Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Đề tài dân vận hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.64 KB, 87 trang )

Đề tài:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC DÂN VẬN GIÁ TRỊ VÀ VẬN DỤNG TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1.

3
NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG

HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC DÂN VẬN
1.1. Những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công

11

tác dân vận
1.2. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng

11

tác dân vận
Chương 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC

35

DÂN VẬN TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
2.1. Quan niệm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận
trong Quân đội.


2.2. Phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân
vận trong Qn đội hiện nay.
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH ĐƯỢC CƠNG BỐ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

48
63
89
95
91


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm tồn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó tư tưởng về CTDV là một bộ phận quan
trọng trong tồn bộ di sản vơ giá mà Người để lại cho Đảng và nhân dân ta; tư tưởng Hồ
Chí Minh về CTDV khơng những chứa đựng tinh thần trọng dân, thương dân, chăm lo đến
lợi ích của dân, mà còn chỉ ra nội dung và phương thức vận động, tập hợp nhân dân; tiến
hành các nhiệm vụ cách mạng trong đấu tranh giành và giữ vững nền độc lập dân tộc, trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về CTDV, Đảng ta ln xác định rõ vị trí, vai
trị của CTDV đối với sự nghiệp cách mạng, coi CTDV là một nội dung quan trọng trong
mọi hoạt động của Đảng; từ đó, đạt được những thành quả trong thực tiễn cách mạng Việt
Nam; đã tập hợp, phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, đánh bại thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, giành lại độc lập dân tộc, xây dựng CNXH, xây dựng cuộc sống ấm
no, hạnh phúc cho nhân dân. Hiện nay, do làm tốt CTDV, Đảng ta đã bước đầu thực hiện
thành công đường lối đổi mới, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ.

Hiện nay, tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường,
các thế lực thù địch ln tìm cách chống phá cách mạng nước ta, chúng thực hiện âm mưu
“diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ; với những biểu hiện như: Kích động quần chúng,
chia rẽ giữa các dân tộc, tơn giáo..., nhằm phá vỡ khối đại đồn kết dân tộc. Trong khi đó
một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống; tình
trạng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, sách nhiễu, đã làm giảm lòng tin của nhân dân,
chia rẽ Đảng với dân, cán bộ với quần chúng. Tất cả những thách thức ấy đang đặt ra cho
CTDV những đòi hỏi mới, khó khăn mới, thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Gắn bó máu thịt với nhân dân trở thành truyền thống quý báu của Quân đội, là điều
kiện khách quan để Quân đội trưởng thành, phát triển qua từng giai đoạn cách mạng. Được
nhân dân đùm bọc, chở che, Quân đội không ngừng lớn mạnh, giành được nhiều thắng lợi to
lớn; CTDV không chỉ là chức năng mà còn là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của Quân đội.
Thời gian qua, cùng với nhiệm vụ chiến đấu và lao động sản xuất, Quân đội còn
thực hiện tốt CTDV trên các địa bàn đóng quân. Tuy nhiên, trên nhiều địa bàn đóng quân
của các đơn vị Quân đội và tiến hành CTDV có những diễn biến phức tạp, nhiều thuận lợi

3


nhưng cũng khơng ít những khó khăn; các thế lực thù địch đặc biệt lợi dụng vấn đề tôn
giáo, dân chủ, nhân quyền hoặc sự thiếu hiểu biết của một bộ phận nhân dân để kích động
biểu tình, gây mất an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội. Vì vậy, CTDV càng có một ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng mối
quan hệ giữa Đảng với dân và mối quan hệ đồn kết qn dân; góp phần giữ vững ổn định
chính trị, trật tự an tồn xã hội, xây dựng nền QPTD và thế trận an ninh nhân dân vững
mạnh. Để thực hiện tốt CTDV của Quân đội trong tình hình mới, một trong những yêu cầu
đặt ra là phải nắm vững và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về CTDV. Với ý
nghĩa đó, ban đề tài lựa chọn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận – Giá trị và vận
dụng trong Quân đội hiện nay” làm đề tài nghiên cứu khoa học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về CTDV và sự vận dụng tư tưởng của Người
vào thực tiễn sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, có nhiều cơng trình, đề
tài, hội thảo khoa học; nhiều bài nói, bài viết của các nhà khoa học đề cập, tiêu biểu như:
* Nhóm cơng trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
cơng tác dân vận
Tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh của Ban Dân vận Trung ương [6]. Cuốn sách
gồm 34 báo cáo tham luận của các nhà khoa học nhân dịp kỷ niệm 45 năm bài báo
“Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các tham luận đã làm sáng tỏ vai trò và sự tác
động của bài báo “dân vận” đến toàn xã hội, phương thức tiến hành CTDV. Đồng
thời, nhấn mạnh giá trị lý luận và thực tiễn của bài báo “ dân vận” đối với cách mạng
Việt Nam, chỉ ra sự cần thiết phải vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
CTDV trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Củng cố niềm tin xây dựng mối quan hệ
máu thịt giữa Đảng với nhân dân, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước.
Một số bài học kinh nghiệm trong công tác dân vận của Đảng sau gần 25 năm đổi
mới của Hà Thị Khiết [39]. Tác giả khẳng định lời dạy của Hồ Chí Minh, “Dân vận khéo, thì
việc gì cũng thành cơng” và đây là kim chỉ nam cho CTDV của Đảng đạt được những thành
tựu phục vụ sự nghiệp cách mạng, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời tác giả
cũng khái quát một số kết quả đã đạt được và những thuận lợi, khó khăn, đề ra một số bài
học kinh nghiệm CTDV trong gần 25 năm đổi mới và khẳng định cần được tiếp tục vận
dụng sáng tạo, hiệu quả những bài học kinh nghiệm để CTDV của Đảng ngày càng có thêm

