Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Phân tích bài thơ Vội vàng ( Xuân Diệu), ngữ văn 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.12 KB, 5 trang )

VỘI VÀNG
Xuân Diệu
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
- Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, “là ơng hồng của thơ tình u”.
- Ơng là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ với một tâm hồn khát khao giao cảm với đời.
2. Tác phẩm
- Xuất xứ: trích từ tập Thơ thơ
- Thể thơ: tự do
- Bố cục: 3 phần
- Là sáng tác tiêu biểu của Xuân Diệu trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945
II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
1. Đoạn 1 (13 câu thơ đầu): tình yêu tha thiết đối với cuộc sống
- Bốn câu thơ đầu: Ước muốn của nhà thơ
Ngày từ nhan đề của bài thơ “Vội vàng”, ta đã cảm nhận được sự hăm hở, sôi nổi cùa Xuân Diệu đối
với cuộc sống này. Một cách sống khác biệt, sống để chạy đua với thời gian, chạy đua với thực tại để rồi
níu kéo và có những ước muố trái ngược với quy luật tự nhiên và dường như muôn tước đoạt quyền của
tạo hóa nhằm muốn bắt thiên nhiên ngừng lại để tận hưởng hương sắc của mùa xuân.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Mở đầu bài thơ là một khổ thơ ngũ ngôn thể hiện mạnh mẽ được khát vọng sống xen lẫn trong đó là sự
lặp lại hai lần cấu trúc “Tôi muốn… cho../’ đã gợi lên sự cuống quýt, vội vàng của Xuân Diệu khi ông đã
dần ý thức được sự trôi qua lặng lẽ của thời gian. Điệp ngữ “tôi muốn” kết hợp với những động từ mạnh
như “tắt”, “buộc” thể hiện khao khát ngông cuồng, cháy bỏng muốn đoạt quyền tạo hóa xưa nay chưa
từng có của nhà thơ.
+ Xuân Diệu muốn “tắt nắng” và “buộc gió” cho “màu đừng nhạt mất”, “cho hương đừng bay đi”. Ơng
muốn lưu giữ nó bên mình để được thưởng thức một cách trọn vẹn, mãi mãi. Bởi vì đối với Xn Diệu,
khi ơng đã có khát khao sống được trọn vẹn chữ sống, ông luôn muôn giữ cho mình cái màu của nắng, cái
hương của mùa xuân để đừng bao giờ nhạt mất và bay đi. Đây cũng chính là đoạn thơ thế hiện rõ nhất cái


tơi của tác giả. Hơn thế nữa, Xuân Diệu luôn khát khao, thèm sống đến ngông cuồng, táo bạo:
“Muôn nỗi ấm với mn ngàn nỗi mát
Ta đều ăn nhấm nhía rất ngon lành”
=> Xuất phát từ tình yêu tha thiết đối với cuộc sống.
- Bảy câu tiếp theo: Bức tranh xùa xuân
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Nếu như khổ thơ đầu tác giả sử dụng những hành động táo bạo thì ở khổ thơ này là những câu thơ mang
đầy sự liên tưởng, thi vị. Các hình ảnh xuất hiện trong khổ thơ là tất cả các sự vật đều đang ở thì đẹp nhất,
tươi non nhất Nói như Thế Lữ: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa lồi người. Lầu thơ
của ơng xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”
“Ta ôm bó, cánh tay ta làm rắn,
Làm dây da, quẫn qt cả mình xn.
Khơng muốn đi ,mãi mãi ờ vườn trân,
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất.”
Là người sinh ra để sống ,để yêu, Xuân Diệu luôn cảm nhận cuộc sống bằng mọi giác quan. Với
ngôn từ rất Tây, cách nói rất Tây, Xuân Diệu đã vẽ nên một thiên đường trên mặt đất. Trong thiên đường
ấy, Xuân Diệu như một con ong say mật ngọt cuộc đời. Bằng nghệ thuật điệp từ, điệp lại năm lần từ “này
đây”‘ như một nốt nhạc chủ đạo, Xuân Diệu muốn khẳng định: ở ngay tại đây, ngay chốn trần gian này,


cuộc sống, thiên nhiên ln tồn tại những điều kì diệu nhất. Khơng phải tìm kiếm đâu xa, hãy tận hưởng
những mật ngọt ấy. Với việc sử dụng điệp từ “của”, điệp ngữ “này đây” kết hợp với phép liệt kê, nhà thơ
như phơi bày trước mắt người đọc sự phong phú bất tận của thiên nhiên.
+ Đó là thiên nhiên của mùa xuân trần thế dạt dào nhựa sống, vạn vật đang ở độ đương thì tươi ngon

