BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Trường Đại học Ngoại Thương
VIỆN: Kinh tế và kinh doanh quốc tế
Bài TIểu Luận
Môn Triết học Macx-Lenin
Đề tài : Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn và vận dụng
phân tích mối liên hệ giữa đổi mới tư duy với đổi mới kinh
tế ở nước ta.
Họ và tên: Lù Mai Chi
Lớp
: TRI114.6
MSV
: 2114120003
SBD: 07
Giảng viên giảng dạy: ThS. Nguyễn Thị Tùng Lâm
1
Mục lục
Lời mở đầu
1, Thực trạng của vấn đề nghiêm cứu
Trong Triết học , sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ trao đổi, tác động lẫn nhau để hình thành nên
hoạt động sản xuất vật chất, phản ánh mặt tinh thần và thực tiễn xã hội. Có thể nhận
thấy, thực tiễn là cơ sở, động lực của lý luận. Hay nói cách khác, thực tiễn là cung cấp
cho lý luận những mục tiêu, chuẩn hoá lý luận. Song, thực tiễn cung cấp chất liệu để
hồn thành lý luận, thơng qua thực tiễn, lý luận được hồn thiện, sinh động hố – hiện
thực hố hơn.
Ta đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về q trình đổi mới ở Việt Nam với nhiều
khía cạnh, đặc tính khác nhau . Tuy nhiên để lý giải cặn kẽ , đi sâu vào vấn đề về mối
2
quan hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế , ta cần vận dụng những lý luận cơ bản
của chủ nghĩa Marx-Lenin là lý luận và thực tiễn. Qua đó , em xin nêu lên đề tài mình
nghiên cứu: “Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn và vận dụng phân tích mối liên hệ
giữa đổi mới tư duy với đổi mới kinh tế ở nước ta”.
2, Mục tiêu nghiên cứu
Qua đề tài nhằm nghiên cứu vận dụng kiến thức đã học , từ mối quan hệ giữa lý
luận và thực tiễn, ta đưa ra những nhâjn định , lý giải , từ đó đưa ra mối liên hệ sâu sắc
vận dụng vào mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta. Qua đó,
góp phần nâng cao trình độ nghiên cứu của bản thân.
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chung: phương pháp luận của chủ nghĩa
Marx – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương
pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp chuyên gia…để đạt được kết quả tốt nhất.
Mong cô sẽ bỏ qua sai sót trong phần tiểu luận của em, em xin chân thành cảm ơn !
Nội dung
Chương 1: Lý luận và thực tiễn
1.1 Khái niệm lý luận
Lý luận (hay lý luận khoa học) là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh
nghiệm thực tiễn, phản ánh mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các
sự vật, hiện tượng được biểu đạt bằng hệ thống nguyên lý, quy luật, phạm trù.
Lý luận có tính hệ thống, tính khái qt cao và tính lơ gíc chặt chẽ. Bản thân của lý
luận là hệ thống tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn; thu được từ kinh
nghiệm, từ quan sát và thực nghiệm khoa học.
Cơ sở của lý luận là những trí thức kinh nghiệm thực tiễn, khơng có kinh nghiệm
thực tiễn thì khơng có cơ sở để khái qt lý luận.
Lý luận phản ánh được bản chất của sự vật, hiện tượng; nó phản ánh được mối
liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng.
1.2 Khái niệm thực tiễn
3
Thực tiễn là tồn bộ những hoạt động có tính lịch sử - xã hội của con người.Thực
tiễn là những hoạt động vật chất - cảm tính của con người hay nói khác đi là những
hoạt động vật chất mà con người cảm giác được, quan sát được, trực quan được. Hoạt
động vật chất - cảm tính là những hoạt động mà con người phải sử dụng lực lượng vật
chất, công cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật chất để biến đổi chúng; trên cơ
sở đó, con người làm biến đổi thế giới khách quan và biến đổi chính bản thân mình.
Thực tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong xã hội, với sự tham gia đông đảo của mọi
người, luôn bị giới hạn bởi những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể và cũng trải qua các
giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể. Do vậy, thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch
sử - xã hội của con người.
Thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội để phục
vụ con người. Nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động có tính tự giác cao của con người,
khác hẳn với hoạt động chỉ dựa vào bản năng, thụ động của động vật.
