SKKN Đưa phim truyền hình và phim tư liệu vào trong các tiết dạy môn Ngữ
văn 9 nhằm làm tăng hứng thú học tập cho học sinh
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Người xưa vẫn thường nói: “Biết mà học khơng bằng thích mà học, thích mà
học khơng bằng say mà học”. Yếu tố cảm xúc, say mê chính là động lực lớn thúc
đẩy, nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của mỗi chúng ta. Thế
nhưng hiện nay, đa phần các em học sinh không mấy hứng thú với môn Ngữ Văn.
Hầu như các em và kể cả phụ huynh học sinh thường quan tâm tới các mơn Tự
nhiên. Họ cho rằng: thời kì Khoa học hiện đại phát triển thì xã hội cần những người
tài giỏi về các mơn Tốn, Lí, Hóa, Ngoại ngữ, Tin học, cịn riêng mơn Văn mấy ai để
ý tới.
Văn vốn lãng mạn, giàu tính tưởng tượng, khơng khơ khan, nhưng vì cho rằng
thiếu “năng khiếu” nên hầu hết các em thấy chán nản, không đam mê học. Dần rồi
thành thói quen, học cho có, học một cách đối phó, miễn cưỡng.
Xuất phát từ những thực tại còn tồn đọng và kinh nghiệm giảng dạy thực tiễn
của bản thân, với mong muốn, trong từng bài dạy, trong từng giờ học văn, học sinh
ln hứng thú, chủ động, u thích mơn học. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả dạy
học nên tơi chọn đề tài: “Đưa phim truyền hình và phim tư liệu vào trong các tiết
dạy môn Ngữ văn 9 nhằm làm tăng hứng thú học tập cho học sinh” trong cơng
tác giảng dạy của mình.
II. Mục đích nghiên cứu
Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn lớp 9 tôi nhận thấy muốn giờ dạy đạt
hiệu quả cao, giáo viên phải khơi dậy được hứng thú học tập của học sinh. Từ đó
mới phát huy được tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh. Thực tế cũng đã
chứng minh rằng, khi giáo viên khơi gợi được hứng thú học tập thì hiệu quả được
nâng cao, học sinh tích cực chủ động trong học tập. Trong phạm vi của Sáng Kiến
Kinh Nghiệm, tôi xin đề cập đến phương pháp: “Đưa phim truyền hình và phim
1
tư liệu vào trong các tiết dạy môn Ngữ văn 9 nhằm làm tăng hứng thú học tập
cho học sinh” với mục đích thực hiện mục tiêu đổi mới phương pháp dạy và học,
tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Đồng thời phát huy được
tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng
lớp học, môn học. Bồi dưỡng cho các em phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh khi học Văn.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
Ơng cha ta vẫn thường nói “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Từ sự
quan sát chứng kiến thực tế, con người ta sẽ học hỏi, biết thêm được nhiều điều mới
lạ, bổ ích. Có dịp “khơi những nguồn chưa ai khơi” và biết những điều nhiều người
chưa biết. Từ việc tiếp xúc thực tế, học sinh sẽ có ấn tượng sâu sắc hơn, rõ nét hơn
và chắc chắn là nhớ lâu hơn nếu chỉ nghe bằng tai. Bởi vậy mà phương pháp “trực
quan” - “mắt nhìn” mà trong giáo dục có vai trị vơ cùng quan trọng.
Đối với mơn Ngữ văn, trực quan không chỉ dừng ở mức để nhận biết sự vật, sự
việc mà trực quan cịn có giá trị khơi dịng cảm xúc, gợi hứng thú, tích cực học tập,
từ những rung động chân thành, người học sẽ có tâm thế học tốt hơn, hiệu quả hơn.
Như Hoài Thanh đã từng khẳng định văn chương là hình dung của sự sống,
xuất phát từ trong cuộc sống. Chính vì thế, người giáo viên dạy Văn phải biết tái
hiện bức tranh hiện thực cuộc sống ấy trước mắt học sinh, biến những bài học khơ
khan trở thành những giờ giải trí, giúp các em khám phá được bao điều kì thú của
cuộc sống con người. Thế nhưng, làm thế nào để các em cảm nhận hết được cái hay,
cái đẹp của văn chương, có hứng thú và đam mê học văn hơn? Đó khơng chỉ là câu
hỏi làm nhức nhối biết bao thế hệ nhà giáo mà đó cịn là trách nhiệm chung của toàn
xã hội, của tất cả những người làm công tác giáo dục và đặc biệt là của chính bản
thân người giáo viên giảng dạy bộ mơn này.
Là giáo viên dạy văn có lẽ chúng ta đều cơng nhận rằng cái khó nhất mà cũng
quan trọng nhất trong dạy học văn chính là khơi gợi những cảm xúc, những rung
2
động trong tâm hồn người học sinh. Từ đó hình thành sợi dây tình cảm gắn kết
người học với bộ mơn. Để làm được điều này, địi hỏi người giáo viên vận dụng
nhiều phương pháp, biện pháp như hỏi - đáp, thuyết trình, và đặc biệt là trực quan.
II. Thực trạng của vấn đề:
1. Thuận lợi
- Được sự quan tâm của Sở, Phòng giáo dục và Ban giám hiệu nên hàng năm
các giáo viên đều được bồi dưỡng thường xuyên về vấn đề thay sách và đổi mới
phương pháp dạy học.
- Bên cạnh đó tơi cịn được sự giúp đỡ nhiệt tình và trao đổi những kinh nghiệm
quý báu từ các đồng nghiệp trong tổ chuyên môn, cụm tổ bộ môn cũng như các đồng
nghiệp cùng bộ môn trong huyện nhà.
- Bản thân tơi cũng có nhiều cố gắng học hỏi, tìm tịi những phương pháp
giảng dạy phù hợp nhằm nâng cao chất lượng bộ môn và đặc biệt là giúp các em
ham thích mơn học này.
- Phần lớn các em đều là học sinh chăm ngoan của những năm học trước. Vì
thế, hầu hết các em đã ý thức được Ngữ văn là môn học quan trọng. Các em luôn cố
gắng phấn đấu để đạt được kết quả tốt, không bị khống chế trong xếp loại học lực.