nhất, đẹp đẽ nhất.
./ “Tuần tháng mật” của đôi vợ chồng đắm say trở thành mùa của ong bướm dập dìu rất lãng mạn.
./ Cảnh vật của mùa xuân: hoa, lá, đồng cỏ… tất cả hiện hữu tràn đầy sức sống, Cánh đồng nội thì được
phủ lên một màu xanh mơn mởn “xanh rì” làm nền để các bơng hoa chen nhau đua nở, cùng khoe sắc
màu rực rỡ của mình. Trên những tán cây, điểm trang là sự trỗi lên của các “cành tơ” non đến nõn nà
quyến rũ, sắc màu, đường nét, không thế thiếu thanh âm. Và đây, một khúc nhạc tình si lãng mạn đã được
hịa âm bởi các chú chim yến, anh làm cho cảnh xuân thêm lung linh, thơ mộng và tràn đầy sức sống. Pha
vào đó là một nguồn ánh sáng ấm áp dịu dàng của mùa xuân làm chớp đôi mi của người con gái xinh đẹp.
Thế đấy, hồn thơ Xuân Diệu khiến cho cảnh vật như cũng có linh hồn. Từ ong bướm, cỏ cây, vạn vật đều
không phải là vô tri mà luôn chứa đựng linh hồn và cảm xúc như con người. Vậy cịn chần chừ gì nữa?
Hãy tận hưởng, hãy mở lịng mình để đón nhận những ngày vui.
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Mỗi ngày một niềm vui, vui đến ngất ngây như “rượu tối tân hôn”, Xuân Diệu hằng khát khao như thế.
Vậy nên thi nhân ln làm mới mình, làm mới cảm xúc hằng ngày, hằng giờ. Với Xuân Diệu cuộc đời
không đơn điệu mà lúc nào cũng tràn ngập niềm vui, mỗi ngày mới đến là niềm vui cũng gõ cửa ùa vào
mà ở đây hình ảnh tác giả sử dụng là vị thần độ lượng, luôn muôn đem đến hạnh phúc niềm vui cho từng
người: “Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa”. Vị thần ấy không ở đâu xa, khơng phải trong cổ tích xa
xăm mà ngay quanh ta. Vấn đề là ta có mở cửa ra mà đón nhận hay khơng.
Ý thơ Xn Diệu thật thi vị vơ cùng. Chất thi vị đó chính là tình yêu của thi nhân đối với cuộc sống.
Thật đáng trân trọng nhường nào! Cũng bởi quá yêu cuộc sống mà Xuân Diệu đã đi ngược lại với lôi
miêu tả của thơ ca truyền thống. Nêu thơ xưa thường lấy thiên nhiên làm trung tâm, làm thước đo chuẩn
mực cho mọi vẻ đẹp của con người, thì ngày nay Xuân Diệu lại lấy con người làm chuẩn mực của thiên
nhiên. Đặc biệt thức ngon nhất trong cuộc sống trần thế này, với Xn Diệu khơng nằm ngồi Xn –
Tình – Thiếu nữ. Ba điều đẹp nhất của trần thế ấy đều hài hòa với nhau trong thơ Xuân Diệu. Ta hãy xem
thi nhân làm phép so sánh:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Một lối so sánh táo bạo, rất Tây, rất Xuân Diệu không trộn lẫn vào đâu được. Bằng trường liên tưởng vô
cùng sáng tạo, tác giả đã tạo nên cái hồn cho tháng giêng, cái tháng bắt đầu của mùa xuân rực rỡ, thơ
mộng nhất. Cả tháng giêng như một bữa tiệc hấp dẫn mà thi nhân nhấm nháp, thưởng thức một cách