1.3 Mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận
Chúng ta đã biết thực tiễn và lý luận có mối quan hệ mật thiết với nhau ,chúng
luôn thống nhất biện chứng với nhau, nương tựa vào nhau, đòi hỏi vào nhau tác động
qua lại với nhau. Nếu khơng có thực tiễn thì khơng thể có lý luận và ngược lại, khơng
có lý luận khoa học thì cũng khơng thể có thực tiễn chân chính. “Thực tiễn khơng có lý
luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn
là lý luận sng” (Hồ Chí Minh).
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ trao đổi, chúng tác động lẫn
nhau để hình thành nên hoạt động sản xuất vật chất, phản ánh mặt tinh thần và thực
tiễn xã hội. Có thể thấy, thực tiễn là cơ sở, động lực của lý luận. Nói cách khác, thực
tiễn là cung cấp cho lý luận những mục tiêu, chuẩn hố lý luận. Từ đó, thực tiễn cung
cấp chất liệu để hồn thành lý luận, thơng qua thực tiễn, lý luận được hồn thiện, sinh
động hố – hiện thực hố hơn. Thực tiễn đóng vai trị quyết định.
Để khái quát rõ hơn về vai trò của thực tiễn đối với lý luận, ta có:
4
•
Thực tiễn là cơ sở của lý luận: thông qua hoạt động thực tiễn những thuộc tính,
quan hệ, tính chất, cấu trúc của sự vật được phản ánh, hình thành tri thức kinh
nghiệm. Từ tri thức kinh nghiệm tích luỹ được con người hệ thống hố, khái
•
qt hố hình thành nên lý luận.
Thực tiễn cịn là mục đích của lý luận: Lý luận không chỉ đáp ứng nhu cầu nhận
thức mà cịn góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động thực tiễn của
con người, lý luận chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực
tiễn và cải tạo thực tiễn. Vì vậy, thực tiễn là mục tiêu hướng tới của hoạt động
lý luận.
• Thực tiễn còn là động lực chủ yếu và trực tiếp của lý luận: Nhu cầu thực tiễn
thúc đẩy sự ra đời và phát triển của lý luận, thông qua thực tiễn những bế tắc
của lý luận sẽ phát triển; thực tiễn làm cho xã hội ngày càng phát triển, năng lực
trí tuệ ngày càng cao hơn, khả năng nhận thức và khái quát lý luận ngày càng
tốt hơn, qua đó mỗi hệ thống lý luận ngày càng hồn thiện và phát triển.
• Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra sự phù hợp hay không phù hợp của lý luận:
Thơng qua thực tiễn để đánh giá tính mục đích và tính hiệu quả của lý luận có
thực hiện được hay khơng. Vì vậy, thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra tính đúng
đắn của lý luận.
• Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận là một quá trình mang tính lịch sử - xã hội
cụ thể. Quan hệ giữa chúng là quan hệ biện chứng. Nắm bắt được tính chất biện
chứng của q trình đó, là tiền để quan trọng giúp chúng ta có được lập trường
thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận, cũng như chủ
nghĩa giáo điều máy móc và bệnh lý luận sống.
5
Chương II:
Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước
ta hiện nay.
1. Lý do đổi mới
Nước ta sau chiến tranh gặp nhiều khó khăn, do đó xuyên suốt giai đoạn sau giải
phóng, Đảng ta đưa ra nhiều đường lối chính sách nhằm xác định mục tiêu và phương
hướng xã hội chủ nghĩa . Tuy nhiên , Đảng đã phạm phải sai lầm chủ quan duy ý chí ,
vi phạm quy luật khách quan: nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa , xoá bỏ ngay
nền kinh tế nhiều thành phần , việc xây dựng công nghiệp nặng bị đẩy mạnh quá mức ,
cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp duy trì quá lâu , đưa ra nhiều chủ
trương chưa thích hợp trong cải cách giá cả , tiền tệ , tiền lương , công tác tư tưởng và
tổ chức cán bộ còn nhiều lỗ hổng lớn.