Các giờ học đã có sự nhiệt tình, năng nổ nên việc xây dựng bài học theo hướng kích
thích nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh đạt được hiệu
quả cao.
2. Khó khăn
- Với độ tuổi cịn nhỏ, các em chưa được tiếp xúc nhiều với thế giới bên
ngoài. Nhiều lĩnh vực, nhiều hiện tượng, sự vật trong tự nhiên, xã hội ...các em chưa
biết đến. Thế nên việc dạy và học văn thuyết minh (đề cập đến các tri thức ở mọi
lĩnh vực đời sống) là một điều tương đối khó.
- Hơn nữa tài liệu minh họa và đồ dùng dạy học phục vụ cho việc giảng dạy
chưa phong phú (chủ yếu chỉ có vài bức tranh ảnh và tài liệu tham khảo) nên việc
chuẩn bị bài đầu tư cho mơn học cịn gặp nhiều khó khăn.
3
- Trường tôi đang dạy là một trường ở thị trấn nhưng đa phần học sinh xuất
thân từ nông thôn, di cư từ nhiều vùng đến. Hồn cảnh gia đình các em cịn nhiều
khó khăn. Nhiều em do áp lực gia đình về học hành nên học theo kiểu đối phó.
- Tâm lí học sinh đa phần là ngại học Văn. Các em cho rằng Văn “dài dòng”, đã
vậy lại khơng có cảm xúc thật, điểm khơng được cao như các môn khác. Mỗi lần
soạn bài các em hầu như xem sách tham khảo rồi chép, dẫn đến cách học thụ động.
Cách hiểu và học Văn như thế khiến các em học ngày càng yếu đi, dẫn đến chán
học, ngại học, thấy Văn là “buồn ngủ”.
- Một số gia đình do hồn cảnh khó khăn, lo làm ăn để trang trải cuộc sống nên
chưa quan tâm đến việc học tập của con em. Một số khác do công việc bận bịu nên
bỏ bê con cái, phó mặc cho nhà trường nên dẫn đến các em lơ là, chểnh mảng trong
học tập, đặc biệt là môn Văn.
* Chất lượng bộ môn Ngữ văn của 3 lớp đang tiến hành khảo nghiệm và thực
hiện giải pháp của năm học 2017-2018:
Lớp
Sĩ
Điểm
Tỉ lệ
Điểm
Tỉ lệ
số
Giỏi
8A1
25
0
0
5
20
15
60
5
20
8A2
25
0
0
6
24
15
60
4
16
8A3
32
8
25
12
37.5
12
37.5
0
0
Khá
Điểm
Tỉ lệ
TB
Điểm Tỉ lệ
Yếu
Từ những thực trạng trên, tôi đã lần lượt áp dụng các giải pháp vào 3 lớp mà tôi
đang trực tiếp giảng dạy (9A1,9A2,9A3) nhằm phát huy được tính tích cực, chủ
động của học sinh đồng thời giúp học sinh tăng hứng thú khi học Văn, nâng cao chất
lượng bộ môn Ngữ văn.
Trước khi tiến hành áp dụng các giải pháp đưa phim tư liệu và phim truyền
hình vào bài giảng, tôi đã tiến hành khảo sát mức độ u thích của học sinh đối với
mơn Ngữ văn.
Tơi đưa ra câu hỏi khảo sát đối với 82 em học sinh: Em có thích học mơn
Ngữ văn khơng? Vì sao?
4
Sau khi làm bài, kết quả mà giáo viên thu được như sau:
Sĩ số khảo sát là 82 em, trong đó có 15 em trả lời u thích chiếm 18.3%, cịn
lại 67 em trả lời khơng thích hoặc khơng biết chiếm 81,7%. Đa số lí do các em nêu
ra như sau:
- Môn Ngữ văn nhiều chữ quá nên khi học dễ mệt mỏi, buồn ngủ.
- Khi học văn các em ít được xem hình ảnh, tư liệu… nên ít gây được hứng
thú…
III. Các giải pháp tiến hành để giải quyết vấn đề
1. Mục tiêu của giải pháp
Thực hiện đề tài này, tơi mong muốn có thể nâng cao được chất lượng học tập,
thay đổi thói quen học Văn của học sinh. Giúp các em có kĩ năng viết bài cảm nhận
về nhân vật, phân tích tác phẩm, làm bài văn thuyết minh và phát huy được tính
sáng tạo, chủ động trong cách học và khơi gợi niềm đam mê học Văn, làm Văn cho
các em. Đồng thời tôi cũng muốn lồng ghép để giáo dục đạo đức, kĩ năng sống cho
học sinh để các em không chỉ là những học sinh giỏi mà cịn ngoan ngỗn và có đạo
đức tốt.
2. Nội dung và cách thức thực hiện
Giải pháp 1. Xây dựng hình tượng người thầy mẫu mực
Trước hết giáo viên phải là tấm gương sáng về đạo đức, lòng yêu nghề, ham
học hỏi và luôn luôn phấn đấu để trau dồi chuyên môn cho học sinh noi theo. Bản
thân tôi vừa là giáo viên dạy Ngữ văn vừa tổ trưởng tổ bộ môn Ngữ văn nên khi đến
trường tôi luôn giữ tác phong chuẩn mực làm gương cho học sinh.
Khi lên lớp, theo tơi, giáo viên cần có lời nói gọn, rõ ràng, dứt khốt. Khi nói
nhìn thẳng vào học sinh, nói thẳng với các em chứ đừng nói như nói với chính mình
hay nói khơi khơi giữa lớp. Dùng từ, câu dễ hiểu, phù hợp với trình độ học sinh. Biết
lắng nghe học sinh nói. Mỗi khi các em phát biểu ý kiến hay nói một điều gì, thầy cơ
dù bận rộn cũng phải lắng nghe các em nói. Có như vậy khi thầy cơ nói các em mới
chú ý nghe trở lại.
