bát bỏ đầy thịt, cá còn một bát chỉ có cơm chan nước canh. Con mèo liền tiến lại
gần bát cơm chan nước canh và ăn một cách ngon lành. Lúc này, Trạng Quỳnh liền
nói: Chúa thấy đấy, nhà thần nghèo, khơng có tiền mua cá, thịt nên chỉ toàn ăn cơm
chan với canh nên mèo nhà thần chỉ quen ăn món này mà thơi. Mèo nhà chúa sống
sung sướng , chỉ quen ăn cơm với cá và thịt, nên đây chính là mèo của thần. Lúc này
chúa đành mất mèo và ấm ức đi về. Vậy tại sao chúa chịu mất mèo? Để giải đáp câu
hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 52: Phản xạ khơng điều kiện và phản xạ có
điều kiện. Qua tìm hiểu kiến thức để giải đáp câu hỏi này học sinh chỉ ra được: Chính
Trạng Quỳnh đã tập cho mèo một thói quen mới, đó là chỉ được ăn cơm chan với nước
canh mà thơi. Từ đó, học sinh sẽ khắc sâu được kiến thức về sự hình thành phản xạ có

17


điều kiện. Đồng thời qua đây giáo viên lồng ghép giáo dục học sinh rèn luyện các thói
quen học tập tốt, các nếp sống văn minh….
- Giải pháp 2: Sử dụng các tình huống có trong thực tế vào giảng dạy.

Trong cuộc sống hằng ngày, có rất nhiều những tình huống nảy sinh làm xuất hiện
trong đầu các em rất nhiều thắc mắc, các em rất muốn tìm ra lời giải đáp cho những thắc
mắc đó. Trong giảng dạy, giáo viên sử dụng những tình huống có thể là những tình
huống có sẵn trong thực tế hoặc là những tình huống giả định mà giáo viên tạo ra có nội
dung liên quan đến bài học, nhằm mục đích yêu cầu học sinh hãy suy nghĩ và tìm ra
cách xử lí tình huống đó, điều này đã đặt ra cho các em một câu hỏi lớn buộc các em
phải huy động trí não, sự tập trung trí tuệ để giải quyết vấn đề, từ đó tạo cho các em tâm
thế học tập tốt, chủ động trong việc tìm tịi và lĩnh hội kiến thức, nâng cao chất lượng
bộ môn.
+ Biện pháp 1: Sử dụng các tình huống có sẵn
Các tình huống có sẵn là những tình huống nảy sinh trong cuộc sống hằng ngày, rất
quen thuộc với học sinh. Việc sử dụng các tình huống này trong giảng dạy, tạo cho học
sinh sự hứng thú, muốn tìm hiểu kiến thức để có thể giải quyết các tình huống đó.
Cách thức thực hiện: Đối với giải pháp sử dụng các tình huống có trong thực tế vào
giảng dạy giáo viên có thể sử dụng ở các bài như: Bài 6: Phản xạ; bài 13: Máu và môi
trường trong cơ thể; bài 14: Bạch cầu- miễn dịch; bài 15: Đông máu và nguyên tắc
18


truyền máu; bài 16: Tuần hồn máu và lưu thơng bạch huyết; bài 20: Hô hấp và các cơ
quan hô hấp; bài 21: Hoạt động hơ hấp….
Một số ví dụ cụ thể:
Khi dạy bài 6: Phản xạ
Giáo viên có thể mở bài bằng một tình huống: Khi tay ta chạm phải vật nóng, liền
rụt tay lại. Tại sao lại có hiện tượng này? Để giải đáp câu hỏi nàychúng ta cùng tìm hiểu
trong bài 6: Phản xạ. Từ tình huống này, sẽ tạo cho các em sự tò mò, muốn tìm ra kiến
thức để lí giải hiện tượng trên. Qua tìm hiểu kiến thức các em sẽ chỉ ra được đây chính
là một phản xạ của cơ thể để trả lời kích thích từ mơi trường. Đồng thời các em cũng
giải thích được cơ chế của phản xạ trên. Từ đó các em có thể giải thích được các hiện
tương tự mà các em gặp trong cuộc sống hằng ngày.