Những sai lầm mà Đảng mặc phải dẫn đến khủng hoảng trầm trọng về kinh tế xã
hội ở Việt Nam những năm đầu 80. Xã hội khi đó gặp nhiều khó khăn: sản xuất tăng
chậm, hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp , đời sống nhân dân lao động gặp nhiều khó
khăn , tệ nạn xảy ra nhiều nơi ,…
6
Đi đôi với những sai lầm trong công tác tư tưởng , tổ chức và công tác cán bộ của
Đảng là những khuyết điểm trong lĩnh vực kinh tế , xã hội . Tư tưởng còn lạc hậu về
nhận thức lý luận và sự yếu kém trong việc vận dụng các quy luật trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta . Bên cạnh đó là lỗ hổng về tổ chức : thiếu quy hoạch và
chậm đổi mới cán bộ ,vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng ,
phong cách lãnh đạo và phong thái làm việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu , tổ chức
bộ máy quá lớn , chồng chéo và kém hiệu lực , giáo dục và quản lý cán bộ , đảng viên
thiếu chặt chẽ.
Trong hoàn cảnh cấp bách , việc đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng là vấn đề quan
trọng nhất. Khi chính trị thế giới có nhiều bất ổn , tiềm ẩn có thể bùng nổ bất cứ lúc
nào , do đó thay dổi mang lại bất lợi cho nước ta lúc bấy giờ. Trong tình thế phải thay
dổi , điều chỉnh , ta phải nhìn thẳng vào sự thật, đặt niềm tin vào nhân dân và trách
nhiệm lớn lao trước vận mệnh Tổ quốc, Đảng ta đã đổi mới cả về tư duy và trọng tâm
là nền kinh tế lúc bấy giờ.
2. Nội dung đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế
2.1 Đổi mới tư duy
Ngày nay, Việt Nam đang ở thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội , nhiều vấn đề
cần nhận thức , giải quyết đúng đắn , phù hợp với thực tế và quy luật khách quan . Đựa
vào mục tiêu , bản chất của chủ nghĩa xã hội: Mỗi quốc gia dân tộc đều phải suy nghĩ
tìm tịi, lựa chọn để theo đúng đúng quy luật chung , đồng thời phù hợp với điều kiện
đặc điểm của quốc gia. Do vậy , Đảng và nhà nước khơng thể nơn nóng , áp đặt máy
móc.
Nước ta có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , giải phóng và
phát triển sức sản xuất , duy trì đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững là ưu tiên
số một hiện nay.
Cùng với sự phát triển kinh tế là thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội . Tại đại
hội VI, Đảng ta đã đặt vấn đề xã hội trong mối quan hệ với kinh tế trong quan niệm về
chủ nghĩa xã hội . Đảng ta đang dần phát triển xã hội đi đơi với nền kinh tế , thống
nhất chính sách xã hội đi đơi với chính sách kinh tế , thực hiện tiến bố và công bằng xã
hội.
7
Phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, dần hình thành văn hố là
tinh thần của xã hội .Phát triển văn hóa tương xứng với tăng trưởng kinh tế, phát triển
xã hội, tiến bộ chính trị, là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức mới, sự phát triển tư duy lý luận của Đảng.
Duy trì mơi trường hồ bình , hữu nghị vì sự phát triển của đất nước: Ta đổi mới
nhận thức , cách nhìn thay đổi từ vũ đài đấu tranh sang góc nhìn tồn diện hơn , xác
định thế giới là môi trường cho Việt Nam phát triển và tồn tại ,giữ vững tư duy đối
ngoại với tinh thần” thêm ban bớt thù”.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng với bảo về tổ quốc: Ta ngày càng chú trọng , quan
tâm, nhận thức sâuu sắc mối quan hệ giữa phát triển xã hội chủ nghĩa đi đôi với bảo vệ
Tổ quốc, giữa kinh tế-an ninh-đối ngoại , tập trung vào an ninh quốc gia và bảo vệ Tổ
quốc.
Xây dựng xã hội chủ nghĩa đi đôi đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân : Nước ta
đi theo con đường dân chủ xã hội chủ nghĩa Thực chất của cơng cuộc đổi mới và kiện
tồn hệ thống chính trị ở nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; dân chủ
vừa là mục tiêu vừa là động lực của cơng cuộc đổi mới.( Báo cáo Chính trị Đại hội VII
của Đảng)
Nhận thức tầm quan trọng vai trị lãnh đạo và cầm quyền của Đảng : Cơng cộc đổi
mới cũng như toàn bộ sự nghiệp cách mạng đều phụ thuộc chặt chẽ với sự lãnh đạo
của Đảng. Đảng ta đã liên tục đổi mới , tự điều chỉnh để có đủ khả năng và điều kiện
lãnh đạo đúng đắn phù hợp. Coi đây là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.
