Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Phân tích quan niệm của chủ nghĩa mác – lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân? giai cấp công nhân hiện nay còn đảm nhận sứ mệnh lịch sử đó không giải thích và chứng minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.87 KB, 26 trang )

lOMoARcPSD|9242611

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CLC VÀ POHE

BÀI TẬP LỚN MƠN CHXHKH
ĐỀ BÀI: Phân tích quan niệm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân? Giai cấp công nhân hiện nay
cịn đảm nhận sứ mệnh lịch sử đó khơng? Giải thích và chứng minh.

Họ và tên SV: Nguyễn Thị Tuyết Mai
Lớp tín chỉ: Tài chính tiên tiến 63D
Mã SV: 11213697
GVHD: TS NGUYỄN THỊ LÊ THƯ

HÀ NỘI, NĂM 2022


lOMoARcPSD|9242611

I.

QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ SỨ MỆNH LỊCH
SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

1. Khái niệm và đặc điểm của giai cấp công nhân
1.1.

Khái niệm giai cấp công nhân

Giai cấp công nhân được các nhà kinh điển xác định theo hai phương diện cơ


bản:
Về phương diện kinh tế - xã hội: Là sản phẩm và là chủ thể của nền sản xuất
đại công nghiệp, giai cấp công nhân là những người lao động trực tiếp hay gián
tiếp vận hành các cơng cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày càng hiện đại
và xã hội hóa cao. Họ lao động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện
đại với những đặc điểm nổi bật: sản xuất bằng máy móc, lao động có tính chất
xã hội hóa, năng suất lao động cao và tạo ra những tiền đề của cải vật chất cho
xã hội mới.
Về phương diện chính trị - xã hội: Từ lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư
bản, giai cấp cơng nhân cịn là sản phẩm xã hội của quá trình phát triển tư bản
chủ nghĩa, một xã hội có “điều kiện tồn tại dựa trên cơ sở chế độ làm thuế”.
Trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, “giai cấp vô sản là giai cấp những
cơng nhân làm th hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc
phải bán sức lao động của mình để sống”.
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ, đó là giai cấp của những nguời lao động
khơng có sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Họ phải bán sức lao động
cho nhà tư bản và bị chủ tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Đối diện với nhà tư bản,
công nhân là những nguời lao động tự do, với nghĩa là tự do bán sức lao động
của mình để kiếm sống. Chính điều này khiến cho giai cấp công nhân trở thành
giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản. “Những công nhân ấy, buộc phải tự bán
mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán
như bất cứ món hàng nào khác, vì thế, họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh
tranh, mọi sự lên xuống của thị trường.


lOMoARcPSD|9242611

Theo chủ nghĩa Mác - Lênin: Giai cấp công nhân là một tập đồn xã hội,
hình thành và phát triển cùng với q trình phát triển của nền cơng nghiệp hiện
đại; Họ lao động bằng phương thức công nghiêp ngày càng hiên đại và gắn liền

với quá trình sản xuất vật chất hiện đại, là đại biểu cho phương thức sản xuất
mang tính xã hội hóa ngày càng cao. Họ là nguời làm th do khơng có tư liệu
sản xuất, buộc phải bán sức lao động để sống và bị giai cấp tư sản bóc lột giá
trị thặng dư; vì vậy lợi ích cơ bản của họ đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp
tư sản. Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ định chế độ tư bản chủ nghīa, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giởi.
I.2 . Đặc điểm của giai cấp công nhân
Nghiên cứu giai cấp công nhân (giai cấp vô sản) từ phương diện kinh tế - xã
hội và chính trị - xã hội trong chủ nghĩa tư bản, Mác và Ăngghen đã không
những đưa lại quan niệm khoa học về giai cấp công nhân mà còn làm sáng tỏ
những đặc điểm quan trọng của nó với tư cách là một giai cấp cách mạng có sứ
mệnh lịch sử thế giới. Có thể khái quát những đặc điểm chủ yếu của giai cấp
công nhân bao gồm:
Đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân là lao động bằng phương thức công
nghiệp với đặc trưng công cụ lao động là máy móc, tạo ra năng suất lao động
cao, q trình lao động mang tính chất xã hội hóa.
Giai cấp cơng nhân là sản phầm của bản thân nền đại cơng nghiệp, là chủ thể
của q trình sản xuất vật chất hiện đại. Do đó, giai cấp công nhân là đại biểu
cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất tiên tiến, quyết định
sự tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại.
Nền sản xuất đại công nghiệp và phương thức sản xuất tiên tiến đã rèn luyện
cho giai cấp công nhân những phẩm chất đặc biệt về tính tổ chức, kỷ luật lao
động, tinh thần hợp tác và tâm lý lao động cơng nghiệp. Đó là một giai cấp cách
mạng và có tinh thần cách mang triệt để.
Những đặc điểm ấy chính là những phầm chất cần thiết để giai cấp công nhân
có vai trị lãnh đạo cách mạng.


lOMoARcPSD|9242611


2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân theo quan niệm của
chủ nghĩa Mác-Lênin
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thể hiện trên ba nội dung cơ bản:
Nội dung kinh tế: Là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội hóa cao,
giai cấp công nhân cũng là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới, sản xuất ra của
cải vật chất ngày càng nhiều đáp ứng nhu cầu ngày càng tǎng của con người và
xã hội. Bằng cách đó, giai cấp công nhân tạo tiền đề vật chất - kỹ thuật cho sự ra
đời của xã hội mới.
Mặt khác, tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất địi hỏi một quan
hệ sản xuất mới, phù hợp với chế độ công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu của
xã hội là nền tảng, tiêu biểu cho lợi ích của tồn xã hội. Giai cấp cơng nhân đại
biểu cho lợi ích chung của xã hội. Chỉ có giai cấp cơng nhân là giai cấp duy nhất
khơng có lợi ích riêng với nghĩa là tư hữu. Nó phấn đấu cho lợi ích chung của
tồn xã hội. Nó chỉ tìm thấy lợi ích chân chính của mình khi thực hiện được lợi
ích chung của cả xã hội.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp cơng nhân thơng qua q trình cơng
nghiệp hóa và thực hiện “một kiểu tổ chức xã hội mới về lao động” để tăng năng
suất lao động xã hội và thực hiện các nguyên tắc sở hữu, quản lý và phân phối
phù hợp với nhu cầu phát triển sản xuất, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Trên thực tế, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa lại ra đời từ phương thức
phát triển rút ngắn, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Do đó, để thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình về nội dung kinh tế, giai cấp cơng nhân phải đóng vai trị
nịng cốt trong q trình giải phóng lực lượng sản xuất (vốn bị kìm hãm, lạc hậu,
chậm phát triển trong quá khứ), thúc đẩy lực lưọng sản xuất phát triển để tạo cơ
sở cho quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa ra đời.
Nội dung chính trị - xã hội: Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ
quyền thống trị của giai cấp thống trị, xóa bỏ chế độ bóc lột, áp bức, giành
quyền lực về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Thiết lập nhà nước
kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ



lOMoARcPSD|9242611

nghĩa, thực hiện quyền lực của nhân dân, quyền dân chủ và làm chủ xã hội của
tuyệt đại đa số nhân dân lao động.
Giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình, do
mình làm chủ như một cơng cụ có hiệu lực để cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây
dụmg xã hội mới, phát triển kinh tế và văn hóa, xây dựng nền chính trị dân chủ pháp quyền, quản lý kinh tế - xã hội và tổ chức đời sống xã hội phục vụ quyền
và lợi ích của nhân dân lao động, thực hiện dân chủ, cơng bằng, bình đẳng và
tiến bộ xã hội, theo lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Nội dung vǎn hóa, tư tưởng: Thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp
cơng nhân trong tiến trình cách mang cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới
trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng cần phải tập trung xây dựng hệ giá trị mới: lao
động; cơng bằng; dân chủ; bình đằng và tự do.
Giai cấp công nhân thực hiện cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng bao
gồm cải tạo cái cũ lỗi thời, lạc hậu, xây dựng cái mới, tiến bộ trong lĩnh vực ý
thức tư tưởng, trong tâm lý, lối sống và trong đời sống tinh thần xã hội. Xây
dựng và củng cố ý thúc hệ tiên tiến của giai cấp cơng nhân, đó là chủ nghĩa Mác
-Lênin, đấu tranh để khắc phục ý thức hệ tư sản và các tàn dư cịn sót lại của các
hệ tư tưởng cũ. Phát triển vǎn hóa, xây dựng con nguời mới xã hội chủ nghĩa,
đạo đức và lối sống mới xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung căn bản
mà cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa tư tuởng đặt ra đối với sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại.
3. Những điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân
3.1.

Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Thứ nhất, do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân là


con đẻ, là sản phẩm của nền đại cơng nghiệp có tính xã hội hóa ngày càng cao,
là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại. Vì thế, giai cấp cơng nhân đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất hiện đại. Do lao
động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại, giai cấp công nhân là


lOMoARcPSD|9242611

người sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho xã hội, làm giàu cho xã hội, có
vai trị quyết định sự phát triển của xã hội hiện đại.
Điều kiện khách quan này là nhân tố kinh tế, quy định giai cấp công nhân là
lực lượng phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giành chính quyền về tay
mình, chuyển từ giai cấp “tự nó” thành giai cấp “vì nó”. Giai cấp cơng nhân trở
thành đại biểu cho sự tiến hóa tất yếu của lịch sử, là lực lượng duy nhất có đủ
điều kiện để tổ chức và lãnh đạo xã hội, xây dựng và phát triển lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng
chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội kiểu mới, khơng cịn chế độ
nguời áp bức, bóc lột người.
Thứ hai, do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định.
Là giai cấp sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho xã hội, nhưng trong chủ
nghĩa tư bản họ lại là người khơng có sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu, phải bán
sức lao động để kiếm sống, bị bóc lột nặng nề, lợi ích cơ bản của họ đối lập trực
tiếp với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản và thống nhất với lợi ích cơ bản của đa
số nhân dân lao động.
Là con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân có được
những phẩm chất của một giai cấp tiên tiến, giai cấp cách mạng: tính tổ chức và
kỷ luật, tự giác và đoàn kết trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giài
phóng xã hội.
Những phẩm chất ấy của giai cấp cơng nhân duợc hình thành từ chính

những điều kiện khách quan, được quy định từ địa vị kinh tế và địa vị chính trị xã hội của nó trong nền sản xuất hiện đại và trong xã hội hiện đại mà giai cấp tư
sản và chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một cách khách quan, ngoài ý muốn của nó.
Giai cấp cơng nhân được trang bị lý luận tiên tiến là chủ nghĩa Mác - Lênin,
có đội tiền phong là Đảng Cộng sản dẫn dắt.
Tóm lại, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân sở dĩ được thực hiện bởi giai
cấp cơng nhân, vì nó là một giai cấp cách mạng, đại biểu cho lực lượng sản xuất
hiện đại, cho phương thức sản xuất tiên tiến thay thế phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, xác lập phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, hình thái kinh


lOMoARcPSD|9242611

tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân là giai cấp đại biểu cho tương
lai, cho xu thế đi lên của tiến trình phát triển lịch sử. Đây là đặc tính quan trọng,
quyết định bản chất cách mạng của giai cấp cơng nhân. Hồn tồn khơng phải vì
nghèo khổ mà giai cấp cơng nhân là một giai cấp cách mạng. Tình trạng nghèo
khổ của giai cấp công nhân dưới chủ nghĩa tư bản là hậu quả của sự bóc lột, áp
bức mà giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản tạo ra đối với công nhân. Đó là trạng
thái mà cách mạng sẽ xóa bỏ để giải phóng giai cấp cơng nhân và giải phóng xã
hội.
3.2.

Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử

Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra những điều kiện thuộc về nhân tố chủ quan để
giai cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Đó là:
Sự phát triển của bản thân giai cấp cơng nhân cả về số lượng và chất lượng.
Thông qua sự phát triển này có thể thấy sự lớn mạnh của giai cấp công nhân
cùng với quy mô phát triển của nền sản xuất vật chất hiện đại trên nền tảng của
công nghiệp, của kỹ thuật và công nghệ.

Sự phát triển về số lượng phải gắn liền với sự phát triển về chất lượng giai
cấp công nhân hiện đại, đảm bảo cho giai cấp công nhân thực hiện được sứ
mệnh lịch sử của mình. Chất lượng giai cấp cơng nhân phải thể hiện ở trình độ
trưởng thành về ý thức chính trị của một giai cấp cách mạng, tức là tự giác nhận
thức được vai trò và trọng trách của giai cấp mình đối với lịch sử, do đó giai cấp
cơng nhân phải được giác ngộ về lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Là giai cấp đại diện tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, chát lượng
giai cấp cơng nhân cịn phải thể hiện ở năng lực và trình độ làm chủ khoa học kỹ
thuật và công nghệ hiện đại, nhất là trong điều kiện hiện nay.
Để phát triển giai cấp công nhân về số lượng và chất lượng, theo chủ nghĩa
Mác- Lênin phải đặc biệt chú ý đến hai biện pháp cơ bản: 1) Phát triển công
nghiệp - “tiền để thực tiễn tuyệt đối cần thiết” và 2) Sự trưởng thành của Đảng
Cộng sản - hạt nhân chính trị quan trọng của giai cấp công nhân.


lOMoARcPSD|9242611

Chỉ với sự phát triển về số lượng và chất lượng, đặc biệt về chất lượng, giai
cấp công nhân mới có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình.
Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân
thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.
Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân ra đời và đảm nhận
vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng là dấu hiệu về sự trưởng thành vượt bậc của
giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp cách mạng.
Quy luật chung, phổ biến cho sự ra đời của Đảng Công sản là sự kết hợp
giữa chủ nghĩa xã hội khoa học, tức chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công
nhân.
Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội và nguồn bổ sung lực lượng quan trọng
nhất của Đảng, làm cho Đảng mang bản chất giai cấp công nhân trở thành đội

tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp. Đảng Cộng sản đại biểu trung
thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc và xã hội. Sức mạnh của
Đảng không chỉ thể hiện ở bản chất giai cấp cơng nhân mà cịn ở mối liên hệ
mật thiết giữa Đảng với nhân dân, với quần chúng lao động đông đảo trong xã
hội, thực hiện cuộc cách mạng do Đảng lãnh đạo để giải phóng giai cấp và giải
phóng xã hội.
Ngồi hai điều kiện thuộc về nhân tố chủ quan nêu trên chủ nghĩ a MácLênin còn chỉ rõ, để cuộc cách mạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân đi tới thắng lợi, phải có sự liên minh giai cấp giữa giai cấp cơng nhân
với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác do giai cấp công nhân thông
qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Đây cũng là một điều kiện quan trọng không thể thiếu để thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân.
II.

GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ VIỆC THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH
SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY

Sau những biến động thế giới phức tạp, mơ hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ vào cuối thế kỷ XX, những nhà lý luận tư sản, cùng


lOMoARcPSD|9242611

các phần tử cơ hội, xét lại đã lớn tiếng tuyên bố rằng, đây là hồi chuông báo hiệu
sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội, học thuyết Mác - Lê-nin đã lỗi thời, sứ mệnh
lịch sử của giai cấp cơng nhân khơng cịn nữa. Vậy, có đúng là hiện nay giai cấp
cơng nhân khơng cịn sứ mệnh lịch sử nữa?
Sự thực không phải như vậy. Bởi, sự vận động tất yếu của lịch sử thế giới một
phần tư thế kỷ qua chính là bằng chứng chân thực để phủ nhận những tuyên bố
đó. Chủ nghĩa xã hội hiện thực vẫn luôn tồn tại, phát triển trong cải cách, đổi

mới; giai cấp công nhân vẫn không ngừng phát triển cả về số lượng, chất lượng
và khẳng định vai trò sứ mệnh lịch sử của họ.
So với giai cấp công nhân truyền thống ở thế kỷ XIX thì giai cấp cơng nhân
hiện nay vừa có những điểm tương đồng vừa có những điểm khác biệt, có những
biến đổi mới trong điều kiện lịch sử mới. Cần phải làm rõ những điểm tương
đồng và khác biệt đó theo quan điểm lịch sử - cụ thể của chủ nghĩa Mác - Lênin
để một mặt khẳng định những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, mặt khác, cần
có những bổ sung, phát triển nhận thức mới về việc thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân hiện nay.
1. Giai cấp công nhân hiện nay và giai cấp công nhân thế kỉ XIX
1.1.

Về những điểm tương đối ổn định so với thế kỷ XIX

Giai cấp công nhân hiện nay vẫn đang là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã
hội hiện đại. Họ là chủ thể của q trình sản xuất cơng nghiệp hiện đại mang
tính xã hội hóa ngày càng cao. Ở các nước phát triển, có một tỷ lệ thuận giữa sự
phát triển của giai cấp công nhân với sự phát triển kinh tế. Lực lượng lao động
bằng phương thức công nghiệp chiếm tỷ lệ cao ở mức tuyệt đối ở những nước có
trình độ phát triển cao về kinh tế, đó là những nước cơng nghiệp phát triển (như
các nước thuộc nhóm G7). Cũng vì thế, đa số các nước đang phát triển hiện nay
đều thực hiện chiến lược cơng nghiệp hóa nhằm đẩy mạnh tốc độ, chất lượng và
quy mơ phát triển. Cơng nghiệp hóa vẫn là cơ sở khách quan để giai cấp công
nhân hiện đại phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng.
Cũng giống như thế kỷ XIX, ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, công nhân
vẫn bị giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Quan hệ sản


lOMoARcPSD|9242611


xuất tư bản chủ nghĩa với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sản sinh ra
tình trạng bóc lột này vẫn tồn tại. Thực tế đó cho thấy, xung đột về lợi ích cơ bản
giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân (giữa tư bản và lao động) vẫn tồn tại,
vẫn là nguyên nhân cơ bản, sâu xa của đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện đại
ngày nay.
Phong trào cộng sản và công nhân ở nhiều nước vẫn luôn là lực lượng đi đầu
trong các cuộc đấu tranh vì hịa bình, hợp tác và phát triển, vì dân sinh, dân chủ,
tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội.
Từ những điểm tương đồng đó của công nhân hiện đại so với công nhân
thế kỷ XIX, có thể khẳng định: Lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân trong chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn mang giá trị khoa học và cách mạng, vẫn
có ý nghĩa thực tiễn to lớn, chỉ đạo cuộc đấu tranh cách mạng hiện nay của giai
cấp công nhân, phong trào công nhân và quần chúng lao động, chống chủ nghĩa
tư bản và lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa trong sự phát triên của thế giới
ngày nay.
1.2.

Những biến đổi tích cực của giai cấp cơng nhân Việt Nam hiện nay

Một là, số lượng GCCN tiếp tục phát triển nhanh.
Theo mục tiêu của Kế hoạch 5 năm 2006-2010, tỷ trọng trong Tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) của nước ta vào năm 2010: nông nghiệp là 15%-16%; công
nghiệp và xây dựng là 43% - 44%; dịch vụ là 40% - 41% 1. Theo số liệu điều tra
dân số của Tổng cục Thống kê (tính đến 01-4-2009), dân số nước ta có
85.789.573 người, trong đó có 47.743.000 lao động làm việc trong các ngành
kinh tế quốc dân. Số công nhân, lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp
và dịch vụ công nghiệp (kể cả một số lĩnh vực sản xuất và chế biến nông - lâm thuỷ sản được công nghiệp hoá) khoảng từ 14 triệu đến 15 triệu người, tăng hơn
5 triệu người so với năm 2005. Năm 2009, lao động làm công ăn lương ở nước
ta chiếm khoảng 27,5% lực lượng lao động có việc làm (khoảng 12,8 triệu
người); trong đó, đội ngũ cơng nhân có khoảng 9,5 triệu người. Đến năm 2020,

lao động làm công ăn lương sẽ chiếm khoảng 50% lực lượng lao động có việc
làm (27,5 triệu người); trong đó, GCCN có khoảng 20,5 triệu người.


lOMoARcPSD|9242611

Hai là, chất lượng GCCN không ngừng được nâng lên.
Quá trình cơng nghiệp hóa cùng với cải cách, đổi mới đang tạo ra nhiều đặc
điểm mới cho GCCN. Tác nhân hàng đầu làm biến đổi GCCN hiển nhiên là các
cuộc cách mạng công nghiệp với chu kỳ ngày càng ngắn hơn, yêu cầu đa diện
hơn. Trong hơn 100 năm gần đây nhất người ta đã thấy 3 cuộc cách mạng công
nghiệp: lần thứ hai, lần thứ ba và lần thứ tư. Trong thế kỷ XX, nhân loại cũng đã
tiến hành 2 kiểu cơng nghiệp hóa là cơng nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa (TBCN)
và cơng nghiệp hóa XHCN. Các cuộc cách mạng công nghiệp với chu kỳ ngày
càng ngắn dần: Từ “đại công nghiệp” tức là từ “công nghiệp 1.0” đến “công
nghiệp 2.0” mất gần hai thế kỷ; nhưng từ “công nghiệp 2.0” đến “công nghiệp
3.0” chỉ khoảng một thế kỷ; cịn từ “cơng nghiệp 3.0” đến “cơng nghiệp 4.0” chỉ
mất 30 năm!
Cơng nghiệp hóa theo kiểu mới với các đặc trưng: Rút ngắn (diễn ra không
tuần tự từ A đến Z mà phải tận dụng lợi thế so sánh của mỗi quốc gia); gắn với
hiện đại hóa (sử dụng thành tựu khoa học và công nghệ mới, đáp ứng những yêu
cầu mới về phát triển bền vững về xã hội và môi trường, sinh thái...); nguồn
nhân lực cho công nghiệp hóa được chuẩn bị sớm và kỹ hơn; các u cầu ngồi
cơng nghiệp như tính nhân văn, bảo vệ môi trường, sinh thái, tài nguyên cao
hơn; và hội nhập thị trường quốc tế cấp thiết hơn... Đặt trong xu thế chung đó,
GCCN Việt Nam sẽ phát triển theo chiều hướng cơ bản như sau:
Xu hướng “trí thức hóa” cơng nhân tăng nhanh. Gắn liền với cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, với sự phát triển kinh tế tri thức, cơng nhân
hiện đại có xu hướng trí tuệ hóa. Tri thức hóa và trí thức hóa cơng nhân là hai
mặt của cùng một quá trình, của xu hướng trí tuệ hóa đối vói cơng nhân và giai