Khi dạy bài 13: Máu và môi trường trong cơ thể
Khi vào phần mở bài giáo viên đưa ra một tình huống có trong thực tế : Gia đình
bác Nam ở thơn Tân Lập có cơ con gái đang bị bệnh tiêu chảy, sau khi lấy thuốc về
cho con uống, bác còn bắt con gái phải uống nhiều nước, bác bảo: phải uống nhiều
nước để bổ sung lượng nước bị thiếu. Theo em việc bắt con gái uống nhiều nước khi
bị bệnh tiêu chảy của bác Nam như vậy có đúng không? Tại sao? Từ câu chuyện này
sẽ tạo cho các em hứng thú muốn tìm hiểu những kiến thức để lí giải cho các dự đốn
của mình …sau khi học phần I- Máu. Giáo viên yêu cầu học sinh nói ra quan điểm của
19


mình. Sau đó giáo viên chốt kiến thức: 90% huyết tương là nước nên khi bị tiêu chảy
hay bị sốt cơ thể mất nước nhiều, máu trở nên đặc và khó lưu thơng trong hệ mạch. Vì
vậy người bệnh cần phải uống nhiều nước để bổ sung lượng nước bị hao hụt. Từ đó giáo
viên giáo dục kỹ năng sống cho các em, để các em có thể xử lí được khi gặp các tình
huống tương tự trong cuộc sống.
Khi dạy bài 14: Bạch cầu- miễn dịch
Giáo viên mở bài bằng cách đưa ra một tình huống: Khi em dẫm phải gai, tại vết
trầy xước mới đầu bị tấy đỏ, sưng đau thậm chí có thể bị cống mủ, sau vài hơm thì
khỏi. Vậy chân khỏi là do đâu? Cơ thể đã tự bảo vệ mình như thế nào? Để giải đáp
những câu hỏi này các em cùng tìm hiểu qua bài 14: Bạch cầu – miễn dịch. Sau khi học
xong phần I- Các hoạt động chủ yếu của bạch cầu. Giáo viên nhắc lại câu hỏi trong tình
huống ở đầu bài và yêu cầu học sinh nói lên suy nghĩ của mình. Sau đó giáo viên chốt
lại kiến thức: Tại vết trầy xước bị tấy đỏ, sưng đau là do các vi khuẩn tập trung tấn công
tạo thành ổ sưng viêm. Sau vài hôm chân khỏi là do hoạt động của các bạch cầu đã tiêu
diệt được vi khuẩn, bảo vệ cơ thể.
Cũng trong bài này giáo viên có thể sử dụng một tình huống vào bài khác như: Có
người nói rằng: “Tiêm vacxin là tiêm vi khuẩn đã được làm yếu vào cơ thể, giúp cơ
thể không bị mắc bệnh” Theo em điều này có đúng hay khơng? Tại sao? Sau khi học
xong phần II. Miễn dịch. Giáo viên nhắc lại câu hỏi trong tình huống ở đầu bài và yêu

cầu học sinh trả lời, sau đó chốt kiến thức: Thực tế tiêm vacxin chính là tiêm các vi
20


khuẩn đã được làm yếu, khơng cịn khả năng gây bệnh vào cơ thể, để cơ thể tiết ra kháng
thể chống lại căn bệnh. Do đó sau khi tiêm vacxin một bệnh nào đó, cơ thể sẽ cơ thể sẽ
khơng mắc bệnh đó nữa.
Khi dạy bài 15: Đơng máu và nguyên tắc truyền máu