khoái khẩu “ngon như một cặp môi gần”. Tác giả cảm nhận được sự ngọt ngào từ đôi môi cũng như cảm
nhận được sự ngọt ngào của tết xuân đem lại cho đời.
Xuân Diệu là thế đấy, hễ yêu là phải yêu đến “toàn tâm toàn ý toàn hồn”. Thế nên, thi nhân thường thức
nhận bằng mọi giác quan đê khao khát, để hưởng thụ đến vồ vập say mê. Xuân Diệu từng nói :
“ Ta kẻ đưa răng bấu mặt trời
Kẻ uống tình yêu dập cả mơi”
u như thế thì thật khơng ai vượt qua khỏi. Ngơi vị ơng hồng của tình u thật xứng đáng dành cho
ông.
- Hai câu thơ cuối: Tâm trạng của nhà thơ
+ Càng yêu đời, nhà thơ càng luyến tiếc trước dòng chảy của thời gian. Trước cảnh đẹp say lịng và cảm
thức về thời gian đang trơi, nhân vật trữ tình thể hiện sự tiếc nuối, bâng khuâng đầy nhạy cảm” “Tôi sung
sướng. Nhưng vội vàng một nửa”.
+ Vì thế, nhà thơ luyến tiếc mùa xn khi nó còn đang hiện hữu.
Mùa xuân đẹp lắm, tuyệt vời lắm. Ai cũng khơng muốn nó mất đi để rồi thương nhớ. Nhưng điểu đó chỉ
là mơ ước đen khi nó mất rồi thì tất cả những sự vật đều phải ngậm ngùi xót xa và từ đó những câu thơ
của Xuân Diệu ở những dòng thơ sau trở nên buồn bã. Buồn cũng bởi vì yêu và rồi lại khát khao cuồng
nhiệt hơn nữa. Nói tóm lại, nếu Vội vàng là tuyên ngôn của quan niệm sống gấp, sống vội thì khổ thơ đầu
đã thay lời cho sự lí giải căn nguyên tại sao Xuân Diệu lại phải sống như vậy. Đơn giản chỉ vì chữ “tình”
bời quá yêu cuộc đời, khát khao vô biên mà ra.
2. Đoạn 2 (16 câu thơ tiếp theo): Tâm trạng băn khoăn của tác giả trước thời gian và cuộc đời


**. Quan niệm về thời gian của thơ ca trung đại
– Thời gian trong thi ca trung đại là “thời gian tuần hồn”, nghĩa là thời gian được hình dung như một
vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng lại quay về điểm xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi.
– Quan niệm “thời gian tuần hoàn” xuất phát từ cái nhìn tĩnh, có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để
làm thước đo thời gian.
**. Quan niệm thời gian của Xuân Diệu
– Xuân Diệu quan niệm “thời gian tuyến tính” xuất phát từ cái nhìn động:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
Xuân Diệu nhìn cuộc đời bằng con mắt xanh non biếc rờn nhưng cũng không tránh khỏi những hoài
nghi, mất mát. Điều thi sĩ sợ nhất là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bởi thời gian là tuyến tính nên thời
gian như một dịng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn. Cách dùng cặp từ đối lập trong
hai câu thơ “Tới – qua”, “non – già” đã cho người đọc thấy được sự cảm nhận rất đỗi tinh tế của thi nhân
về bước đi của thời gian. Thời gian như dịng chảy khơng ngừng nghỉ. Cái ta đang có cũng là cái ta đang
mất, trong hiện tại đã có quá khứ và hé mở tương lai.
– Xuân Diệu lấy sinh mệnh cá thể của mình làm thước đo thời gian. Ông lấy quỹ thời gian hữu hạn của
cuộc đời mình ( sinh mệnh cá thể ) ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí thi sĩ lấy quãng ngắn
nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của con người là tuổi trẻ để làm thước đo:
“Mà xn hết nghĩa là tơi cũng mất.
Lịng tơi rộng nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian.
Nói làm chi rằng xn vẫn tuần hồn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời ”
Chữ “Xuân” được điệp đi điệp lại cả năm đến sáu lần (trong ba câu đầu đã có tới năm lần). “Xuân” ấy
vừa là xuân của đất trời vừa là “xuân” của cuộc đời, của tuổi trẻ. Mỗi lần nhắc lại là mỗi lần ta bắt gặp cái
ngậm ngùi của thi nhân. Xn của thiên nhiên thì cịn mãi mà “xn” của đời người đã “hết” thì “tơi cũng
mất”. Dù lịng u có “rộng” đến bao nhiêu thì “lượng trời” vẫn cứ chật. Nên “tuổi trẻ nhân gian” không
thể “dài” thêm mãi. Ở đây, hệ thống từ ngữ, hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ (tới –
qua, non –già, rộng – chật, xuân tuần hoàn, – tuổi trẻ chẳng hai lần, còn – chẳng còn) để làm nổi bật tâm
trạng nuối tiếc thời gian, cuộc đời. Vũ trụ có thể vĩnh viễn, mùa xuân rồi cũng tuần hồn nhưng tuổi xn
của con người chỉ có một lần, đã qua là qua mãi.
+ Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định quan niệm của người xưa:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !”
+ Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại “chẳng hai lần thắm lại” thì làm
chi có sự tuần hồn ! Trong cái mênh mơng của đất trời, cái vơ tận của thời gian, sự có mặt của con người