4


nhiều kết quả và thành tích mới, góp phần củng cố vững chắc mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng với nhân dân, tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo tiến hành công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí
Minh của Dương Xuân Ngọc [62]. Tác giả khẳng định: CTDV là nhiệm vụ có ý nghĩa
chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nước ta, điều kiện quan trọng bảo

đảm cho quá trình lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội, thắt chặt mối quan hệ máu
thịt giữa Đảng với nhân dân. Trên cơ sở đó, cần quán triệt sâu sắc quan điểm, nguyên
tắc chỉ đạo tiến hành CTDV theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả cũng đã nêu ra những
nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu về CTDV trong thời kỳ mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Dân, dân chủ, dân vận trong tư tưởng Hồ Chí Minh của Bùi Đình Phong [66]. Tác
giả đã khẳng định các phạm trù Dân, DC và DV là 3 nội dung quan trọng xuyên suốt tư
tưởng Hồ Chí Minh; lần lượt làm rõ từng phạm trù, quan niệm của Hồ Chí Minh về dân;
việc thực hành DC và phát huy quyền làm chủ theo quan niệm Hồ Chí Minh; đề cập đến
DV, bài viết phân tích ba phương diện những vấn đề lý luận về CTDV; quy luật của
CTDV và thực hành CTDV phải đi vào thực tiễn, phải nêu gương.
Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh của Đàm Văn
Thọ và Vũ Hùng [78]. Cuốn sách đã luận giải những vấn đề về lý luận và thực tiễn
mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong từng giai đoạn lịch sử. Tác giả cũng
khẳng định sự cần thiết phải củng cố tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân
trong tình hình hiện nay.
* Những cơng trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu giá trị và vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào cơng tác dân vận trong tình hình mới của Ban
Dân vận Trung ương [10]. Cuốn sách đã làm rõ quan điểm “Dân vận khéo” trong tư
tưởng Dân vận của Hồ Chí Minh, luận giải làm rõ sự vận dụng của Đảng trong tiến
hành CTDV trong tình hình mới, đồng thời chỉ rõ cần phải phát huy vai trò sức mạnh
của khối đại đồn kết tồn dân tộc trong cơng cuộc đổi mới thực hiện cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Cẩm nang cơng tác dân vận của Nguyễn Văn Hùng, Hồng Tiến Cát, Bùi Văn
Thu [34]. Cuốn sách trình bày một số vấn đề về: cơng tác dân vận, mặt trận, đồn thể;
công tác dân tộc và công tác tôn giáo. Giới thiệu về quy chế dân chủ cơ sở và một số
nghiệp vụ công tác dân vận cùng địa chỉ hệ thống dân vận toàn quốc.