cấp cơng nhân. Trên thực tế đã có thêm nhiều khái niệm mới để chỉ cơng nhân
theo xu hng này. Đó là “cơng nhân tri thức”, “cơng nhân trí thức”, “cơng nhân
áo trắng”, lao động trình độ cao. Nền sản xuất và dịch vụ hiện đại địi hỏi nguời
lao động phải có hiểu biết sâu rộng tri thức và kỹ năng nghề nghiêp.
Ngày nay, công nhân được đào tạo chuẩn mực và thường xuyên đuợc đào
tạo lại, đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của cơng nghệ trong nền sản xuất. Hao


lOMoARcPSD|9242611

phí lao động hiện đại chủ yếu là hao phí về trí lực chứ khơng cịn thuần túy là
hao phí sức lực cơ bắp. Cùng với nhu cầu về vật chất, nhu cầu về tỉnh thần và
văn hóa tinh thần của công nhân ngày càng tǎng, phong phú đa dạng hơn và đòi
hỏi chất lượng hưởng thụ tinh thần cao hơn.
Xu hướng tồn cầu hóa về nhân lực. Theo đó, lý luận “GCCN là sản phẩm và
chủ thể của đại công nghiệp” đã được bổ sung thêm nhiều nhận thức lý luận
mới. Sự phát triển của công nhân gắn liền với hội nhập kinh tế thế giới, chẳng
hạn, tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu từ lợi thế và chấp nhận hợp tác, hội
nhập quốc tế. Tồn cầu hóa về nhân lực với các nội dung như: dòng lao động và
sức lao động có thể dịch chuyển đến nhiều quốc gia; đào tạo công nhân ngày
càng được chuẩn mực hóa theo các tiêu chuẩn chung (chẳng hạn ISO); nhà sử
dụng lao động lớn nhất thế giới hiện nay là các công ty xuyên quốc gia - TNC
“với các tiêu chuẩn sản xuất và điều kiện làm việc của công nhân giống hệt
nhau.” Q trình sản xuất hàng hóa cơng nghiệp của công nhân buộc phải đáp
ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế, đáp ứng những nhu cầu “khó tính” của thị
trường... Và kết quả là một sản phẩm công nghiệp được công nhân tạo ra không
chỉ là kết quả của cơng nghệ - kỹ thuật mà cịn là sự tích hợp những giá trị kinh
tế, xã hội, mơi trường. Nhiều nước phát triển đã ứng dụng cơ chế quản lý linh
hoạt (FMS) trong cơng nghiệp để khuyến khích tính linh hoạt, sáng tạo, tối ưu
hóa q trình sản xuất bằng nhiều nguyên tắc, như thường xuyên đổi mới công

nghệ, tiết kiệm tối đa năng lượng và vật tư, hạn chế thời gian lưu kho bãi, linh
hoạt thời gian và địa điểm làm việc (chế độ làm việc tại nhà). Cơng nhân hiện
đại khơng cịn là “chiếc đinh ốc trong dây chuyền sản xuất TBCN” mà có tính
chủ động hơn, tư duy năng động và đa diện hơn.
Xu hướng chun mơn thuần túy đồng hành với tích cực hóa chính trị - xã
hội. Tư duy mới về chính trị có thể thúc đẩy sự phát triển của GCCN. Chế độ
XHCN đã tạo ra một chất lượng mới, quy mô và tốc độ mới cho cơng nghiệp
hóa. Ngay trong kiểu cơng nghiệp hóa này cũng có 2 trình độ là cơng nghiệp hóa
theo mơ hình cơng nghiệp hóa cũ và theo mơ hình cơng nghiệp hóa mới. Hiện
nay, cùng với lý luận cơng nghiệp hóa mới của thế giới và xu thế tồn cầu hóa,

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

hội nhập quốc tế, các nước XHCN có thể thơng qua hợp tác - phân công lao
động quốc tế để thực hiện cơng nghiệp hóa. Chính CNTB cũng cần đến CNXH
và tìm đến để hợp tác trong sản xuất tồn cầu. Đổi mới tư duy chính trị, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, đẩy mạnh hội nhập quốc tế... là xu
thế chung của nhiều quốc gia. Giai cấp công nhân đã xuất hiện với số lượng,
chất lượng và diện mạo mới khơng chỉ từ cơng nghiệp hóa mà còn từ cải cách,
đổi mới. Nhưng quan trọng hơn, là khả năng phát triển, cơ động xã hội của
GCCN và các giai cấp khác. Trước đây, như nhận định của một tác giả Trung
Quốc: “Nhà nước trao cho GCCN địa vị giai cấp lãnh đạo và thực hiện chính
sách phúc lợi tồn xã hội khiến cho GCCN có được địa vị xã hội và kinh tế “trời
phú” rất cao, ở vào vị trí trung tâm trong tồn bộ kết cấu xã hội, được hưởng
một loạt quyền lợi đặc thù, có sự khác biệt với giai cấp nơng dân trên nhiều
phương diện và cao hơn nhiều so với nông dân” (9). Nhưng hiện nay, “thân phận
“trời phú” của GCCN Trung Quốc đương đại bị phá vỡ, chuyển biến từ tượng

trưng thân phận sang khái niệm nghề nghiệp”. “Phương thức hợp đồng hóa nghề
nghiệp” thay cho chế độ cơng nhân, viên chức vĩnh viễn; quan hệ lợi ích kinh tế
thay cho quan hệ hành chính, “từ trạng thái do quá khứ lưu truyền đến trạng thái
do khế ước quy định”. Rõ ràng, công nhân hiện nay không chỉ là sản phẩm của
cơng nghiệp hóa mà cịn là sản phẩm của đổi mới chính trị. Trong một số trường
hợp, chính trị, chính sách đã tác động mạnh mẽ, trực tiếp và tạo biến đổi sâu sắc
đối với GCCN.
Ba là, kinh tế thị trường làm cho cơ cấu GCCN ngày càng đa dạng hơn.
Nhận thức mới về vai trò của kinh tế thị trường là tạo ra một không gian rộng
mở hơn cho sự phát triển về nhiều mặt của GCCN với nhiều thành phần kinh tế
cùng tham gia q trình cơng nghiệp hóa. Từ thực tế này, lý luận về GCCN hiện
đại được bổ sung, phát triển thêm. Chẳng hạn, hiệu quả sản xuất - kinh doanh,
năng suất lao động, lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động, trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp, chuỗi giá trị toàn cầu, chủ động hội nhập, tổ
chức chính trị - xã hội của công nhân trong bối cảnh mới,... đều là những vấn
đề lý luận mới mẻ và rộng lớn, phức tạp hơn.

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

Có thể, khái niệm “GCCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở giai đoạn cải
cách, đổi mới” sẽ là một vấn đề mà lý luận về GCCN đang tích hợp thêm các
nội hàm từ thực tiễn hiện nay. Có một số dấu hiệu khá rõ là, trên thế giới đang
có những khái niệm “lưỡng tính” để phản ánh trình độ như “cơng nhân tri thức”,
“cơng nhân - trí thức”, “trí thức - cơng nhân” hoặc ở Trung Quốc có khái niệm
“nơng dân - cơng” để chỉ tính chất đang chuyển biến giai tầng; lại cũng có
những khái niệm mang tính chi tiết hơn về vị trí mà họ tham gia: công nhân
trong thành phần kinh tế nhà nước, công nhân trong thành phần kinh tế tư nhân,

kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Cùng với đó là các khái niệm mang tính phân
lớp nghề nghiệp, như cơng nhân cổ cồn trắng, cổ cồn xanh, cổ cồn vàng, cổ cồn
nâu(11). Trình độ mới của sản xuất và dịch vụ cùng với cách tổ chức xã hội hiện
đại cũng làm cho cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại đa dạng tới mức nội
hàm của nó liên tục phải điều chỉnh theo hướng mở rộng: theo lĩnh vực (công
nhân làm việc trong lĩnh vực công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ); theo trình độ
cơng nghệ (cơng nhân áo xanh - công nhân của công nghiệp truyền thống; công
nhân áo trắng - cơng nhân có trình độ đại học, cao đẳng, chủ yếu làm công việc
điều hành, quản lý sản xuất; công nhân áo vàng - công nhân của các ngành cơng
nghệ mới, cơng nhân áo tím - cơng nhân dịch vụ - lao động đơn giản như gác
cầu thang, vệ sinh đơ thị...). Lại có cả những phân loại cơng nhân theo sở hữu
(có cổ phần, có tư liệu sản xuất và trực tiếp lao động tại nhà để sống và cơng
nhân khơng có cổ phần, chỉ sống bằng sức lao động của mình). Phân loại cơng
nhân theo chế độ chính trị (cơng nhân ở các nước phát triển theo định hướng
XHCN; ở các nước G7; ở các nước đang phát triển...).
Bốn là, một bộ phận lớn công nhân hiện nay xuất thân từ đô thị.
Giai cấp công nhân thời C. Mác là giai cấp lao động làm th, bị bóc lột và
xuất thân chủ yếu từ nơng dân và nông thôn. Nhưng từ những năm 80 của thế kỷ
XX trở lại đây, xu thế đơ thị hóa và đông đảo cư dân đô thị đã bổ sung một
lượng lớn vào nguồn nhân lực của giai cấp công nhân. Trước đây, các vùng tụ
cư trong lịch sử nhân loại thường ở lưu vực các con sông lớn, nơi thuận tiện cho
canh tác nơng nghiệp và có nguồn nước cho sinh hoạt. Ngày nay, đặc biệt là từ

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

giữa thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện những thành phố lớn trên sa mạc, như Lát Vegát (LasVegas) cùng nhiều đô thị ở Trung Đông..., chúng hầu như được xây
dựng và phát triển dựa trên nguyên lý mới là khắc phục giới hạn của tự nhiên,

nhân tạo hóa các điều kiện sống bằng khoa học và công nghệ hiện đại. Đây là
một quá trình gắn liền với phát triển văn minh và cơng nghệ. Đó là những thành
phố được dịch vụ bởi cơng nghệ hiện đại. Nó cần đến công nghệ mới, công
nghiệp và công nhân.
Năm 2005, khu vực có mức đơ thị hóa cao nhất là ở Bắc Mỹ với 82% số dân
sống ở đơ thị, tiếp đó là Mỹ La-tinh và vùng Ca-ri-bê chiếm 80% và châu Âu là
73%. Báo cáo “Nhìn lại triển vọng đơ thị hóa thế giới” của Liên hợp quốc năm
2005, mơ tả “thế kỷ XX đã chứng kiến q trình đơ thị hóa nhanh chóng của cư
dân thế giới” với tỷ lệ cư dân đô thị tăng từ 13% (220 triệu người) năm 1900 lên
29% (732 triệu người) năm 1950 và 49% (3,2 tỷ người) năm 2005. Báo cáo này
cũng ước tính rằng vào năm 2030 con số đó sẽ là 60% (4,9 tỷ người).
Đơ thị hóa làm xuất hiện ngày một đơng đảo hơn đội ngũ lao động làm th,
vốn có mặt từ thời “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, gồm “bác sĩ, luật gia, tu
sĩ, thi sĩ, bác học đều bị giai cấp tư sản biến thành những người làm thuê...” (12).
Song, hiện nay họ đông đúc hơn, đa dạng hơn với hàng nghìn ngành, nghề khác
nhau. Xét về cơ cấu nghề nghiệp, các nhà nghiên cứu đều thấy sự tăng lên của
những nhóm lao động dịch vụ mới. Họ là những người kết hợp cả lao động chân
tay với lao động trí óc. Trong các quốc gia phát triển đã xuất hiện một cơ cấu xã
hội mới với vai trị mới của trí thức, cơng nhân trí thức. Cũng bởi vậy, ở nhiều
nước phát triển hiện nay (các nước G7 lao động nông nghiệp hoặc nông dân chỉ
chiếm từ 2% - 3% lực lượng lao động) liên minh giữa GCCN với giai cấp nơng
dân đã khơng cịn cơ sở xã hội như thế kỷ XIX và thay vào đó là liên minh giữa
những người lao động, mà chủ yếu là hai nhóm lao động đơng đảo ở đơ thị là
sản xuất công nghiệp và dịch vụ bằng phương thức công nghiệp.
Đô thị là nơi mà đấu tranh giai cấp hiện đại bộc lộ tính điển hình của nó. Ph.
Ăng-ghen viết: “Các thành phố lớn là nơi bắt nguồn của phong trào công nhân:
nơi đây công nhân lần đầu tiên đã bắt đầu suy nghĩ về tình cảnh của mình và đấu

Downloaded by tran quang ()



lOMoARcPSD|9242611

tranh để thay đổi nó, nơi đây sự đối lập về lợi ích giữa giai cấp vơ sản và giai
cấp tư sản lần đầu đã biểu lộ ra, nơi đây những liên đoàn lao động, phong trào
Hiến chương và chủ nghĩa xã hội đã ra đời...”. Và quan trọng hơn: “Cách mạng
công nghiệp tập trung tư sản và vô sản vào các thành thị lớn, ở đó sự phát triển
cơng nghiệp là có lợi hơn cả, và sự tập trung đông đảo quần chúng vào một chỗ
như vậy làm cho vơ sản nhận thức được sức mạnh của mình”. Thực tiễn chính
trị hiện nay cũng đang xác nhận rằng, GCCN ở các đô thị sẽ là lực lượng quyết
định diện mạo của chính trị thế kỷ XXI.
Năm là, xu hướng “trung lưu hoá” gia tăng.
Về xu hướng “trung lưu hoá”, một số nghiên cứu hiện đại về công nhân ở các
nước phát triển cho biết hiện nay “trung lưu hóa” là hiện tượng khá phổ biến.
Theo Michel Zweig, ở Mỹ sự phân tầng diễn ra như sau: “giai cấp lao động”
chiếm 62%; các nhà doanh nghiệp hay “giai cấp tư bản” chỉ chiếm 2%. Nằm
giữa 2 giai cấp này là “tầng lớp trung lưu” (chiếm 36% lực lượng lao động
Mỹ).” “Tầng lớp trung lưu là các chuyên gia, chủ doanh nghiệp nhỏ và nhân
viên quản lý giám sát. Họ không chỉ là tầng lớp trung gian về phân phối thu
nhập, mà là những người sống ở giữa hai giai cấp ở hai cực trong xã hội tư bản.
Trải nghiệm của họ có một số khía cạnh giống với giai cấp lao động và một số
giống với doanh nhân.”
Thu nhập và mức sống ở “quãng giữa tư sản và công nhân” là đặc thù để nhận
biết nhóm xã hội trung lưu. “Đặc điểm của các thành viên thuộc tầng lớp trung
lưu là họ có một cơng việc ổn định, được trả lương.”, “Nhiều nghiên cứu xuyên
quốc gia đã chỉ ra rằng tầng lớp trung lưu có những giá trị chính trị khác so với
người nghèo: họ coi trọng dân chủ hơn, muốn tự do cá nhân nhiều hơn, bao
dung các lối sống khác hơn, v.v.”
Trong bối cảnh tồn cầu hóa chủ nghĩa tư bản đã có một số điều chỉnh nhất
định về phương thức quản lý, các biện pháp điều hòa mâu thuẫn xã hội. Điều

này đang tác động hai mặt vào giai cấp công nhân. Một bộ phận công nhân đã
tham gia vào sở hữu một lưọng tư liệu sản xuất của xã hội thơng qua chế độ cổ
phần hóa. Về mặt hình thức, họ khơng cịn là “vơ sản” nữa và có thể được “trung

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

lưu hóa” về mức sống, nhưng về thực chất, ở các nước tư bản, do không chiếm
được tỷ lệ sở hữu cao nên quá trình sản xuất và phân chia lợi nhuận vẫn bị phụ
thuộc vào những cổ đông lớn. Việc làm và lao động vẫn là nhân tố quyết định
mức thu nhập, đời sống của công nhân hiện đại. Quyền định đoạt quá trình sản
xuất, quyền quyết định cơ chế phân phối lợi nhuận vẫn thuộc về giai cấp tư sản.
1.3.