5
Giải pháp 2. Cuẩn bị tốt giáo án, bài dạy nhằm tạo niềm tin, tình yêu của
học sinh đối với môn Ngữ văn
- Biện pháp 1. Xác định phương pháp, kĩ thuật dạy học
Đây là một bước vô cùng quan trọng, bởi nó là kim chỉ nam giúp giáo viên tổ
chức tiết dạy hiệu quả hay không. Mỗi một bài dạy, một phân mơn có những phương
pháp, kĩ thuật dạy học khác nhau. Vì thế giáo viên cần làm chủ kiến thức, xác định
được phương pháp dạy học phù hợp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh trong quá trình tiếp nhận kiến thức. Để thực hiện tốt biện pháp này, trước hết,
ngay buổi học đầu tiên, tôi dành một phần ba thời gian tiết học để làm quen với các
em. Cho các em thẳng thắn trao đổi về vai trò và ý nghĩa của việc học Văn. Từ đó
định hướng bước đầu cho các em về cách thức, phương pháp học bộ môn này sao
cho hiệu quả. Tôi hướng dẫn cụ thể cách chuẩn bị bài ở nhà như thế nào cho phù
hợp với từng loại bài.
- Biện pháp 2. Chuẩn bị phương tiện dạy học, giáo án tốt trước khi vào tiết
dạy.
Sau khi xác định được mục tiêu, phương pháp, kĩ thuật dạy học, giáo viên yêu
cầu học sinh chuẩn bị tốt các phương tiện dạy học cần thiết. Ví dụ, ở những tiết dạy
cần có phim tư liệu, phim truyền hình thì giáo viên phải chuẩn bị máy chiếu, máy
tính (tivi có kết nối internet), bảng phụ, tranh ảnh…cần thiết; học sinh chuẩn bị bảng
phụ, phiếu học tập… Để tổ chức tốt một tiết học thì điều khơng thể thiếu là giáo viên
phải soạn kĩ bài trước khi đến lớp. Giáo viên làm chủ kiến thức, nắm chắc nội dung
bài dạy.
Giải pháp 3. Đưa phim truyền hình và phim tư liệu vào trong tiết dạy
- Biện pháp 1. Lựa chọn phim tư liệu, phim truyền hình cần đưa vào bài
giảng.
Một nhiệm vụ quan trọng để có những tiết dạy sinh động, hấp dẫn là giáo viên
phải lựa chọn phim tư liệu hấp dẫn, phù hợp với nội dung bài dạy. Bởi khối lượng
phim tư liệu, hình ảnh…trên internet là vơ cùng lớn, nếu khơng tìm hiểu kĩ sẽ khiến
cho tiết học nhàm chán hoặc mất thời gian làm ảnh hưởng đến các hoạt động học
6
khác. Không chỉ yêu cầu học sinh mà giáo viên cũng phải chuẩn bị tốt bài dạy nếu
muốn tiết dạy hiệu quả, học sinh hứng thú với môn học.
Đối với phần Văn bản: cần đọc kĩ tác phẩm, tìm hiểu thêm thông tin về đời tư,
sự nghiệp sáng tác của tác giả. Từ đó sẽ thấu hiểu được những tư tưởng, những ý đồ
mà tác giả muốn gửi gắm. Tìm hiểu nội dung văn bản để xác định vị trí cần đưa
phim tư liệu hay phim truyền hình để tránh việc lạc đề hay mất thời gian của tiết học
làm loãng kiến thức bài dạy.
Đối với phần Tiếng Việt: cần đọc kĩ và thử phân tích ngữ liệu có trong sách
giáo khoa. Không bắt buộc các em làm đúng mà yêu cầu các em đọc kĩ, trình bày
theo cách hiểu của bản thân. Có thể lấy thêm ngữ liệu ở sách tham khảo hoặc những
bài tập trong các sách khác.
Phần Tập làm văn: ngồi việc đọc hiểu kĩ, phân tích ngữ liệu, các em cũng
cần phải áp dụng lí thuyết vào bài văn cụ thể. Thường xuyên lập dàn bài và tập viết
những đoạn văn ngắn để rèn luyện cách viết. Mỗi tuần sẽ có thêm bài tập về nhà
phần Tập làm văn. Thường là viết những đoạn văn ngắn theo chủ đề và lập dàn bài
cho một đề văn cụ thể (có thể sử dụng bằng sơ đồ tư duy).
Từ định hướng ấy, tôi bắt đầu thao tác soạn giảng giáo án điện tử, chuẩn bị đồ
dùng dạy học và chèn các đoạn truyền hình, phim tư liệu vào bài giảng.
Biện pháp 2. Đưa phim truyền hình và phim tư liệu vào bài giảng
Các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám
đã phản ánh sâu sắc đời sống của nhân dân; sự cống hiến qn mình, vượt qua mọi
khó khăn thiếu thốn, hiểm nguy vì quê hương đất nước. Là thế hệ sau, được sống
trong điều kiện vật chất tương đối đầy đủ , một cuộc sống hịa bình nhiểu em chưa
cảm nhận được những năm tháng chiến tranh gian khổ của cha ông. Bởi thế mà, việc
tái hiện lại cuộc chiến đấu gian khổ, ác liệt mà hào hùng của dân tộc ta là một điều
cần thiết để các em hiểu sâu sắc hơn nội dung tư tưởng mà các tác phẩm văn học
mang lại.
Khi dạy văn bản “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” của Phạm Tiến Duật,
văn bản “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê tôi yêu cầu các em chuẩn bị bài
7
tốt ở nhà để khi lên lớp các em tiếp nhận kiến thức nhanh hơn. Trước khi đi vào tìm
hiểu nội dung văn bản, tôi chiếu một đoạn phim tư liệu về hình ảnh những chiếc xe
khơng kính, những người lính lái xe, những cơ thanh niên xung phong trên tuyến
đường Trường Sơn trong cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liêt. Qua việc cảm nhận
bằng ngôn từ, các em học sinh cịn được quan sát từ đó các em dễ hình dung ra sự
gian khổ khốc liệt của những năm tháng chiến tranh. Từ đó sẽ tạo được sự đồng cảm
ở các em. Tất cả những điều các em quan sát và ngẫm nghĩ được sẽ là một kho “tư
liệu” quý giá để các em hoàn thành bài kiểm tra văn bản sau này của mình.