2.2 Đổi mới kinh tế
Về đổi mới kinh tế, nhờ thực hiện chủ trương “lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm”,
tập trung giải quyết những vấn đề cấp thiết của nhân dân về sản xuất và đời sống, giải
phóng sức sản xuất, hình thành và phát huy vai trò của hệ thống động lực..., nước ta đã
thốt khỏi tình trạng trì trệ và khủng hoảng về kinh tế - xã hội vốn kéo dài nhiều năm .
Để làm được điều đó là cả quá trình từ nền kinh tế kế hoạch hố tập trung bao cấp sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần , hoạt động theo cơ chế thị trường , có sự quản
lí của nhà nước , theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
8
Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội là một nền kinh tế có hai
thành phần, xã hội chủ nghĩa đã đi đến quan niệm về một nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngồi ra cịn có: kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà
nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Các thành phần kinh tế ấy đều là bộ phận
của nền kinh tế quốc dân, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển lâu dài,
cùng hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, phải nhanh chóng hồn
thành cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể, tiểu chủ là những thành phần
kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đã đi đến quan niệm cho rằng việc cải tạo quan hệ sản
xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới nhất thiết phải phù hợp với từng bước phát
triển của lực lượng sản xuất.
Chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là chế độ công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất
đã đi đến quan niệm về một nền kinh tế nhiều sở hữu. Trong đó, khơng chỉ sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất được thừa nhận, mà ngay chế độ công hữu cũng được hiểu
không phải về tất cả các tư liệu sản xuất mà chỉ là về các tư liệu sản xuất chủ yếu để
làm chỗ dựa cho nền kinh tế quốc dân.
Từ quan niệm kinh tế quốc doanh là chủ đạo đã đi đến quan niệm kinh tế nhà
nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và những bộ phận khác như dự trữ quốc gia,
ngân sách nhà nước...) là chủ đạo.
Từ quan niệm hợp tác xã thuần túy là kinh tế tập thể, cho rằng tập thể hóa tư liệu
sản xuất càng mạnh, tỷ trọng sở hữu tập thể càng cao thì hợp tác xã càng gần chủ
nghĩa xã hội, do đó mà gị ép những người lao động cá thể vào hợp tác xã, đã đi đến
quan niệm hợp tác xã là một tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở người lao động
tự nguyện góp sức, góp vốn và quản lý dân chủ, với quy mơ và mức độ tập thể hóa tư
liệu sản xuất khác nhau.
Từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với việc xóa
bỏ nhanh các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, ngay từ đầu, đã là nền tảng của
nền kinh tế quốc dân, đã đi đến quan niệm rằng muốn cho hai thành phần kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
9
dân, thì phải trải qua một quá trình xây dựng, củng cố và phát triển hai thành phần đó
với những bước đi thích hợp.
Từ quan niệm Nhà nước phải chỉ huy nền kinh tế theo một kế hoạch tập trung với
những chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, đã đi đến quan niệm phân biệt rõ chức
năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh; chức năng quản
lý nhà nước về kinh tế và chủ sở hữu tài sản công là thuộc Nhà nước, cịn chức năng
quản lý kinh doanh thì thuộc về doanh nghiệp.
Từ quan niệm chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính đáng là phân
phối theo lao động, đã đi đến quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa
trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và phân phối thông
qua phúc lợi xã hội.
Từ quan niệm thị trường xã hội chủ nghĩa đối lập với thị trường tư bản chủ nghĩa,
hạn chế quan hệ kinh tế quốc tế, đã đi đến quan niệm về một nền kinh tế mở, thực hiện
đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và toàn
cầu; kết hợp nội lực với ngoại lực, lấy phát huy nội lực là chính, đồng thời ra sức tranh
thủ ngoại lực để tạo nên sức mạnh tổng hợp; thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế nhưng
vẫn giữ được tính độc lập tự chủ, giữ được độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc
gia, dân tộc.