Một số biến đổi tiêu cực của giai cấp cơng nhân hiện nay

Sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trong nội bộ ngày càng sâu sắc,
ảnh hưởng đến sự thống nhất, đồn kết của giai cấp cơng nhân. Đoàn kết thống
nhất là một trong những đặc điểm chính trị cơ bản của giai cấp cơng nhân, giúp
cơng nhân tập hợp các tầng lớp giai cấp khác trong xã hội thực hiện sứ mệnh
lịch sử của mình. Tuy nhiên, hiện nay do sự biến đổi cơ cấu giai cấp cơng nhân
theo ngành nghề và theo trình độ đã làm phân hóa về thu nhập của giai cấp cơng
nhân. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, việc ứng
dụng khoa học vào sản xuất ngày càng được đẩy mạnh, dẫn đến sự phân tầng
giữa cơng nhân. Với xu hướng trí thức hóa cơng nhân do sự phát triển của khoa
học và cơng nghệ, thì sự phân tầng, phân hóa trong nội bộ giai cấp công nhân
nước ta sâu sắc hơn trong thời gian tới.
Lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị, lý tưởng cách mạng của một bộ phận

công nhân bị phai nhạt. Mặt trái của kinh tế thị trường, đã làm cho công nhân
có nhận thức khơng đồng đều về giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tổ
chức và kỷ luật lao động. Khơng ít cơng nhân cịn chưa nhận thức đầy đủ về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp mình. Ý chí phấn đấu, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tiên
phong gương mẫu của một bộ phận cơng nhân giảm sút. Một bộ phận cơng nhân
trẻ cịn bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội, sống buông thả, phai nhạt lý tưởng,
suy thoái về đạo đức, lối sống, xa rời bản chất tốt đẹp của giai cấp cơng nhân,
gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp và hình ảnh người cơng nhân Việt Nam trong
q trình hội nhập quốc tế. Bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào
Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội điều này ảnh
hưởng đến vai trị tiên phong của giai cấp cơng nhân nước ta.

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay gắn với cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0
2.1.

Giai cấp cơng nhân hiện nay có cịn đảm nhận sứ mệnh lịch sử hay
khơng?

Có ý kiến cho rằng, trong nền kinh tế tri thức và công nghiệp 4.0, sứ mệnh
lịch sử hiện nay khơng cịn thuộc về giai cấp cơng nhân mà là thuộc về một số
tầng lớp, giai cấp khác, thậm chí là thuộc về người máy... Tuy nhiên, nhờ lý luận
Mác, chúng ta thấy rõ, dù nền sản xuất hiện đại được tự động hóa, nhưng xét về
nội dung kinh tế thì giai cấp cơng nhân hiện đại vẫn là người sản xuất ra của cải
vật chất chủ yếu cho xã hội và là người phải được hưởng thụ xứng đáng các

thành quả phát triển.
Ở khía cạnh tư tưởng, chính trị thì chỉ có giai cấp cơng nhân mới tập hợp
được các giai tầng lao động khác do Đảng Cộng sản lãnh đạo để xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do dân, vì dân. Do địa vị chính trị, xã hội
của mình, chỉ có giai cấp cơng nhân mới giải quyết được các vấn đề chính trị xã hội trong quá trình xây dựng xã hội mới.
Về góc độ văn hóa – tư tưởng, chỉ có giai cấp công nhân mới là lực lượng xác
lập được các hệ giá trị mới như lao động, công bằng, dân chủ, bình đẳng, tự do...
để thay thế cho hệ giá trị tư sản cũ.
Do đó, học thuyết của Các Mác và chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò, sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay vẫn còn nguyên giá trị, ý nghĩa thời sự.
Thời kỳ công nghiệp 4.0: Sứ mệnh lịch sử vẫn thuộc về giai cấp công nhân hiện
đại.
2.2.

Thực hiện nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Với sự xuất hiện của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, giai cấp công
nhân – chủ thể và là sản phẩm xã hội của nền “đại công nghiệp”, đã trở thành
luận chứng thực tiễn cho phát hiện lý luận vĩ đại của C. Mác về “sứ mệnh lịch
sử toàn thế giới của giai cấp công nhân”. Và, cũng như vậy, Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư sẽ tiếp nối lơ-gíc đã từng được lịch sử minh chứng.

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân do C. Mác (1818 –
1883) phát hiện và luận chứng từ cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên, đến nay

đã trải qua ba lần tiến hóa. Những nội hàm cơ bản của lý luận này đã thể hiện và
tiếp tục được bổ sung từ thực tiễn các cuộc công nghiệp và cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Cách mạng công nghiệp 4.0, về đại thể, sẽ vẫn tiếp tục lơ-gíc của C.
Mác, tiếp nối nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại
hiện nay.
Cách mạng cơng nghiệp 4.0 có đặc điểm là “Tốc độ vận động ngày càng
nhanh chứ không đều đặn”, với quy mơ là “thúc đẩy những chuyển đổi mơ hình
chưa từng có trên các khía cạnh kinh tế, kinh doanh, xã hội và cá nhân”, có
những tác động “dẫn đến sự chuyển đổi của toàn bộ các hệ thống giữa các (và
trong mỗi) quốc gia, doanh nghiệp ngành công nghiệp và tồn xã hội”. Theo đó,
chúng ta có thể phân tích nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân từ lơgíc chung của các cuộc cách mạng cơng nghiệp đã diễn ra và từ những nhận
thức ban đầu về Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, cũng như những dự báo.
Thực hiện nội dung kinh tế - kỹ thuật của sứ mệnh lịch sử trong Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp sản xuất ra của cải vật chất cho xã
hội hiện đại bằng phương thức cơng nghiệp mang tính xã hội hóa cao. Xã hội
nào cũng tồn tại và phát triển thơng qua q trình sản xuất và tiêu thụ của cải vật
chất. Với tư cách là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp và tham gia quá
trình sản xuất, tái sản xuất của cải vật chất, giai cấp cơng nhân góp phần quyết
định sự tồn tại và phát triển xã hội. Thêm vào đó, tính chất xã hội hóa ngày càng
tăng của sản xuất cũng làm nảy sinh những nhân tố mang tính chất xã hội trong
q trình phát triển. Theo C. Mác, đây chính là yếu tố duy vật cho chủ nghĩa xã
hội hiện đại, cái tính chất mà trước cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ nhất
chưa xuất hiện trên thực tế. Công nghiệp càng phát triển thì tính chất xã hội hóa
này ngày càng cao. Nội dung kinh tế này là yếu tố sâu xa nhất khẳng định sự cần
thiết của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với quá trình phát triển của