5



Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới của
Hà Thị Khiết, Nguyễn Duy Việt, Nguyễn Văn Hùng [40]. Nội dung cuốn sách trình bày
về cơ sở lý luận, thực tiễn về dân vận, về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận
của Đảng trong thời kỳ mới và trong những năm thực hiện đường lối đổi mới. Đồng thời
đưa ra những quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới. Cuốn sách trên đây là tiền đề, cơ sở để tác giả
luận văn có thể tìm hiểu đường lối, chủ trương của Đảng về công tác dân vận qua các giai
đoạn lịch sử.
Lý luận và thực tiễn kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân
vận của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia [63]. Cuốn sách nhấn mạnh đến lý luận và thực
tiễn kinh nghiệm công tác dân vận của Đảng ta. Trong đó khẳng định, để Đảng thực hiện
tốt cơng tác vận động quần chúng nhân dân thì mọi cán bộ, đảng viên thấm nhuần tư
tưởng Hồ Chí Minh: Tất cả vì dân, tất cả do dân, có dân là có tất cả, khơng có gì cao cả
hơn là phục vụ dân. Đồng thời khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về CTDV ln có giá
trị và ý nghĩa to lớn soi đường cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi.
Thực hiện công tác dân vận ở tỉnh Trà Vinh hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh của
Nguyễn Minh Vũ [65]. Luận văn làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về dân và CTDV. Đồng
thời, luận giải những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về CTDV, đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả CTDV ở tỉnh Trà Vinh hiện nay.
Lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 - 2010) của Hồng
Văn Tuệ, Hồng Thị Kim Thanh, Nguyễn Chí Thảo [73]. Cuốn sách nêu vai trị của cơng
tác dân vận trong các thời kỳ: Đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), kháng chiến chống Mỹ cứu nước (19541975), xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975-1986), tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện và
bước đầu đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước (1986-2010).
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận trong xử lý điểm nóng chính
trị-xã hội hiện nay của Trần Thị Thúy [79]. Tác giả nhấn mạnh, vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về cơng tác dân vận trong xử lý điểm nóng chính trị - xã hội có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn sâu sắc, góp phần quan trọng trong việc phịng ngừa và ngăn chặn khơng để
điểm nóng phát sinh; xử lý khi điểm nóng xảy ra; khắc phục hậu quả sau khi điểm nóng

đã được dập tắt và ổn định tình hình để điểm nóng khơng tái diễn.

6


* Những cơng trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về cơng tác dân vận trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Công tác dân vận trên địa bàn tỉnh Lai Châu dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
của Nguyễn Chí Cường [12]. Luận văn làm rõ cơ sở hình thành, quá trình phát triển và
nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về CTDV. Đồng thời, xác định quan điểm cơ
bản, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả CTDV trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
Công tác dân vận của các đơn vị Quân đội ở vùng đồng bào theo đạo trên địa bàn
miền Đông Nam Bộ giai đoạn hiện nay của Đồng Ngọc Châu [13]. Luận án làm rõ những vấn
đề lý luận và thực tiễn, vị trí vai trò của CTDV, thực trạng tiến hành CTDV của các đơn vị
quân đội ở vùng theo đạo trên địa bàn miền Đơng Nam Bộ; phân tích ngun nhân, rút ra kinh
nghiệm khi tiến hành CTDV ở vùng đồng bào theo đạo; xác định những giải pháp cơ bản tiến
hành CTDV của các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn miền Đông Nam Bộ hiện nay.
Bồi dưỡng năng lực công tác dân vận cho học viên đào tạo cơ bản ở Trường Sĩ
quan Lục quân 2 hiện nay của Lê Hải Châu [14]. Tác giả làm rõ những vấn đề lý luận,
thực tiễn về bồi dưỡng năng lực CTDV cho học viên đào tạo cơ bản, thực trạng năng
lực tiến hành CTDV, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp để bồi dưỡng năng lực
tiến hành CTDV của học viên đào tạo cơ bản.
Quân đội nâng cao hiệu quả thực hiện công tác dân vận của Ngơ Thanh Hải, [31]. Tác
giả khẳng định vai trị của Quân đội và những kết quả đạt được trong tiến hành CTDV của các
đơn vị Quân đội; qua đó, làm ngời sáng thêm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân,
củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội. Bên cạnh đó, tác giả
cũng chỉ ra những hạn chế trong tiến hành CTDV của các đơn vị Quân đội và những đặc điểm
tiến hành CTDV hiện nay như, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn
giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”, những sơ hở, thiếu sót của ta để xuyên tạc, chống phá Đảng,
Nhà nước, Quân đội, chia rẽ khối đại đồn kết tồn dân tộc, tình đoàn kết quân - dân, thúc đẩy

“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Qn đội. Đồng thời, tác giả đề xuất một
số nhiệm vụ, giải pháp để nâng cao chất lượng hiệu quả CTDV trong Quân đội hiện nay.
Đổi mới công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Vũ Đình Tấn [70]. Luận án làm rõ vị trí, vai trị tầm
quan trọng của CTDV theo tư tưởng Hồ Chí Minh; Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn đòi
hỏi phải đổi mới CTDV và đề xuất một số giải pháp đổi mới CTDV của QĐND Việt
Nam trong giai đoạn mới.