thật là ngắn ngủi, hữu hạn.
+ Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:
“Còn trời đất, nhưng chẳng cịn tơi mãi
Nên bâng khng tơi tiếc cả đất trời”
– Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát. Mỗi khoảnh khắc trơi qua là một
sự mất mát lớn lao. Sự tàn phai không chỉ đến “khắp sơng núi” mà cịn ở từng cá thể. Và thời gian trôi đi
sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào
tránh khỏi:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”
Đây là hai câu thơ thể hiển rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu. Cảm nhận ấy không
chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng cả khứu giác “mùi tháng năm”, cả vị giác “vị chia phôi”. Mỗi
khoảnh khắc đang rời bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia lìa. Khoảnh
khắc nào cũng là một chia lìa, một mất mát. Và dịng thời gian được nhìn như một chuỗi vơ tận của những
mất mát, chia phôi. Cho nên, thời gian thẫm đẫm hương vị của sự chia lìa. Dậy lên đó đây khắp khơng
gian là lời than thở tiễn biệt “khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. Nó là lời thở than của vạn vật, là
không gian đang tiễn biệt thời gian, mà sâu xa hơn là mỗi sự vật thời gian đang ngậm ngùi tiễn biệt một


phần đời của chính nó.
Những phần đời của sinh mệnh cá thể đang ra đi không thể nào cưỡng lại, nó tạo nên sự trơi chảy khơng
ngừng, tạo nên sự phơi pha, phai tàn của từng cá thể:
“Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”
Gió đùa trong lá khơng phải là những âm thanh của thiên nhiên tươi vui của mùa xuân, mà là lời “thì
thào” về nỗi hờn giận, buồn thương. Gió phải chia tay với cây lá mà bay đi; chim chóc trên cây đang ca
hát rộn ràng chào xuân bỗng ngừng bặt, chẳng phải có sự đe dọa nguy hiểm nào, mà chỉ vì chúng buồn
tiếc cho mùa xuân sắp trôi qua. Thế là chẳng riêng gì Xuân Diệu mà cả vạn vật trong thiên nhiên cũng

thức nhận về cái quy luật nghiệt ngã, cái một đi không bao giờ trở lại của thời gian ấy.
– Xuân Diệu đưa ra một quyết định hợp lí cho mình và cho tất cả mọi người “Tơi khơng chờ nắng hạ mới
hoài xuân”.
- Kết thúc đoạn thơ là một tiếng thốt:
“Chẳng bao giờ ôi! chẳng bao giờ nữa
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”
Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì “mùa chưa ngả chiều hơm”, nghĩa là vẫn
cịn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả “Mau đi thôi”. Câu cảm thán với cách ngắt
nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lịng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khng. VÌ khơng
thể “buộc gió”, khơng thể “tắt nắng”, cũng khơng thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất
là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống .
* Đánh giá chung
– Cách cảm nhận về thời gian như vậy xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự sống cá
thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời mỗi người đều vô cùng q giá, chính vì một khi đã mất đi là vĩnh viễn
mất đi!
– Quan niệm ấy khiến cho con người biết quý từng giây phút của đời mình. Và người ta biết làm cho mỗi
khoảnh khắc của đời mình cần phải tràn đầy ý nghĩa. Có như thế mới là biết sống.
Đây là cơ sở sâu xa của thái độ sống “Vội vàng”.
– Rõ ràng toàn bộ quan niệm, thái độ về “thời gian tuyến tính” phải sống “Vội vàng” cho cuộc đời tuy
ngắn ngủi nhưng tràn đầy ý nghĩa, đã thể hiện rất tích cực, rất đáng trân trọng của tư tưởng Xn Diệu.
=> Khơng thể níu giữ được thời gian nên Xuân Diệu phải sống “vội vàng” tận hưởng
3. Đoạn 3 (10 câu thơ cuối): Lời giục giã của một con người yêu đời tha thiết
- Chính vì bất lực trước quy luật khắc nghiệt của thời gian nên tác giả mới “ vội vàng” giục giã mọi người
tận hưởng tất cả những gì đẹp đẽ nhất trên thế gian này, trân trọng từng phút giây được sống:“Mau đi
thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
- Điệp ngữ “ta muốn” như phơi bày ra hết sự cuồng nhiệt của Xuân Diệu với cuộc sống trần thế, khao
khát được tận hưởng cuộc sống mãnh liệt.
- Nhịp thơ được tạo bởi những câu dài, ngắn xen kẽ tạo nên nhịp thơ dồn dập, sôi nổi, hối hả.
- Những động từ mạnh, tăng tiến dần: “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn” chứng tỏ Xuân Diệu nồng
nhiệt, rối rít, cuống quýt, như muốn cùng lúc giang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xn vào lịng