Downloaded by tran quang ()



lOMoARcPSD|9242611

văn minh nhân loại. Thực hiện đầy đủ và thành công nội dung kinh tế này cũng
là điều kiện vật chất để bảo đảm thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, cũng từ q trình sản xuất cơng nghiệp này, những nhân tố vật chất
kỹ thuật cho sự hình thành một xã hội mới được tích lũy ngày một nhiều hơn.
Cũng vì vậy, C. Mác coi cách mạng cơng nghiệp cùng những yếu tố cấu thành
của nó, như máy móc, cách thức tổ chức quản lý sản xuất, trình độ cao của lao
động và hợp tác lao động công nghiệp… là “những nhà cách mạng” khiến xã hội
hiện tại khơng thể duy trì trạng thái cũ.
Hai lơ-gíc căn bản đó đang tiếp diễn với mức độ sâu sắc và rộng lớn hơn
trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Những nghiên cứu về cuộc cách mạng
này đang xác nhận điều đó. Về đại thể, như dự báo của Giáo sư K. Sô-áp:
“Những sáng tạo lớn về công nghệ sắp thổi bùng những thay đổi lớn lao trên
khắp thế giới – như một tất yếu khách quan”. Tốc độ của những sáng kiến lan
tỏa nhanh, năng suất lao động tăng mạnh. Chẳng hạn cách đây hơn 1 thập niên,
dự án đầu tiên về giải mã bộ gen người mất 13 năm để hồn thành với chi phí là
2,7 tỷ USD. Cịn hiện nay, một bộ gen người có thể được giải trình tự trong vài
giờ với chi phí vài nghìn USD. Các máy giải trình tự gen “để bàn” giá thành
tương đối thấp có thể được sử dụng trong chẩn đốn thường ngày, có khả năng
cải thiện đáng kể việc điều trị từ việc ứng dụng công nghệ ADN để đưa ra các
phương pháp điều trị phù hợp cho bệnh nhân. Tiếp theo là sinh học tổng hợp cho
khả năng tùy chỉnh chính xác các sinh vật bằng việc chỉnh sửa ADN được thiết
kế có chủ đích.
Nhìn chung, “sự hài hịa và tích hợp ngày càng tăng của nhiều ngành và nhiều
phát kiến khác nhau” vừa tạo ra những đột phá mới trong sản xuất và dịch vụ,
vừa tạo ra những cơ sở mới cho tăng năng suất lao động xã hội. Cần chú ý tới
những biểu hiện mới của tính chất xã hội hóa, bộc lộ từ cuộc Cách mạng công
nghiệp 3.0 và nay đang tiếp diễn.
Cơ hội học tập đang mở rộng hơn với mọi người. Hiện nay, người ta nói

nhiều đến vấn đề giảm dần nhu cầu về lao động giản đơn, tăng lao động trình độ
cao nhưng chưa chú ý đến khả năng tiếp cận giáo dục – dạy nghề cũng tăng lên

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

và dễ dàng hơn với đa số. Người lao động hiện đại dễ dàng hơn trong việc học
tập để nâng cao tay nghề và mở rộng khả năng chuyển đổi nghề nghiệp trước
những thách thức về việc làm do Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra
Kiến thức, kỹ năng lao động hiện đại đang có xu hướng xã hội hóa. Máy tính,
điện thoại thơng minh, các kho dữ liệu khổng lồ có thể dễ dàng tiếp cận với chi
phí thấp, các trường đại học, cao đẳng với nhiều chương trình đào tạo từ xa… là
những điều kiện thuận lợi để người lao động bình thường có thể học tập và tự
học để nâng cao trình độ chun mơn thơng qua cơ sở của truyền thơng số. “Dễ
tiếp cận, chi phí thấp, trung tính về địa lý của truyền thơng là những nhân tố cho
phép tương tác rộng rãi hơn, vượt qua các ranh giới xã hội, kinh tế, văn hóa,
chính trị, tôn giáo và ý thức hệ”
Nhu cầu của thị trường sức lao động hiện đại vừa đặt ra yêu cầu cao về chất
lượng của nguồn nhân lực, vừa nâng cao vị thế của người lao động. Khi đã có
một trình độ tương đương với nhu cầu của thị trường, vị thế của người công
nhân cũng khác trước khi thương lượng với người sử dụng lao động về giá cả
của hàng hóa sức lao động. Trong điều kiện mới, khả năng tự bảo vệ của người
lao động đã được tăng lên.
Sự biến đổi cấu tạo hữu cơ tư bản thay đổi cũng đang làm rõ xu thế xã hội
hóa lực lượng sản xuất. Tri thức khoa học và công nghệ có vai trị lớn trong sản
xuất đang tạo ra một thay đổi quan trọng: tư bản khả biến (v) tăng nhanh, tư bản
bất biến (c) giảm tương đối trong tỷ lệ cấu thành giá trị của hàng hóa. Vai trị to
lớn của tri thức, tay nghề, văn hóa, kinh nghiệm của người công nhân trong sản

xuất công nghiệp đang từng bước phá vỡ cơ chế chiếm hữu của giai cấp tư sản,
vốn bắt nguồn từ độc quyền sở hữu tư liệu sản xuất, độc quyền chiếm đoạt giá
trị thặng dư.
Máy móc, cơng nghệ sẽ vẫn tiếp tục đóng vai trị là “những nhà cách mạng”
thầm lặng. Chính xu hướng “tích hợp, hội tụ của thế giới vật chất, thế giới số và
con người” quy định và thúc đẩy xã hội phải phát triển khác đi. Nó buộc con
người trong quá trình sản xuất hiện đại khơng chỉ chú ý đến lợi nhuận, hiệu quả
kinh tế mà còn phải quan tâm đến nhiều khía cạnh khác của phát triển bền vững.

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

Xã hội hóa là xu thế khách quan đang được Cách mạng cơng nghiệp 4.0 thúc
đẩy khá mạnh mẽ. Nó thể hiện ở xu hướng tiếp hợp, liên ngành, liên kết chuỗi
trong sản xuất hiện đại. Xã hội hóa cịn thể hiện ở sự gắn kết các khâu sản xuất –
dịch vụ - tiêu dùng. Trước đây, trong Cách mạng cơng nghiệp 3.0 vốn đã có
bước tiến dài với lý thuyết ma-két-tinh, còn ngày nay đang tiếp diễn với việc kết
hợp đa chiều: kỹ thuật số, vật chất và sinh học trong sản xuất và dịch vụ.
Thực hiện nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử trong Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư
Theo quan niệm của C. Mác, sở dĩ giai cấp cơng nhân có sứ mệnh lịch sử là vì
họ là giai cấp đại diện cho xu thế xã hội hóa của lực lượng sản xuất hiện đại.
Trong sản xuất công nghiệp, họ vừa là “sản phẩm của nền đại công nghiệp”, vừa
là chủ thể của quá trình này. Do gắn liền với phương thức lao động này, giai cấp
cơng nhân có được những phẩm chất, như tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh
thần hợp tác, tâm lý lao động cơng nghiệp… Đó là những phẩm chất cần thiết
cho một giai cấp cách mạng và có năng lực lãnh đạo cách mạng xã hội chủ
nghĩa.