Học sinh xem phim tư liệu về những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn
Học sinh xem phim tư liệu về những cô gái Thanh niên xung phong
8
Sinh ra và lớn lên ở mảnh đất Tây Nguyên, rất nhiểu em chưa từng biết đến Sa Pa
như thế nào. Nếu khi dạy văn bản “Lặng lẽ Sa Pa” giáo viên chỉ đơn thuần tổ chức
các hoạt động dạy học để học sinh tìm hiểu kiến thức thì tiết học rất dễ nhàm chán,
học sinh khó hình dung ra vẻ đẹp của Sa Pa. Vì thế, tơi đã chiếu một đoạn phim tư
liệu về vẻ đẹp của Sa Pa để các em quan sát và cảm nhận. Tôi tin chắc rằng, sau tiết
học, khi hỏi về vẻ đẹp của Sa Pa các em sẽ nhớ lâu và cảm nhận tốt hơn rất nhiều so
với tiết dạy chỉ sử dụng tranh ảnh.
Vậy, một vấn đề đặt ra là đưa đoạn phim tư liệu vào phần nào của tiết dạy để
đảm bảo nội dung và thời lượng hợp lí. Phần này là sự linh động trong cách tổ chức
hoạt động học của giáo viên. Bản thân tôi, tiến hành như sau: Sau khi cho học sinh
tiến học tìm hiểu chung về văn bản, tìm hiểu tình huống truyện, đến đoạn vẻ đẹp của
thiên nhiên SaPa tôi sẽ dành thời lượng một phút để các em quan sát và cảm nhận
qua đoạn phim tư liệu. Sau khi các em quan sát đoạn phim và đọc văn bản ở phần
trước, sẽ dễ dàng cảm nhận được vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên SaPa.
Học sinh quan sát đoạn phim tư liệu về vẻ đẹp của Sa Pa
Đối với các văn bản nhật dụng, việc đưa phim tư liệu, phim truyền hình vào
tiết dạy là một điều vơ cùng cần thiết. Ví dụ, khi dạy văn bản “Phong cách Hồ Chí
Minh” (Lê Anh Trà) tôi đã cho các em xem đoạn phim tư liệu về Bác khi giới thiệu
về vẻ đẹp trong phong cách Hồ Chí Minh.
9
Học sinh quan sát đoạn phim về Chủ tịch Hồ Chí Minh
Hay khi dạy văn bản “Đấu tranh cho một thế giới hịa bình” ngồi việc tìm
hiểu nội dung trong sách giáo khoa thì việc chiếu những thước phim tư liệu về tội
ác, sự khốc liệt, tàn bạo của chiến tranh và chiến tranh hạt nhân là một giải pháp
giúp học sinh nắm được kiến thức nhanh nhất.
10
Học sinh quan sát đoạn phim nói về sự khốc của chiến tranh
Đối với phần Tiếng Việt:
Tiếng Việt vốn là phân mơn có kiến thức mang tính chính xác cao. Tuy nhiên
tôi đã mạnh dạn lồng ghép những đoạn phim truyền hình vào vừa để tạo hứng thú,
rèn luyện kĩ năng quan sát và tư duy đồng thời củng cố về kiến thức. Hơn nữa, đó lại
là những đoạn phim trong các văn bản đã học. Thế nên ngoài việc bổ trợ kiến thức
Tiếng Việt, nó cịn giúp các em hiểu sâu hơn về các tác phẩm đã học, biết kết hợp
nhuần nhuyễn kiến thức phân môn, liên môn.
Khi dạy tiết 43: “Nghĩa tường minh và hàm ý”. Với phần tìm hàm ý trong câu
nói của chị Dậu, tơi đã lồng đoạn phim “Chị Dậu 1989” với cảnh chị Dậu đau đớn
thơng báo với cái tí là mình sẽ bán con cho nhà cụ Nghị. Yêu cầu học sinh xem phim
xong, cơ mới cho các em tìm hàm ý trong những câu đối thoại của hai nhân vật. Từ
cuộc đối thoại, các em vừa hiểu được tình cảnh đáng thương của gia đình chị Dậu,
lại vừa xác định được hàm ý. Khơng chỉ thế, giáo viên cịn có thể nâng cao kiến thức
cho học sinh khi lồng ghép với bài tập 1 trong sách giáo khoa.
Khi dạy bài “Các phương châm hội thoại”, giáo viên có thể tìm những đoạn
phim hài để thấy được việc sử dụng các phương châm hội thoại đa dạng như thế nào.
Từ đó vừa tạo khơng khí vui vẻ, thoải mái cho tiết học vừa giúp học sinh nhớ lâu.
Đối với phần Văn bản và Tập làm văn phần văn thuyết minh, tôi tiếp tục đưa
các đoạn phim tư liệu vào bài giảng để tạo hứng thú cho các em học tập.
11
Khi dạy bài “Sử dụng yếu tố miêu tả trong văn bản thuyết minh”, tơi đã
lịng ghép phim tư liệu “Cây chuối trong đời sống con người Việt Nam” vào bài
giảng để học sinh vừa nghe vừa quan sát về cây chuối. Với khoảng thời gian 3 phút,
học sinh được quan sát hình dáng, đặc điểm, lợi ích từ cây chuối mang lại cho đời
sống con người. Từ phương pháp trực quan sinh động này, học sinh có thể ghi nhớ
kiến thức lâu hơn bởi trước mắt các em là những hình ảnh minh họa cụ thể, rõ ràng,
đầy ấn tượng. Bên cạnh những hình ảnh chân thực ấy, lời bình vơ cùng hấp dẫn
trong phim cịn có tác dụng giúp học sinh có thêm vốn từ, kiến thức thực tế để sau
này viết bài tốt hơn.