mình.
- Hạnh phúc của sự sống là mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc. Tận hưởng cuộc đời chính là có được cảm
nhận về những điều ấy ở độ tràn trề nhất. Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”,
“chuếnh choáng”, “đã đầy”.
- Xuân Diệu là một nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới, vì thế tâm hồn ơng ln có những khao khát
ham sống đến tột cùng, thể hiện một tâm hồn trẻ trung, năng động và nhiệt huyết với đời. Nếu muốn được
giao cảm với đời nhiều hơn nữa, không cịn cách gì khác ta phải tăng tốc độ và cường độ sống lên nhiều
hơn nữa. Một cái tôi không những trẻ trung mà cịn rất tích cực. Đó cũng là một trong những châm ngôn
sống mà thế hệ trẻ cần học hỏi từ Xuân Diệu
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Cịn hơn le lói suốt trăm năm”
Xn Diệu chính là đây, hồn thơ Xn Diệu vì sao ln được coi là trẻ trung nhất là đây. Cảm ơn Xuân
Diệu đã dạy cho ta một cách sống ý nghĩa và tích cực. Cuộc đời ngắn ngủi, vì thế mỗi chúng ta hãy luôn


vận động, nhiệt huyết tối đa với cuộc đời. Cảm ơn những lời thơ của Xuân Diệu, đó sẽ mãi là bài học muôn
đời dành cho muôn thế hệ.
- Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân như một cái gì quý nhất,
trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, xuân hồng, để cho nhà thơ tận
hưởng trong niềm khao khát cao độ:
“- Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!”
- Đây chính là đỉnh điểm của sự khao khát cháy bỏng của nhà thơ. Dưới ngòi bút của Xuân Diệu mùa
xuân hiện lên rõ rệt và sống động như có hình, có dáng, có hồn, có sắc “Xn hồng”. Mùa xn như mơi,
như má của một người thiếu nữ trẻ trung, tràn trề nhựa sống và đẹp xinh, trinh nguyên đang rạo rực yêu
đương. Đứng trước cái hấp dẫn của mùa xuân, cuộc sống, thi sĩ hình như khơng nén được nỗi lịng u
nên đã đi đến một cử chỉ cũng thật đáng yêu: “ta muốn cắn vào ngươi!”.
Có mong ước nào vồ vập, cuống quýt và táo bạo như Xuân Diệu, nhà thơ coi mùa xuân là nàng xuân đang
mang những hương sắc của tình u và sự sống đến mn nơi. Từ “cắn” thực sự đã lột tả được chính xác
tinh thần và điệu hồn trong thơ Xuân Diệu, thơ ông bao giờ cũng là thể hiện của những cảm xúc ái tình, của
những lời yêu gọi mời trong gió. Nó là khát khao, mà cũng là một lời tỏ bày đầy tha thiết của cái tôi Xuân

Diệu, cảm tưởng như nhà thơ đã từng nói trước đó:
“Muốn ngoạm sự sống để làm êm nỗi khát thèm”
Nên thật dễ hiểu khi nhà phê bình văn học Hồi Thanh từng nhận xét:
“Xn Diệu đã mang một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lạnh lẽo này, và lúc nào lòng
thi nhân cũng rộn ràng để mang phấn thơng của tình u gửi đến mn nơi”.
Có lẽ điệu sống ấy, chất trẻ ấy, và chất mơn mởn xuân tình ấy đã khiến độc giả không thể khước từ Xuân
Diệu, chỉ muốn mượn câu thơ của thi nhân để hát lên những điệu hồn trong tâm hồn mình.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật sử dụng từ ngữ, hình ảnh sinh động, độc đáo
- Nhịp thơ linh hoạt, ngắt nhịp dồn dập gợi cảm giác rạo rực như chính lời giục giã sống mãnh liệt của
nhà thơ
- Giọng thơ sôi nổi, đắm say trước cuộc đời không chỉ bộc lộ cái tơi riêng mà cịn hồ vào cái ta chung
của cuộc đời
2. Ý nghĩa văn bản
- Lòng yêu đời say đắm, tha thiết, mạnh mẽ của tác giả
- Lời giục giã yêu đời, yêu người, yêu cuộc sống, trân trọng từng giây phút cuộc đời đặc biệt là tuổi trẻ



×