7


Công tác dân vận của cơ quan quân sự cấp huyện ở tỉnh Đồng Nai hiện nay của
Nguyễn Văn Tuyên [74]. Tác giả luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn, đánh giá
đúng thực trạng CTDV, rút ra một số kinh nghiệm tiến hành CTDV của cơ quan quân
sự cấp huyện ở tỉnh Đồng Nai, xác định yêu cầu, đề xuất những giải pháp cơ bản tăng
cường CTDV của cơ quan quân sự cấp huyện ở tỉnh Đồng Nai hiện nay.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu của các tập thể, cá nhân nêu trên đã góp
phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, đi sâu làm rõ một số nội dung cụ thể tư tưởng Hồ
Chí Minh về CTDV. Một số đề tài, bài nói, bài viết đi sâu khai thác sự vận dụng tư tưởng
của Người về CTDV ở các địa phương, nhất là việc tiến hành CTDV của Quân đội trên
địa bàn đóng quân. Tuy nhiên, chưa một cơng trình, đề tài nào nghiên cứu một cách đầy
đủ, hệ thống, sâu sắc Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận – Giá trị và vận dụng
trong Quân đội hiện nay. Vì vậy, đề tài mà nhóm tác giả lựa chọn khơng trùng lặp với các
cơng trình, bài nói, bài viết đã cơng bố. Các cơng trình nêu trên là nguồn tư liệu phong
phú để ban đề tài tham khảo, phục vụ cho quá trình thực hiện đề tài.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về CTDV và giá trị, vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về CTDV của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu

Làm rõ nội dung và giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về CTDV.
Làm rõ quan niệm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về CTDV.
Đề xuất phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minhvề CTDV trong Quân đội
hiện nay
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về CTDV - giá trị và vận dụng CTDV trong
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng quan điểm, chủ trương vận dụng công tác dân vận ở
của Quân đội trong những năm gần đây; đề xuất nội dung và một số phương hướng cơ
bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác dân vận của Quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh

8


đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng Quân đội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài sử dụng phương
pháp lôgic, phương pháp lịch sử và sự kết hợp của hai phương pháp đó là chủ yếu; đồng
thời, kết hợp sử dụng các phương pháp khác như: thống kê, phân tích, tổng hợp, so
sánh, phương pháp chuyên gia...
6. Cái mới của đề tài
Xác định rõ các quan điểm cơ bản và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng
tác dân vận đối với thực tiễn cách mạng Việt Nam cả trong lịch sử và hiện tại.
Đề tài hệ thống hóa các quan niệm có liên quan, trên cơ sở đó làm rõ quan niệm
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận trong Quân đội.
Chỉ ra các phương hướng cơ bản vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân
vận trong Quân đội ta hiện nay.

7. Giá trị và hướng sử dụng kết quả nghiên cứu của đề tài
* Giá trị của đề tài
Đề tài góp phần làm phong phú thêm kết quả nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
nói chung và gia tăng tri thức tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận.
Cung cấp cơ sở lý luận cho quá trình nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân
vận của Đảng, Nhà nước và Qn đội ta trong tình hình mới.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy ở các
Học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội.
Quá trình thực hiện sẽ nâng cao năng lực điều hành, tổ chức hoạt động nhóm của chủ
nhiệm đề tài và năng lực nghiên cứu của các thành viên trong Ban đề tài.
* Hướng sử dụng kết quả nghiên cứu của đề tài
Đề tài có thể dùng cho cấp ủy các cấp trong Quân đội xác lập các chủ trương, biện
pháp lãnh đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác dân vận trong tình hình mới và làm tài
liệu tham khảo trong giảng dạy, nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh.
8. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục các cơng trình được
cơng bố có liên quan, danh mục tài liệu tham khảo.

9


Chương 1
NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CƠNG TÁC DÂN VẬN

1.1. Những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
cơng tác dân vận
1.1.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trị của cơng tác dân vận
Cơng tác dân vận góp phần quyết định việc thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước

Muốn hồn thành nhiệm vụ, muốn biến đường lối chủ trương của Đảng thành phong
trào quần chúng, thành sức mạnh cách mạng thì Đảng phải có đường lối đúng đắn; cán bộ
đảng viên phải thường xuyên liên lạc mật thiết với dân chúng, xa rời dân chúng là cô độc,
thất bại. Cán bộ đảng viên cịn phải học hỏi dân, nếu khơng học hỏi dân thì khơng lãnh
đạo được họ, mà muốn hiểu biết, học hỏi dân thì địi hỏi phải chân thành và quyết tâm.
Trong quá trình hoạt động, các tổ chức đảng từ Trung ương đến chi bộ phải lấy
việc vận động và chăm lo lợi ích của nhân dân làm một nội dung chủ yếu trong hoạt động
của mình. Mọi cán bộ, đảng viên phải làm CTDV, tuyên truyền chủ trương, đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và vận động nhân dân thực hiện theo chức
trách của mình nhằm thắt chặt mối quan hệ với nhân dân; tránh hiện tượng không muốn
làm hoặc không biết làm CTDV. Thực tiễn các cuộc cách mạng đã chứng minh ai nắm
được nhân dân người đó sẽ chiến thắng. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Khi nhân dân giúp đỡ ta
nhiều thì thành cơng nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành cơng ít, giúp đỡ ta hồn tồn thì thắng
lợi hồn tồn” [51, tr.270].
Sức mạnh của cá nhân và hệ thống chính trị chỉ có thể có được từ sự ủng hộ của
nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng vậy, muốn có sức mạnh thật sự thì phải thu
phục, tập hợp được lực lượng to lớn của các tầng lớp nhân dân, phải được sự tín nhiệm
của cả dân tộc. Do đó, Đảng phải làm tốt CTDV, vừa bảo vệ lợi ích của giai cấp công
nhân vừa đảm bảo nhiệm vụ chính trị của Đảng. Là nhà cách mạng chuyên nghiệp, khi
nói về nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo, Hồ Chí Minh
cho rằng đó là cơng lao chung của tồn thể đồng bào ta trong cả nước chứ không phải
công lao của bất kỳ cá nhân nào, Đảng chỉ làm nhiệm vụ tuyên truyền, vận động, tổ chức
và phát huy lực lượng cách mạng vơ tận của nhân dân. Điều đó đã minh chứng hết sức rõ
ràng khả năng quy tụ, tập hợp, đoàn kết lực lượng của Hồ Chí Minh.

10


Để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước thì
cán bộ, đảng viên phải làm tốt CTDV. Nghĩa là, phải sâu sát quần chúng, nắm được tình

hình, nhu cầu, nguyện vọng, điều kiện, khả năng của dân chúng. Từ đó, Đảng có cơ sở để
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách cho đúng. Những đường lối, chính sách đó
cũng xuất phát từ mục đích phục vụ lợi ích cho nhân dân vì Đảng khơng có mục đích tự
thân. Và mục tiêu lý tưởng của Đảng là phụng sự những lợi ích của giai cấp, của dân
tộc.Vì: “Ngồi lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp, của dân tộc, Đảng ta khơng có lợi ích
nào khác” [56, tr.334].
Thực hiện CTDV là điều kiện để Đảng động viên, tập hợp mọi tầng lớp trong nhân
dân thực hiện thành cơng đường lối của mình; đồng thời, thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với nhân dân. Thực tiễn đã chứng minh, thực hiện tốt CTDV sẽ mang đến lực lượng to
lớn trong Đảng và sự đồn kết, nhất trí giữa Đảng với quần chúng nhân dân, tạo nên sức
mạnh to lớn khơng gì phá vỡ nổi. Chính vì vậy, Đảng cần thường xun vận động nhân dân
tham gia xây dựng Đảng. Sự tham gia của quần chúng, nhân dân để Đảng có thêm sức mạnh
về vật chất, tinh thần và trí tuệ, có dân là có tất cả, mất dân là mất tất cả.
Cơng tác dân vận góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà
nước với Nhân dân
Công tác dân vận trước hết là trách nhiệm, là nghĩa vụ chiến lược quan trọng của
Đảng. Bởi vì, tồn bộ sức mạnh của Đảng không chỉ xuất phát từ bản thân Đảng mà nó cịn
bắt nguồn từ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân. Đảng vừa lãnh đạo cả hệ thống
chính trị, tồn xã hội tiến hành CTDV, vừa là lực lượng trực tiếp vận động, lôi cuốn, tổ chức,
nhân dân. Các tổ chức đảng từ Trung ương đến chi bộ phải lấy việc vận động và chăm lo lợi
ích của nhân dân làm một nội dung chủ yếu trong hoạt động của mình.
Hơn nữa, Đảng từ nhân dân mà ra. Nhân dân chính là cội nguồn sức mạnh của
Đảng - nguồn gốc sáng tạo nên thắng lợi của cách mạng. Do vậy, Đảng “phải dựa vào
dân, không được xa rời dân. Nếu khơng thế thì sẽ thất bại. Khi nhân dân giúp đỡ … thì
thắng lợi hồn tồn” [51, tr.270]. Đảng có gắn với nhân dân thì Đảng mới có sức mạnh,
mới tạo nên kỳ tích trong cách mạng. Cịn nhân dân có gắn với Đảng thì mới nhân lên
sức mạnh của mình. Một trong những giải pháp hiệu quả để tạo nên khối đoàn kết vững
chắc giữa Đảng và dân là Đảng phải tăng cường CTDV. Hồ Chí Minh khẳng định làm
việc gì cũng phải có quần chúng nếu khơng có quần chúng thì khơng thể thành cơng.
Chính vì vậy, sau cách mạng Tháng Tám (1945), khi Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành


11


Đảng cầm quyền, CTDV được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm, coi đây là nhiệm vụ cấp
bách. Người viết hàng loạt tác phẩm có giá trị, ý nghĩa về công tác vận động đồng bào,
như: “Đời sống mới”,“Sửa đổi lối làm việc”, đặc biệt tác phẩm “Dân vận” ngày
15/10/1949, hàm chứa nhiều ý nghĩa, nhiều nội dung sâu sắc tư tưởng và triết lý về DV.
Đảng ra đời với ý nghĩa lớn lao là lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, đem lại
ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Chính vì vậy, Đảng cần phải duy trì thường xuyên
mối quan hệ máu thịt với dân - nguồn gốc tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng. Khơng
phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh chỉ ra mối quan hệ giữa CTDV với lực lượng to lớn,
mạnh mẽ của nhân dân và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Người đã đúc kết kinh
nghiệm CTDV: Lực lượng của dân chúng rất to và việc DV rất quan trọng, cho nên: “Dân
vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng” [50, tr.234].
Thực tế đã chứng minh, trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã
dành nhiều cơng sức, trí tuệ cho việc làm có ý nghĩa lớn lao, hệ trọng là vận động, tổ
chức, đoàn kết lực lượng và lãnh đạo quần chúng đấu tranh cho độc lập, tự do của dân
tộc. Chính vì vậy, cách mạng trước hết cần có Đảng. Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi
của cách mạng, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là vận động và tổ chức
dân chúng và đoàn kết với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, do đó liên hệ chặt chẽ với dân
thuộc về bản chất của Nhà nước. Vì vậy, Nhà nước phải làm CTDV. Để nhà nước thực sự
là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Chính
phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp phải thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng
thành chính sách, pháp luật; tạo môi trường thuận lợi cho nhân dân làm ăn. Bộ máy nhà
nước từ cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp đều phải nêu cao tinh thần phục vụ và ý
thức trách nhiệm trước nhân dân, gắn bó với nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân; đẩy mạnh việc cải cách hành chính, khắc phục tệ quan liêu, cửa quyền, hách dịch...
trong cán bộ, công chức khi thực thi nhiệm vụ. Đề cập đến mối quan hệ giữa Nhà nước

với nhân dân, trong thư “Gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng” đề ngày 1710-1945, Hồ Chí Minh viết: “Nếu khơng có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực lượng.
Nếu khơng có Chính phủ, thì nhân dân khơng ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân
dân phải đồn kết thành một khối” [48, tr.64].
Xây dựng được mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân đã khó, tăng cường, giữ
vững mối quan hệ đó càng khó hơn. Bởi, có những lúc lịng tin của nhân dân đối với

12


Đảng, Nhà nước ít nhiều có giảm sút do một số cán bộ đảng viên hư hỏng, thối hóa, biến
chất, khơng cịn giữ vững đạo đức cách mạng; khơng thực hiện đúng chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước làm cho đời sống của nhân dân gặp nhiều khó
khăn. Đó là nguyên nhân trực tiếp cản trở mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hơm qua là
vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người
yêu mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”
[59, tr.672].
Để mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân ln chặt chẽ thì trước hết mỗi
cán bộ, đảng viên phải trau dồi đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; thường
xuyên gắn bó mật thiết với quần chúng, nắm bắt dân tâm, dân tình, dân ý; xây dựng kế
hoạch thật tốt để nhân dân tham gia xây dựng đảng, chính quyền góp phần loại bỏ những
phần tử thối hóa, biến chất.
Cơng tác dân vận góp phần củng cố, tăng cường khối đại đồn kết dân tộc
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin nhân dân là người làm nên lịch sử, sự
nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân dân - lực lượng sáng tạo ra mọi của cải vật
chất cũng như những giá trị tinh thần của xã hội. Mục tiêu của cách mạng vơ sản là giải
phóng con người, giai cấp và xã hội. Lực lượng để tiến hành cách mạng vô sản bao gồm
đông đảo quần chúng, những người bị áp bức nặng nề nhất. Sức mạnh của họ sẽ được
tăng lên gấp nhiều lần mà không kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi mỗi khi họ được giác
ngộ, tổ chức, đoàn kết lại thành đội quân cách mạng thật sự. Đó là nhiệm vụ của Đảng

Cộng sản phải đảm nhận.
Hồ Chí Minh đã khẳng định tầm quan trọng của nhân dân đối với cách mạng và
dân tộc. Nhân dân là nền tảng, là lực lượng to lớn của cách mạng. Đó là sức mạnh khơng
gì địch nổi: “Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh
bằng lực lượng đồn kết của nhân dân” [54, tr.453]. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và
các nước khác đều chứng minh tính đúng đắn của quan niệm: Có lực lượng của quần
chúng, việc to tác mấy, khó khăn đến đâu cũng làm được, khơng có dân chúng thì làm
việc gì cũng khơng xong: “Dễ mười lần khơng dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng
xong” [59, tr.280].
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng khi quần chúng không được tuyên
truyền, giác ngộ và đồn kết thì chỉ là một đám đơng khơng có sức mạnh. Họ có sức mạnh