Hình ảnh minh họa: Học sinh xem phim tư liệu về lợi ích của cây chuối
Khi dạy bài “Một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh”, tìm
hiểu ngữ liệu về ruồi xanh qua văn bản “Ngọc hoàng sử tội ruồi xanh”, sau phân tích
ngữ liệu, học sinh xác định được các biện pháp nghệ thuật sử dụng trong văn bản
thuyết minh, tìm hiểu về đặc điểm của lồi ruồi xanh, giáo viên lồng ghép cho học
sinh xem đoạn phim tư liệu về lồi ruồi. Làm như vậy, học sinh khơng chỉ nhớ được
kiến thức về các biện pháp nghệ thuật mà các em cịn khắc sâu về những đặc tính
của lồi ruồi xanh.
12
Học sinh xem phim tư liệu về loài ruồi xanh
Khi dạy văn học địa phương, tôi đã đưa những đoạn phim tư liệu vào bài
giảng một cách phù hợp để học sinh có thể quan sát và dễ hình dung hơn. Ví dụ khi
dạy bài “Vườn quốc gia Yok Đơn”, khi tôi hỏi “các em đã được đến thăm vườn
Quốc gia Yok Đơn chưa?”, thì hầu như các em đều trả lời là chưa. Vậy thì việc sử
dụng những đoạn phim tư liệu trên mạng Internet để giới thiệu về địa điểm này là
một giải pháp hay. Bởi nó giúp cho các em “du lịch bằng mắt” để tìm hiểu những
đặc trưng, giá trị của vườn Quốc gia Yok Đôn đối với đời sống của con người Đăk
Lăk nói riêng và nước Việt Nam nói chung.
Học sinh quan sát đoạn phim tư liệu về vườn quốc gia Yok Đôn trước khi tìm hiểu nội dung bài
học
13
IV. Tính mới của giải pháp
Đây là phương pháp mang tính giáo dục cao. Được hình thành từ việc tiếp thu
kiến thức đã học qua việc quan sát, tìm hiểu và khả năng tư duy sáng tạo một cách
khoa học, để áp dụng vào thực tiễn bằng những tình huống cụ thể. Từ đó giúp học
sinh có kiến thức, kĩ năng viết bài cảm nhận và làm bài văn thuyết minh tốt hơn,
đồng thời giúp các em có thêm tinh thần tự giác học tập, tích cực, chăm phát biểu,
làm bài hơn và đặc biệt u thích mơn Ngữ văn hơn. Điều này thấy rõ trong bài
kiểm tra cuối học kì. Tỉ lệ bộ mơn tăng lên rõ rệt so với các lớp khác.
V. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Sau khi áp dụng những phương pháp trên, đa số giờ học Văn của lớp tôi dạy
học sinh đều hứng thú, hăng hái phát biểu xây dựng bài, làm bài tốt, đầy đủ ý. Từ đó
mà kết quả học tập của học sinh lớp 9 qua các năm học 2017-2018; 2018-2019 đã có
sự chuyển biến rõ rệt. Riêng lớp 9ª1,9ª2,9ª3 của năm học 2018-2019 đã có những
chuyển biến ró nét về chất lượng bộ môn so với năm trước.
Kết quả trung bình mơn cả năm của các lớp tơi đã dạy và áp dụng giải pháp:
Năm học 2017-2018. Khi áp dụng giải pháp chưa triệt để
Lớp
Sĩ
Điểm
Tỉ lệ
Điểm
Tỉ lệ
số
Giỏi
9A4
32
2
6.25
10
31.25
17
53.13
3
9.4
9A5
35
4
11.4
15
42.9
15
42.9
1
2.9
Khá
Điểm
Tỉ lệ
TB
Điểm Tỉ lệ
yếu
Năm học 2018-2019. Khi áp dụng giảo pháp triệt để, linh hoạt
Lớp
Sĩ
Điểm
Tỉ lệ
Điểm
Tỉ lệ
số
Giỏi
9A1
25
4
16
10
40
9
36
2
8
9A2
25
3
12
10
40
11
44
1
4
9A3
32
10
31.6
16
50
6
18.8
0
0
Khá
Điểm
Tỉ lệ
TB
14
Điểm Tỉ lệ
Yếu
Khảo sát tỉ lệ u thích bộ mơn Ngữ văn của 3 lớp tôi trực tiếp giảng dạy.
Trong tổng số 82 em thì có 70 (85,4%) em trả lời là u thích mơn Ngữ văn, rất
thích học, thích lắng nghe cơ giảng bài. Các em đều nói, khi học được xem phim tư
liệu, phim truyền hình, tranh ảnh phong phú kết hợp với lời giảng, bình của cơ nên
tiết học sinh động, các em khơng cịn có trạng thái buồn ngủ hay cảm thấy mệt mỏi
khi đến tiết học nữa. Tỉ lệ u thích mơn Ngữ văn tăng lên từ 18.3% lên 85.4%. Đó
là một con số đáng mừng cho thấy giải pháp tôi áp dụng là hiệu quả.
Từ tổng hợp kết quả trên cho thấy, học sinh đã có những chuyển biến tích cực
trong việc học mơn Ngữ văn. Vì vậy, có thể nói: một trong những ngun nhân để
tạo ra kết quả đáng mừng đó chính là việc giáo viên đã đưa phim truyền hình và
phim tư liệu vào bài giảng, hướng dẫn, kích thích cũng như khơi gợi tiềm năng học
Văn và làm Văn trong các em.
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Có thể nói, cốt lõi của việc tạo hứng thú, tạo tâm thế hưng phấn, tích cực cho
học sinh trong học tập bộ mơn nói chung và mơn Ngữ văn nói riêng là đổi mới
phương pháp dạy học, dạy học theo hướng lấy hoạt động học tập của học sinh làm
trung tâm, học trò là người chủ động khám phá, lĩnh hội kiến thức, người thầy đóng
vai trị là người tổ chức, chỉ đạo. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm những hướng tiếp cận
bài học linh hoạt, khoa học, hợp lí nhằm tạo hứng thú học tập của học sinh trong dạy
học Ngữ văn là rất cần thiết. Qua trải nghiệm thực tế, tôi nhận thấy rằng nâng cao
chất lượng bộ môn, tạo hứng thú học tập ở các em ta cần phải biết chọn điểm xuất
phát thích hợp với đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp, từng đối tượng học
sinh,…Muốn có được kết quả tốt trong giáo dục cần có các phương pháp giảng dạy
phù hợp với đối tượng và kết hợp tốt các phương tiện dạy học. Bên cạnh đó, cần
không ngừng nâng cao bồi dưỡng chuyên môn, áp dụng các phương pháp dạy học
mới để kết quả học có chất lượng hơn. Và đặc biệt cần phải kích thích được khả
năng sáng tạo, tư duy, niềm đam mê học Văn từ chính học sinh.