Trước khi vào bài mới giáo viên có đưa ra tình huống: Ở người bình thường, khi
làm việc chẳng may bị đứt tay, mới đầu tại vết đứt máu chảy nhiều, sau đó ít lại và
khơng chảy nữa. Nhưng ở một số người khác chỉ cần một vết thương nhỏ, máu cứ
chảy miết, chảy miết…nếu không cấp cứu kịp thời có thể gây nguy hiểm đến tính
mạng. Tại sao lại có những hiện tượng trên? Để giải đáp những câu hỏi này chúng ta
cùng tìm hiểu bài 15: Đơng máu và ngun tắc truyền máu. Từ tình huống này sẽ tạo
động lực cho các em tìm hiểu kiến thức để giải đáp thắc mắc của mình. Sau khi học
xong phần I- Đông máu, giáo viên nhắc lại tình huống vào bài và yêu cầu học sinh giải
21


thích các hiện tượng trên. Sau khi học sinh trình bày suy nghĩ của mình giáo viên chốt
kiến thức và mở rộng thêm kiến thức liên quan cho các em. Ở người bình thường, khi bị
đứt tay các tế bào tiểu cầu va chạm với vết rách của thành mạch máu ở vết thương nên
bị vỡ và giải phóng enzim. Enzim này kết hợp với chất sinh tơ máu có trong huyết tương
tạo thành các tơ máu, các tơ máu này ôm giữ các tế bào máu làm thành khối máu đơng
bịt kín vết thương nên máu khơng chảy nữa. Đối với những người bị bệnh máu khó đơng
do số lượng tế bào tiểu cầu trong máu quá ít nên chỉ cần một vết thương nhỏ, máu cứ thế
chảy miết, chảy miết… thậm chí người bị bệnh nặng, mặc dù khơng bị trầy xước cũng
có thể bị chảy máu trong các khớp chân, tay. Nếu không cấp cứu kịp thời có thể dẫn đến
phải tháo các khớp ở chân hoặc tay, gây nguy hiểm đến tính mạng.

Khi dạy bài 16: Tuần hồn máu và lưu thơng bạch huyết

22


Để tạo hứng thú cho học sinh trước khi vào học bài mới giáo viên đưa ra tình
huống: Có người nói rằng “Trong khẩu phần ăn mà thức ăn chứa nhiều chất
cơlesterơn (có trong thịt, cá, trứng, sữa…) có nguy cơ bị mắc bệnh sơ vữa động
mạch” Em có suy nghĩ gì về câu nói này? Bệnh sơ vữa động mạch gây ra tác hại gì?
Sau khi học phần I- Tuần hồn máu, giáo viên u cầu học sinh nói lên quan điểm của
mình về tình huống ở đầu bài. Qua tìm hiểu kiến thức bài học kết hợp với hiểu biết về
thực tế học sinh có thể đưa ra câu suy nghĩ của mình, giáo viên nhận xét và chốt kiến
thức: Trong khẩu phần ăn mà chứa nhiều chất cơlesterơn sẽ có nguy cơ bị bệnh xơ vữa
động mạch. Ở bệnh này, côlesterôn ngấm vào thành mạch kèm theo sự ngấm các ion
canxi làm cho mạch bị hẹp lại, khơng cịn nhẵn như trước, gây xơ vữa. Động mạch xơ
vữa làm cho sự vận chuyển máu trong mạch gặp khó khăn, tiểu cầu dễ bị vỡ và hình
thành cục máu đông gây tắc mạch. Đặc biệt nguy hiểm ở động mạch vành nuôi tim gây
các cơn đau tim, ở động mạch não gây đột quỵ. Bên cạnh đó động mạch xơ vữa gây ra
các tai biến trầm trọng như xuất huyết dạ dày, xuất huyết não, thậm chí gây tử vong.
Qua tình huống này, giáo viên định hướng cho các em biết cách xây dựng một khẩu
phần ăn hợp lí, tốt cho sức khỏe.
Khi dạy bài 20: Hơ hấp và các cơ quan hơ hấp
Giáo viên có thể mở bài bằng một tin tức có trên thời sự: Một em bé ở Gia Lai đã
tử vong do bị nghẹt thở sau khi ăn thạch rau câu. Vậy tại sao lại có hiện tượng này?
Để giải đáp câu hỏi này, chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 20: Hơ hấp và các cơ quan hô
23