Từ chỗ quan niệm đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư bản chủ nghĩa đã đi
đến quan niệm coi sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường khơng phải là sản phẩm
riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là thành quả phát triển qua nhiều phương thức sản xuất
mặc dù đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế thị trường phát triển đến mức điển hình.
3. Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế
Tại sao Đảng ta lại đặt ra yêu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới, ưu tiên hàng
đầu hơn hết là đổi mới tư duy? Bởi vì khơng có bước đổi mới tư duy đi trước thì
khơng có bất cứ một sự đổi mới nào cả. Đổi mới tư duy để tìm ra những vấn đề lý luận
và thực tiễn của nước ta, làm căn cứ phương pháp luận cho việc xác định con đường
và bước đi sắp tới. Đổi mới tư duy thực chất là một cuộc giải phóng triệt để mang ý
10
nghĩa lịch sử. Tư tưởng giải phóng là một quá trình rời bỏ khỏi bản thân mình và tồn
xã hội, những gì đang kìm hãm và cản trở sự phát triển, quá trình tổ chức lại xã hội và
đưa vào cơ chế vận hành của xã hội một hệ thống đồng bộ các yếu tố vật chất và tinh
thần, tạo nên lực đẩy cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Ngày nay cách mạng đã chuyển sang một giai đoạn phát triển mới khác về chất:
Xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa - Một phương thức
chưa từng có trong tiền lệ. Con đường mới lại diễn ra trong xu thế tồn cầu hố và sự
cạnh tranh rất quyết liệt trước sức ép của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch,
trước sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học và cơng nghệ. Trong hồn
cảnh ấy, đổi mới tư duy và phương thức lãnh đạo của Đảng trở thành nhu cầu không
thể thiếu.
Thực tiễn cho thấy, sức sống của Đảng chính trị tập trung trước hết là ở đường lối
của chính Đảng ấy. Là một Đảng cầm quyền, Đảng ta lãnh đạo cách mạng cũng chính
bằng đường lối chính trị của mình.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa rõ ràng là những vấn đề hoàn toàn
mới cả về lý luận và thực tiễn. Mác, Ăng ghen, Lênin và kể cả các lãnh tụ tiền bối của
Đảng ta cũng chưa từng đề cập đến vấn đề này. Con đường phía trước địi hỏi chúng ta
phải hồn tồn sáng tạo mới.
Con đường ấy vừa thể hiện sự trung thành với quá khứ, nhưng không lệ thuộc vào
quá khứ. Trong kinh tế, chúng ta một mặt rất muốn phát triển, nhưng mặt khác lại rất
sợ phát triển vượt khỏi khuôn khổ chuẩn mực của chủ nghĩa xã hội theo những tiêu chí
truyền thống. Vì vậy, đường lối kinh tế vẫn mang nặng hơi thở của lối tư duy cũ, tư
duy thời kế hoạch hoá-tư duy bao cấp, đối lập với kinh tế thị trường. Kết quả là đường
lối đổi mới trong kinh tế chưa thực sự khơi dậy mọi nguồn lực hiện có. Nguy cơ tụt
hậu về kinh tế ngày càng xa hơn là có thật. Do đó, Đảng đã chỉ đạo chuyển sang kinh
tế thị trường, thiết kế một hệ thống chính sách nhằm tạo điều kiện để tất cả mọi công
dân ở trong nước và các nhà đầu tư nước ngồi, có khả năng làm kinh tế đều hồn tồn
có thể tham gia làm kinh tế, theo những định hướng vĩ mô của nhà nước, trong khuôn
khổ của luật pháp.
11
Đường lối đổi mới là sản phẩm của đổi mới tư duy, của sự khảo nghiệm từ thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhiều năm trước đó, là sự kế thừa và phát triển đường
lối đã hình thành qua các thời kỳ và tổng kết thực tiễn một cách nghiêm túc, sáng tạo.
Khẳng định đổi mới tư duy là trước tiên, là cơ sở cho việc đổi mới ở các lĩnh vực
khác, Đảng ta cũng khẳng định đổi mới kinh tế giữ vai trị trọng tâm. Điều đó khơng
chỉ có ý nghĩa là kinh tế có vị trí hàng đầu, có tác dụng quyết định mà cịn là vì phát
triển kinh tế trong điều kiện bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội
như nước ta, có tầm quan trọng đặc biệt, nếu khơng muốn nói là quan trọng bậc nhất.