13


vơ địch khi được giác ngộ, tập hợp, đồn kết lại dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng
sản. Hồ Chí Minh đã đúc kết: “Thành cơng của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát
huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân” [56, tr.672]. Người phân tích: Thiên thời
khơng bằng địa lợi, địa lợi khơng bằng nhân hịa. Nhân hịa là quan trọng hơn hết. Nhân
dân là lực lượng to lớn, cơ bản của các cuộc cách mạng. Nước lấy dân làm gốc là tất yếu:
“Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” [49, tr.502].
Quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng, nhân dân
trong sự nghiệp cách mạng, ngay từ rất sớm Hồ Chí Minh đã ý thức được tầm quan trọng
của việc đoàn kết quần chúng tham gia vào sự nghiệp cách mạng. Năm 1923, trong “Thư
gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp”, Người đã nêu lên những vấn đề cơ bản của CTDV,
khi trở về nước “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ,
đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” [45, tr.209]. Để có sức mạnh to lớn của toàn dân
tộc, Người quan niệm nhân dân Việt Nam là tất cả mọi người dân không phân biệt dân
tộc, giai cấp, tơn giáo, tín ngưỡng, lứa tuổi, giới tính, ngành nghề, sang hèn, giàu nghèo...
Là nhà cách mạng chuyên nghiệp, đứng trên lập trường giai cấp cơng nhân, Hồ Chí Minh

ra sức tun truyền, vận động, thuyết phục rộng rãi quần chúng, nhân dân tham gia cách
mạng, khơng phân biệt dân tộc, giống nịi, tơn giáo: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường
hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con
cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng
nhau, no đói giúp nhau” [48, tr.249].
Tuy nhiên, theo Người để vận động được lực lượng to lớn cho cách mạng là việc
làm hết sức khó khăn, bởi: “dân chúng không nhất luật như nhau. Trong dân chúng, có
nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau” [49, tr.336]. Do đó, để
thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia cách mạng phải dựa trên nguyên tắc “mẫu số
chung”: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi
bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế
khác đều dòng dõi của tổ tiên ta” [48, tr.280]. Đây là nguyên tắc tập hợp lực lượng trên
tinh thần đoàn kết nhân văn cao cả; hài hòa giữa cái chung và cái riêng, giữa cái bộ phận
và cái tổng thể. Vì vậy, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đưa phong trào
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung cơng tác dân vận
Tuyên truyền, vận động, giác ngộ quần chúng hiểu rõ về quyền lợi và nghĩa vụ

14


Quan điểm của V.I.Lênin về công tác quần chúng: “một nước mạnh là nhờ ở sự
giác ngộ của quần chúng. Nước mạnh là khi nào quần chúng biết rõ tất cả mọi cái, quần
chúng có thể phán đốn được về mọi cái và đi vào hành động một cách có thức” [42,
tr.23]. Đó là khi dân chúng sáng tỏ mọi vấn đề thì chắc chắn mọi việc sẽ thuận lợi và
thành cơng. Trước khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh cũng xác định cách mệnh trước hết phải
làm cho dân giác ngộ. Bởi vì, dân chúng là chủ thể của cách mạng mà “quần chúng chưa
giác ngộ, chưa tự động thì khơng thể làm được, làm sẽ thất bại, vì họ sẽ không hăng hái.
Nhưng nếu họ được tuyên truyền giải thích, đã giác ngộ, mình lãnh đạo cho họ làm, cơng
việc sẽ có kết quả tốt” [51, tr.370]. Vì vậy, yêu cầu trước hết của CTDV là phải thông tin,