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Đưa phim truyền hình và phim tư liệu vào
trong các tiết dạy môn Ngữ văn 9 nhằm làm tăng hứng thú học tập cho học
15
sinh” mang một ý nghĩa rất quan trọng và là một việc làm hết sức cần thiết. Bởi
lẽ, qua quá trình quan sát, học tập và rèn luyện này học sinh sẽ có thêm nhiều
kiến thức hữu ích giúp các em dễ dàng tiếp cận và trình bày cảm nhận của mình
trước một tác phẩm, một nhân vật văn học hơn. Hơn nữa, việc quan sát, tìm hiểu
những Danh lam thắng cảnh, làng nghề nổi tiếng…sẽ giúp các em làm tốt dạng
văn thuyết minh và bồi đắp thêm tình yêu đối với q hương đất nước và u
thích mơn Văn hơn. Cũng từ đó mà kết quả học tập cùng nhận thức của các em
được nâng cao rõ rệt. Các em biết quý trọng, yêu thương, biết nhận thức cái đúng,
sai, biết tự hồn thiện mình. Các em sẽ tích cực hơn trong việc tham gia các hoạt
động học tập, rèn luyện, kể cả các hoạt động mang ý nghĩa cộng đồng.
Trong quá trình áp dụng đề tài này vào trong thực tiễn giảng dạy, tơi thấy kết
quả có chuyển biến, chất lượng bộ môn được nâng lên. Số học sinh mà tơi dạy ngày
càng u thích học mơn Ngữ văn hơn. Các em chủ động sáng tạo trong giờ học,
mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài học. Và đặc biệt học sinh làm tốt dạng viết
đoạn văn cảm nhận về nhân vật và dạng văn thuyết minh. Điều này được thể hiện cụ
thể qua các kì thi học kì.
II. Kiến nghị
Sau khi nghiên cứu đề tài này, tơi thấy kết quả đạt được rất khả quan, vì vậy tôi
rất mong muốn phương pháp mà tôi đưa ra có thể được áp dụng trong việc dạy học
để nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Tôi cũng rất mong nhận được sự góp ý
quý báu của Ban giám hiệu, Tổ chuyên môn cùng các đồng nghiệp để cho đề tài của
tơi được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn.
Buôn Trấp, ngày 25 tháng 4 năm 2019
Người viết sáng kiến
Trần Thị Lệ
16
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 9, tập một – NXB Giáo Dục
2. Sách giáo khoa Ngữ văn 9, tập hai – NXB Giáo Dục
3. Sách giáo viên Ngữ văn 9, tập một và hai - NXB Giáo Dục
4. Tài liệu tập huấn giáo viên của Bộ giáo dục và đào tạo về đổi mới phương pháp
dạy học (Tài liệu lưu hành nội bộ)
5. Bộ giáo dục và đào tạo – Dự án phát triển Giáo dục THCS II Một số chuyên đề
bồi dưỡng Cán bộ quản lí và giáo viên THCS. (Tài liệu lưu hành nội bộ)
6. Tham khảo tài liệu trên google.vn
18
19
SKKN Đưa phim truyền hình và phim tư liệu vào trong các tiết dạy môn Ngữ
văn 9 nhằm làm tăng hứng thú học tập cho học sinh
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Người xưa vẫn thường nói: “Biết mà học khơng bằng thích mà học, thích mà
học khơng bằng say mà học”. Yếu tố cảm xúc, say mê chính là động lực lớn thúc
đẩy, nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của mỗi chúng ta. Thế
nhưng hiện nay, đa phần các em học sinh không mấy hứng thú với môn Ngữ Văn.
Hầu như các em và kể cả phụ huynh học sinh thường quan tâm tới các mơn Tự
nhiên. Họ cho rằng: thời kì Khoa học hiện đại phát triển thì xã hội cần những người
tài giỏi về các mơn Tốn, Lí, Hóa, Ngoại ngữ, Tin học, cịn riêng mơn Văn mấy ai để
ý tới.
Văn vốn lãng mạn, giàu tính tưởng tượng, khơng khơ khan, nhưng vì cho rằng
thiếu “năng khiếu” nên hầu hết các em thấy chán nản, không đam mê học. Dần rồi
thành thói quen, học cho có, học một cách đối phó, miễn cưỡng.
Xuất phát từ những thực tại còn tồn đọng và kinh nghiệm giảng dạy thực tiễn
của bản thân, với mong muốn, trong từng bài dạy, trong từng giờ học văn, học sinh
ln hứng thú, chủ động, u thích mơn học. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả dạy
học nên tơi chọn đề tài: “Đưa phim truyền hình và phim tư liệu vào trong các tiết
dạy môn Ngữ văn 9 nhằm làm tăng hứng thú học tập cho học sinh” trong cơng
tác giảng dạy của mình.
II. Mục đích nghiên cứu
Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn lớp 9 tôi nhận thấy muốn giờ dạy đạt
hiệu quả cao, giáo viên phải khơi dậy được hứng thú học tập của học sinh. Từ đó
mới phát huy được tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh. Thực tế cũng đã
chứng minh rằng, khi giáo viên khơi gợi được hứng thú học tập thì hiệu quả được
nâng cao, học sinh tích cực chủ động trong học tập. Trong phạm vi của Sáng Kiến
Kinh Nghiệm, tôi xin đề cập đến phương pháp: “Đưa phim truyền hình và phim
20
tư liệu vào trong các tiết dạy môn Ngữ văn 9 nhằm làm tăng hứng thú học tập
cho học sinh” với mục đích thực hiện mục tiêu đổi mới phương pháp dạy và học,
tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Đồng thời phát huy được
tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng
lớp học, môn học. Bồi dưỡng cho các em phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh khi học Văn.