Nó cịn có ý nghĩa là vai trị kinh tế tuy chiếm vị trí hàng đầu nhưng tư duy kinh tế
của chúng ta trong nhiều năm qua còn quá lạc hậu so với cuộc sống, cản trở khơng ít
đến sự phát triển kinh tế. Tư duy kinh tế lỗi thời bắt nguồn từ căn bệnh giáo điều, bảo
thủ, trì trệ, ln bám lấy cái cũ, khơng chịu đổi mới, chính vì vậy mà nền kinh tế - xã
hội nước ta đã lâm vào một cuộc khủng hoảng kéo dài và đang trở thành vấn đề nóng
bỏng, nổi lên hàng đầu. Đổi mới tư duy kinh tế, vì vậy, là điểm xuất phát trong đổi mới
lý luận của Đảng, là điều hợp với thực tế, với logic cuộc sống.
Trong quá trình đổi mới, từ thực tế nền kinh tế nước ta ở điểm xuất phát thấp kém,
lạc hậu, lại lâm vào khủng hoảng từ cuối thập niên bảy mươi, Đảng ta chủ trương lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm, tạo ra bước phát triển có tính bứt phá để sớm đưa đất
nước ra khỏi khủng hoảng, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Đảng, Nhà nước ta
đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội từ 1996 và đạt thành tựu to lớn
về kinh tế qua 20 năm đổi mới.
Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị có vị trí và tác động to lớn
tới kinh tế. Thấu triệt sâu sắc và xử lý thành cơng mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế
trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị.
12
KẾT LUẬN
Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ mật thiết với nhau . Lý luận là “kim chỉ nam”
soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Lý luận góp phần phát huy tối đa sức
mạnh của cộng đồng trong hoạt động thực tiễn. Từ đó phân tích , vận dụng vai trị của
lí luận vào thực tiễn .Bỏ qua những tư duy kinh tế còn quá lạc hậu so với cuộc sống,
cản trở khơng ít đến sự phát triển kinh tế, từ căn bệnh giáo điều, bảo thủ, luôn bám lấy
cái cũ, không chịu đổi mới, do vậy mà nền kinh tế - xã hội nước ta đã lâm vào một
cuộc khủng hoảng kéo dài Đổi mới tư duy kinh tế, Từ đây ,đổi mới tư duy là điểm xuất
phát trong đổi mới lý luận của Đảng, là điều hợp với thực tế, với logic cuộc sống. Qua
những lí luận , Đảng ta đã vận dụng linh hoạt , điều chỉnh,sáng tạo và chủ động , tìm ra
các phương pháp , đường lối phù hợp xuyên suốt những khó khăn, những vấn đề khó
khăn nảy sinh trong thực tiễn cách mạng nước ta . Qua đó , góp phần phát triển vận
dụng triệt để các lí luận , vừa thực hiện , vừa kiểm nghiệm và định hướng vào thực
tiễn.
Sự nghiệp đổi mới không ngừng phát triển , mở rộng trên phạm vi thế giới , trong
đó có Việt Nam.Nhận thức tầm quan trọng của lí luận và thực tiễn, ta dần áp dụng vào
13
cơng cuộc xây dựng và phát triển của tồn Đảng toàn dân toàn đât nước . Quan trọng
hơn hết là đổi mới tư duy và đôỉ mới kinh tế . Đây là bước đệm gúp nước ta thốt khỏi
tình trạng khó khăn, bước tiếp trong chặng đường phát triển phía trước . Xuyên suốt đề
tài , em đã cố gắng bám sát , khai thác trong Nguyên lí cơ bản chủ nghĩa Marx-Lenin ,
từ mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn , tìm ra mối liện hệ chặt chẽ giữa đổi mới tư
duy và đổi mới kinh tế trong sự nghiệp đổi mới của nước ta . Tuy nhiên bài nghiên cứu
còn nhiều hạn chế , tài liệu tản mạn. Em hi vọng rằng sẽ có cơ hội nghiêm cứu đè tài
sâu hơn , toàn diện hơn.
Danh mục tài liệu tham khảo :
-Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị,
Triết học Mác - Lênin, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2018, tr. 105- 138.
- C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 3, tr. 9.
- Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 8, tr. 496 - 497.
14