C. Mác là người đầu tiên chỉ ra quan hệ lợi ích phức tạp giữa cơng nhân và tư
bản. Hai bên vừa đối lập nhau về lợi ích cơ bản, vừa phụ thuộc nhau về lợi ích
hằng ngày trong thị trường sức lao động. Lao động sống của công nhân là nguồn
gốc cơ bản của giá trị thặng dư và sự giàu có của giai cấp tư sản cũng chủ yếu
nhờ vào việc bóc lột được ngày càng nhiều giá trị thặng dư. “Trong xã hội ấy,
những người lao động thì khơng được hưởng, mà những kẻ được hưởng lại
khơng lao động”. Đây là mâu thuẫn cơ bản về lợi ích giữa giai cấp công nhân và
giai cấp tư sản và là cốt lõi của bất công và đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện
đại. Mâu thuẫn ấy không thể điều hịa và chỉ có thể được giải quyết bằng việc
xóa bỏ chế độ bóc lột giá trị thặng dư trên cơ sở xác lập một quan hệ sản xuất
mang tính chất cơng hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu. Chính lực lượng sản
xuất mang tính chất xã hội hóa đã chỉ ra biện pháp giải quyết ấy.
Theo đó, nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân được xác định là cuộc đấu tranh vì các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, như

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

cơng bằng, bình đẳng, dân chủ… và tập trung nhất là việc xác lập chế độ chính
trị - xã hội mới do giai cấp công nhân lãnh đạo – chế độ xã hội chủ nghĩa để tạo
ra tiền đề chính trị cho xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo cơ hội và làm nổi bật các nội
dung sau: Dân chủ hóa – cơng nghệ số góp phần mở rộng truyền thơng, tạo điều
kiện để thông tin đến với mọi người, qua đó phát triển dân chủ. Với những nước
phát triển, thơng qua thành tựu khoa học – công nghệ, người dân có điều kiện tốt
hơn để giám sát và chia sẻ quyền lực với nhà nước đương trị. Công nghệ và thiết
bị ngày càng cho phép người dân tiếp cận gần hơn với chính phủ để nêu ý kiến,
để cùng phối hợp hoạt động. Đồng thời, các chính phủ cũng sở hữu sức mạnh về

công nghệ để tăng cường sự quản trị của mình đối với người dân dựa trên những
hệ thống giám sát rộng rãi và khả năng điều khiển kết cấu hạ tầng số. “Tuy
nhiên, xét về tổng thể, các chính phủ sẽ ngày càng phải đối mặt với áp lực phải
thay đổi cách thức tiếp cận hiện nay của họ đối với sự tham gia của công chúng
và quy trình đưa ra quyết định khi vai trị trung tâm của họ trong việc thực thi
chính sách bị suy giảm trước sự xuất hiện của các nguồn cạnh tranh mới, sự
phân phối lại và phân bổ quyền lực dưới sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ”
Cùng với những cơ hội để phát triển dân chủ, cơng bằng, bình đẳng, cuộc
cạnh tranh – đấu tranh giữa “hai con đường”, giữa chế độ xã hội chủ nghĩa và
chế độ tư bản chủ nghĩa dường như cũng sắp bước vào một bước ngoặt lịch sử
mới. Hãy thử sắp xếp các dữ kiện chính trị, xã hội lớn gắn với các chu kỳ cách
mạng công nghiệp: Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và Công xã Pa-ri – năm
1871; Cách mạng công nghiệp lần thứ hai với Cách mạng Tháng Mười Nga nă–
1917; Cách mạng công nghiệp lần thứ ba với sự kiện Đông Âu – Liên xô và cải
cách, đổi mới… Lơ-gíc đó cho phép chúng ta dự báo và kỳ vọng vào những thay
đổi của đời sống chính trị, xã hội theo hướng tích cực. Khơng ai khác, chính giai
cấp cơng nhân với trình độ được tri thức hóa, với tổ chức khoa học và tinh thần
cách mạng sẽ vẫn là chủ thể hàng đầu của những cuộc cách mạng trong tương
lai.

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

Cách mạng công nghiệp 4.0 với những tiền đề mà nó tạo ra sẽ cho thấy những
bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Hiện nay, hầu hết các quốc gia
đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đều rất quan tâm và quyết tâm
mạnh mẽ hướng tới Cách mạng công nghiệp 4.0. Đây cũng là một con đường để
phát triển rút ngắn, để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.

Thực hiện nội dung văn hóa – xã hội của sứ mệnh lịch sử trong Cách mạng
cơng nghiệp lần thứ tư
Trên bình diện thế giới hiện nay, hịa bình, hợp tác cùng phát triển trong mơi
trường dân chủ, cơng bằng, bình đẳng đang là xu thế lớn. Xu thế ấy tạo điều
kiện thuận lợi cho Cách mạng công nghiệp 4.0 và cả sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân.
Xét cho cùng, mọi tiến bộ xã hội trong lịch sử và gần gũi hơn là những thành
quả nhiều mặt của các cuộc cách mạng công nghiệp gần đây cũng chỉ xoay
quanh một vấn đề lớn của nhân loại, đó là làm thế nào để kết hợp hài hòa giữa
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội. Hệ giá trị của giai cấp công
nhân với những giá trị cơ bản phù hợp với những tiêu chí cơ bản xã hội hiện đại,
như lao động, cơng bằng, bình đẳng, dân chủ và sự phát triển tự do toàn diện
cho mỗi người… đang được Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo điều kiện và cổ vũ
hiện thực hóa.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác và những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội
thời kỳ cải cách, đổi mới đã đưa ra một tiếp cận văn hóa và nhìn nhận rằng:
“Chủ nghĩa xã hội là văn minh hóa văn hóa, chứ khơng chỉ giản đơn là sự vận
động của vật chất và phúc lợi vật chất của mọi người… Chủ nghĩa xã hội là chủ
nghĩa nhân văn, không chỉ trên nguyên tắc loại trừ mọi hình thức bóc lột, áp
bức, bần cùng hóa, bạo lực, mà căn bản là các quan hệ xã hội tồn diện và lối
sống hàng ngày xứng đáng với tính người… Chủ nghĩa xã hội là sự bảo đảm
tính phụ thuộc biện chứng và sâu sắc của sự phát triển tự do từng cá nhân với sự
phát triển tự do của mọi người trong xã hội”. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội đầy
tính nhân văn ấy sẽ làm mới, cập nhật và có điều kiện rộng rãi hơn trong q
trình hiện thực hóa.

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611


Cách mạng công nghiệp 4.0 là một thành tựu của văn minh, có những đóng
góp, bổ sung vào nhận thức duy vật lịch sử về các vấn đề trong phát triển. Ở
phương diện xã hội, sát cánh cùng giai cấp sản xuất ra của cải vật chất – giai cấp
công nhân, “đang xuất hiện ngày càng đông đảo tầng lớp giai cấp sáng tạo trong
lĩnh vực khoa học, công nghệ, thiết kế, nghệ thuật, văn hóa, giải trí, truyền
thơng, giáo dục – đào tạo, y tế, pháp luật. Cùng với sự phát triển của Cách mạng
công nghiệp 4.0 và kinh tế sáng tạo, lao động sáng tạo ngày càng chiếm vị trí
chủ đạo trong lực lượng lao động xã hội, đặt ra vấn đề nhìn nhận lại vai trị của
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội hiện đại…”. Hệ giá trị của giai cấp cơng nhân
theo đó có thể được bổ sung những giá trị tuy khá đặc thù nhưng gần gũi của các
tầng lớp khác như trí thức – nhóm xã hội coi sáng tạo, dân chủ như điều kiện
môi trường để lao động và phát triển.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra nhiều vấn đề mới, từ quá trình
vận động tự thân và việc bị các thế lực lợi dụng vào những mưu đồ phản tiến bộ,
phản văn hóa. Tuy nhiên, tiến bộ xã hội có đủ sức mạnh để lựa chọn biện pháp
tối ưu để giải quyết. Như GS. K. Sô-áp khẳng định: “Tôi vững tin rằng kỷ
nguyên công nghệ mới, nếu được định hình một cách tích cực và có trách nhiệm,
sẽ có thể là một chất xúc tác cho một cuộc phục hưng văn hóa mới”. Cũng có
thể nói như vậy với sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân và chủ
nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI.
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật.
2. PGS, TS. Nguyễn An Ninh. (2020). Những nhận thức mới về giai cấp cơng
nhân hiện nay. Tạp chí Cộng sản.
3. PGS.TS. Phạm Văn Nhuận (2013). Có đúng là giai cấp cơng nhân hiện nay
khơng cịn sứ mệnh lịch sử?. Tạp chí Cộng sản.
4. PGS,TS. Nguyễn An Ninh (2019). Thực hiện nội dung sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.


Downloaded by tran quang ()


×