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
Ơng cha ta vẫn thường nói “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Từ sự
quan sát chứng kiến thực tế, con người ta sẽ học hỏi, biết thêm được nhiều điều mới
lạ, bổ ích. Có dịp “khơi những nguồn chưa ai khơi” và biết những điều nhiều người
chưa biết. Từ việc tiếp xúc thực tế, học sinh sẽ có ấn tượng sâu sắc hơn, rõ nét hơn
và chắc chắn là nhớ lâu hơn nếu chỉ nghe bằng tai. Bởi vậy mà phương pháp “trực
quan” - “mắt nhìn” mà trong giáo dục có vai trị vơ cùng quan trọng.
Đối với mơn Ngữ văn, trực quan không chỉ dừng ở mức để nhận biết sự vật, sự
việc mà trực quan cịn có giá trị khơi dịng cảm xúc, gợi hứng thú, tích cực học tập,
từ những rung động chân thành, người học sẽ có tâm thế học tốt hơn, hiệu quả hơn.
Như Hoài Thanh đã từng khẳng định văn chương là hình dung của sự sống,
xuất phát từ trong cuộc sống. Chính vì thế, người giáo viên dạy Văn phải biết tái
hiện bức tranh hiện thực cuộc sống ấy trước mắt học sinh, biến những bài học khơ
khan trở thành những giờ giải trí, giúp các em khám phá được bao điều kì thú của
cuộc sống con người. Thế nhưng, làm thế nào để các em cảm nhận hết được cái hay,
cái đẹp của văn chương, có hứng thú và đam mê học văn hơn? Đó khơng chỉ là câu
hỏi làm nhức nhối biết bao thế hệ nhà giáo mà đó cịn là trách nhiệm chung của toàn
xã hội, của tất cả những người làm công tác giáo dục và đặc biệt là của chính bản
thân người giáo viên giảng dạy bộ mơn này.
Là giáo viên dạy văn có lẽ chúng ta đều cơng nhận rằng cái khó nhất mà cũng
quan trọng nhất trong dạy học văn chính là khơi gợi những cảm xúc, những rung
21
động trong tâm hồn người học sinh. Từ đó hình thành sợi dây tình cảm gắn kết
người học với bộ mơn. Để làm được điều này, địi hỏi người giáo viên vận dụng
nhiều phương pháp, biện pháp như hỏi - đáp, thuyết trình, và đặc biệt là trực quan.
II. Thực trạng của vấn đề:
1. Thuận lợi
- Được sự quan tâm của Sở, Phòng giáo dục và Ban giám hiệu nên hàng năm
các giáo viên đều được bồi dưỡng thường xuyên về vấn đề thay sách và đổi mới
phương pháp dạy học.
- Bên cạnh đó tơi cịn được sự giúp đỡ nhiệt tình và trao đổi những kinh nghiệm
quý báu từ các đồng nghiệp trong tổ chuyên môn, cụm tổ bộ môn cũng như các đồng
nghiệp cùng bộ môn trong huyện nhà.
- Bản thân tơi cũng có nhiều cố gắng học hỏi, tìm tịi những phương pháp
giảng dạy phù hợp nhằm nâng cao chất lượng bộ môn và đặc biệt là giúp các em
ham thích mơn học này.
- Phần lớn các em đều là học sinh chăm ngoan của những năm học trước. Vì
thế, hầu hết các em đã ý thức được Ngữ văn là môn học quan trọng. Các em luôn cố
gắng phấn đấu để đạt được kết quả tốt, không bị khống chế trong xếp loại học lực.
Các giờ học đã có sự nhiệt tình, năng nổ nên việc xây dựng bài học theo hướng kích
thích nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh đạt được hiệu
quả cao.
2. Khó khăn
- Với độ tuổi cịn nhỏ, các em chưa được tiếp xúc nhiều với thế giới bên
ngoài. Nhiều lĩnh vực, nhiều hiện tượng, sự vật trong tự nhiên, xã hội ...các em chưa
biết đến. Thế nên việc dạy và học văn thuyết minh (đề cập đến các tri thức ở mọi
lĩnh vực đời sống) là một điều tương đối khó.
- Hơn nữa tài liệu minh họa và đồ dùng dạy học phục vụ cho việc giảng dạy
chưa phong phú (chủ yếu chỉ có vài bức tranh ảnh và tài liệu tham khảo) nên việc
chuẩn bị bài đầu tư cho mơn học cịn gặp nhiều khó khăn.
22
- Trường tôi đang dạy là một trường ở thị trấn nhưng đa phần học sinh xuất
thân từ nông thôn, di cư từ nhiều vùng đến. Hồn cảnh gia đình các em cịn nhiều
khó khăn. Nhiều em do áp lực gia đình về học hành nên học theo kiểu đối phó.
- Tâm lí học sinh đa phần là ngại học Văn. Các em cho rằng Văn “dài dòng”, đã
vậy lại khơng có cảm xúc thật, điểm khơng được cao như các môn khác. Mỗi lần
soạn bài các em hầu như xem sách tham khảo rồi chép, dẫn đến cách học thụ động.
Cách hiểu và học Văn như thế khiến các em học ngày càng yếu đi, dẫn đến chán
học, ngại học, thấy Văn là “buồn ngủ”.
- Một số gia đình do hồn cảnh khó khăn, lo làm ăn để trang trải cuộc sống nên
chưa quan tâm đến việc học tập của con em. Một số khác do công việc bận bịu nên
bỏ bê con cái, phó mặc cho nhà trường nên dẫn đến các em lơ là, chểnh mảng trong
học tập, đặc biệt là môn Văn.