hấp. Khi học phần II- Các cơ quan trong hệ hô hấp của người và chức năng của chúng,
giáo viên nhắc lại tình huống ở đầu bài và yêu cầu học sinh giải thích. Sau đó giáo viên

chốt kiến thức: Ở thanh quản có nắp thanh quản có thể cử động để đậy kín đường hơ hấp
khi chúng ta nuốt thức ăn. Trong trường hợp trên khi em bé khi ăn thạch rau câu đã mút
mạnh để lấy thạch vào miệng. Khi mút mạnh thì nắp thanh quản sẽ mở to, cùng với độ
trơn của miếng thạch đã chạy tọt vào cổ và lọt vào đường thở, chắn ngang gây nghẹt thở
và tử vong. Qua tình huống giáo viên có thể lồng ghép cách sơ cứu khi trẻ bị hóc dị vật
hoặc khi ăn khơng nên cười đùa có thể dẫn đến bị sặc…
Khi dạy bài 21: Hoạt động hô hấp
Để kích thích sự tị mị, hứng thú học tập của học sinh, giáo viên có đưa ra một tình
huống: Khi phát hiện một em bé mới sinh bị chết, làm thế nào để biết được chính xác
em bé đó chết trước hay sau khi lọt lòng? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm
hiểu bài 21: Hoạt động hơ hấp. Khi học phần I- Thơng khí ở phổi, giáo viên nhắc lại tình
huống vào bài và yêu cầu học sinh đưa ra suy nghĩ của mình, sau đó giáo viên chốt lại
kiến thức: Trẻ mới sinh đã cắt rốn mà vẫn cịn sống sẽ có động tác hít vào thở ra lần đầu
làm bật tiếng khóc chào đời. Trước khi có tiếng khóc chào đời phổi trẻ chưa hề có khơng
khí. Nên nếu trẻ chết từ trong bụng mẹ thì mơ phổi cịn đặc do đó nặng hơn nước, còn
nếu trẻ lọt lòng mà còn sống dù chỉ cất tiếng khóc một lần thơi, khi khơng khí tràn vào
phổi có một phần sẽ ở lại mãi trong đó nên mơ phổi trở nên xốp và nhẹ hơn nước. Vì
vậy trong pháp y, khi cần xác định một trẻ sơ sinh chết từ khi còn nằm trong bụng mẹ
24


hay sau khi lọt lòng, chỉ cần cắt một miếng phổi, bỏ vào một cốc nước rồi theo dõi xem
nó chìm hay nổi. Nếu phổi chìm thì em bé đó bị chết trong bụng mẹ, cịn nếu phổi nổi
thì em bé đó chết sau khi lọt lịng. Cũng trong bài này giáo có thể đặt ra câu hỏi “ Vì sao
có tiếng khóc chào đời” trước khi vào bài mới.
+ Biện pháp 2: Tạo ra các tình huống giả định
Bên cạnh các tình huống có sẵn trong thực tế, giáo viên có thể sáng tạo ra các tình
huống giả định để kích thích hứng thú học tập cho học sinh. Từ các tình huống đó buộc
học sinh phải tự tìm hiểu kiến thức nền và đưa ra cách giải quyết tình huống đó, giúp
các em khắc sâu kiến thức.

Cách thức thực hiện: Giáo viên có thể áp dụng biện pháp này vào các bài cụ thể
như: bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương; bài 13: Máu và mơi trường trong cơ thể; bài
15: Đông máu và nguyên tắc truyền máu; bài 38: Bài tiết và cấu tạo hệ bài tiết nước tiểu;
bài 40: Vệ sinh hệ bài tiết nước tiểu
Một số ví dụ cụ thể:
Khi dạy bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương
Khi vào phần mở bài giáo viên đưa ra tình huống: Bạn Nam và bạn Hải đang
tranh luận với nhau về một vấn đề như sau:
Bạn Nam: Theo tớ thì xương của người già sẽ cứng và chắc nên sẽ ít bị gãy hơn
so với trẻ em.
25


×