* Chất lượng bộ môn Ngữ văn của 3 lớp đang tiến hành khảo nghiệm và thực
hiện giải pháp của năm học 2017-2018:
Lớp
Sĩ
Điểm
Tỉ lệ
Điểm
Tỉ lệ
số
Giỏi
8A1
25
0
0
5
20
15
60
5
20
8A2
25
0
0
6
24
15
60
4
16
8A3
32
8
25
12
37.5
12
37.5
0
0
Khá
Điểm
Tỉ lệ
TB
Điểm Tỉ lệ
Yếu
Từ những thực trạng trên, tôi đã lần lượt áp dụng các giải pháp vào 3 lớp mà tôi
đang trực tiếp giảng dạy (9A1,9A2,9A3) nhằm phát huy được tính tích cực, chủ
động của học sinh đồng thời giúp học sinh tăng hứng thú khi học Văn, nâng cao chất
lượng bộ môn Ngữ văn.
Trước khi tiến hành áp dụng các giải pháp đưa phim tư liệu và phim truyền
hình vào bài giảng, tôi đã tiến hành khảo sát mức độ u thích của học sinh đối với
mơn Ngữ văn.
Tơi đưa ra câu hỏi khảo sát đối với 82 em học sinh: Em có thích học mơn
Ngữ văn khơng? Vì sao?
23
Sau khi làm bài, kết quả mà giáo viên thu được như sau:
Sĩ số khảo sát là 82 em, trong đó có 15 em trả lời u thích chiếm 18.3%, cịn
lại 67 em trả lời khơng thích hoặc khơng biết chiếm 81,7%. Đa số lí do các em nêu
ra như sau:
- Môn Ngữ văn nhiều chữ quá nên khi học dễ mệt mỏi, buồn ngủ.
- Khi học văn các em ít được xem hình ảnh, tư liệu… nên ít gây được hứng
thú…
III. Các giải pháp tiến hành để giải quyết vấn đề
1. Mục tiêu của giải pháp
Thực hiện đề tài này, tơi mong muốn có thể nâng cao được chất lượng học tập,
thay đổi thói quen học Văn của học sinh. Giúp các em có kĩ năng viết bài cảm nhận
về nhân vật, phân tích tác phẩm, làm bài văn thuyết minh và phát huy được tính
sáng tạo, chủ động trong cách học và khơi gợi niềm đam mê học Văn, làm Văn cho
các em. Đồng thời tôi cũng muốn lồng ghép để giáo dục đạo đức, kĩ năng sống cho
học sinh để các em không chỉ là những học sinh giỏi mà cịn ngoan ngỗn và có đạo
đức tốt.
2. Nội dung và cách thức thực hiện
Giải pháp 1. Xây dựng hình tượng người thầy mẫu mực
Trước hết giáo viên phải là tấm gương sáng về đạo đức, lòng yêu nghề, ham
học hỏi và luôn luôn phấn đấu để trau dồi chuyên môn cho học sinh noi theo. Bản
thân tôi vừa là giáo viên dạy Ngữ văn vừa tổ trưởng tổ bộ môn Ngữ văn nên khi đến
trường tôi luôn giữ tác phong chuẩn mực làm gương cho học sinh.
Khi lên lớp, theo tơi, giáo viên cần có lời nói gọn, rõ ràng, dứt khốt. Khi nói
nhìn thẳng vào học sinh, nói thẳng với các em chứ đừng nói như nói với chính mình
hay nói khơi khơi giữa lớp. Dùng từ, câu dễ hiểu, phù hợp với trình độ học sinh. Biết
lắng nghe học sinh nói. Mỗi khi các em phát biểu ý kiến hay nói một điều gì, thầy cơ
dù bận rộn cũng phải lắng nghe các em nói. Có như vậy khi thầy cơ nói các em mới
chú ý nghe trở lại.
24
Giải pháp 2. Cuẩn bị tốt giáo án, bài dạy nhằm tạo niềm tin, tình yêu của
học sinh đối với môn Ngữ văn
- Biện pháp 1. Xác định phương pháp, kĩ thuật dạy học
Đây là một bước vô cùng quan trọng, bởi nó là kim chỉ nam giúp giáo viên tổ
chức tiết dạy hiệu quả hay không. Mỗi một bài dạy, một phân mơn có những phương
pháp, kĩ thuật dạy học khác nhau. Vì thế giáo viên cần làm chủ kiến thức, xác định
được phương pháp dạy học phù hợp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh trong quá trình tiếp nhận kiến thức. Để thực hiện tốt biện pháp này, trước hết,
ngay buổi học đầu tiên, tôi dành một phần ba thời gian tiết học để làm quen với các
em. Cho các em thẳng thắn trao đổi về vai trò và ý nghĩa của việc học Văn. Từ đó
định hướng bước đầu cho các em về cách thức, phương pháp học bộ môn này sao
cho hiệu quả. Tôi hướng dẫn cụ thể cách chuẩn bị bài ở nhà như thế nào cho phù
hợp với từng loại bài.
- Biện pháp 2. Chuẩn bị phương tiện dạy học, giáo án tốt trước khi vào tiết
dạy.
Sau khi xác định được mục tiêu, phương pháp, kĩ thuật dạy học, giáo viên yêu
cầu học sinh chuẩn bị tốt các phương tiện dạy học cần thiết. Ví dụ, ở những tiết dạy
cần có phim tư liệu, phim truyền hình thì giáo viên phải chuẩn bị máy chiếu, máy
tính (tivi có kết nối internet), bảng phụ, tranh ảnh…cần thiết; học sinh chuẩn bị bảng
phụ, phiếu học tập… Để tổ chức tốt một tiết học thì điều khơng thể thiếu là giáo viên
phải soạn kĩ bài trước khi đến lớp. Giáo viên làm chủ kiến thức, nắm chắc nội dung
bài dạy.
Giải pháp 3. Đưa phim truyền hình và phim tư liệu vào trong tiết dạy
- Biện pháp 1. Lựa chọn phim tư liệu, phim truyền hình cần đưa vào bài
giảng.
Một nhiệm vụ quan trọng để có những tiết dạy sinh động, hấp dẫn là giáo viên
phải lựa chọn phim tư liệu hấp dẫn, phù hợp với nội dung bài dạy. Bởi khối lượng
phim tư liệu, hình ảnh…trên internet là vơ cùng lớn, nếu khơng tìm hiểu kĩ sẽ khiến
cho tiết học nhàm chán hoặc mất thời gian làm ảnh hưởng đến các hoạt động học
25