giải thích cho quần chúng hiểu rõ về nghĩa vụ và quyền lợi của mình. Do đó, các tổ chức
Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên phải ra sức tuyên truyền, giáo dục, vận động, giác
ngộ, nâng cao trình độ của quần chúng.
Theo Hồ Chí Minh, việc thơng tin cho dân biết và giải thích cho dân hiểu rõ quyền
lợi và nhiệm vụ của họ là trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Đây là đòi hỏi cơ bản nhất
của quy trình CTDV. Bởi, khi quần chúng được hiểu rõ ràng, được bàn bạc, trao đổi thì
mới tổ chức thi hành và tham gia kiểm thảo, rút kinh nghiệm. Đây là sự đòi hỏi cấp bách
của dân chúng ở tất cả các vùng, các miền, các đối tượng. Mục đích dân được giải thích
cũng khác nhau, dân được giải thích để cùng bàn bạc, thảo luận; dân được giải thích để
khẳng định vai trị, vị thế làm chủ của mình; dân được giải thích để đóng góp, bổ sung,
sửa chữa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nếu dân
khơng được giải thích rộng rãi, rõ ràng, không được biết trước, không nắm được hiện tại
và tương lai thì những chủ trương, chính sách, các chương trình kế hoạch của địa
phương, đơn vị khơng được bàn bạc, thống nhất và khi đưa ra thi hành chắc chắn thất bại.
Về nội dung “giải thích cho dân” trước hết là biết được những chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ,
đến cuộc sống hằng ngày của người dân. Ngồi ra, cịn những chương trình kế hoạch
kinh tế, văn hóa, xã hội... có liên quan đến những nhu cầu thiết yếu về vật chất và tinh
thần của dân, như: ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, trật tự an toàn xã hội,... Đặc
biệt, phải công khai minh bạch các khoản thu chi lớn của ngân sách địa phương và thu
nhập của các cán bộ, viên chức, các đại biểu dân cử cư trú trên địa bàn dân cư; các khoản
huy động nhân dân đóng góp. Làm được những điều đó, đồng nghĩa với việc Đảng và

15


Nhà nước đã phát huy tốt quyền DC của nhân dân. Điều mà Hồ Chí Minh quan tâm là
làm sao để nhân dân biết sử dụng quyền và hăng hái làm trịn nghĩa vụ của mình.
Trong q trình giác ngộ dân chúng, phải quan tâm giác ngộ đồng bào dân tộc
thiểu số lực lượng quan trọng trong công tác vận động của Hồ Chí Minh, theo Người,

đồng bào dân tộc thiểu số cũng phải giác ngộ về ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn
của mình đối với đất nước, dân tộc, làm sao để đại biểu thiểu số hiểu được: “Giang sơn
và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc
chúng ta phải đồn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta” [48,
tr.249]. Về nhiệm vụ của ĐBDT thiểu số trong hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: Ra sức giúp đỡ cuộc kháng chiến ở Nam Bộ; trồng trọt chăn nuôi, tăng gia sinh sản,
làm cho đủ ăn đủ mặc, và để giúp đỡ những nơi mất mùa; Đoàn kết chặt chẽ, khơng chia
nịi giống, xem nhau như anh em ruột thịt, yêu nhau, giúp nhau; Ra sức ủng hộ Chính
phủ, vì Chính phủ này là Chính phủ của dân, chỉ lo làm lợi cho dân [48, tr.154-155].
Nhiệm vụ bao giờ cũng đi liền với quyền lợi, theo Người quyền lợi của đồng bào
là: “Dân tộc bình đẳng. Chính phủ sẽ ra sức bãi bỏ những sự bất bình cũ giữa các dân tộc;
…; Chính phủ sẽ chú ý, để nâng cao sự giáo dục, làm cho đồng bào dân tộc thiểu số ai
cũng được học hành. Mặc dầu công cuộc đó rất to tát, các dân tộc thiểu số cùng với
Chính phủ đồng lịng nhất trí, thì chúng ta nhất định thành cơng [48, tr.156].
Tóm lại, để đáp ứng mọi yêu cầu của người dân đòi hỏi cán bộ, đảng viên cần phải
đi sâu tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của mọi tầng lớp dân cư, không phân biệt nghề
nghiệp, lứa tuổi, giới tính, tơn giáo, thành phần giai cấp, dân tộc, những người có q khứ
chính trị và chính kiến khác nhau sinh sống ở mọi miền đất nước và cả ở nước ngoài. Một
khi ta nắm bắt được người dân cần cái gì, muốn nghe, muốn biết cái gì, và vướng mắc
điều gì thì các cơ quan lãnh đạo quản lý có thể tạo điều kiện đáp ứng u cầu tìm hiểu
của họ. Khơng thể đưa cho người dân những thông tin mà họ không muốn biết hoặc
không liên quan.
Phát huy và thực hành dân chủ trong quần chúng trên mọi lĩnh vực
Hồ Chí Minh ln cho rằng dân chúng rất khôn khéo, hăng hái và anh hùng. Vì vậy,
cán bộ, đảng viên chú ý khi ra khẩu hiệu, đặt chính sách phải dựa vào ý kiến, kinh nghiệm
và nguyện vọng của dân chúng. Cùng bàn bạc, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của quần chúng
là khâu người dân thực hiện quyền làm chủ của mình. “Bàn bạc với dân” và “giải thích cho
dân hiểu” có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Bởi, dân có biết thì dân mới bàn và dân chỉ bàn

16



bạc những điều mình biết, nội dung “bàn bạc với dân” chủ yếu tập trung những vấn đề cơ
bản, như: đường lối, chủ trương, của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; tình
hình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh trật tự của địa phương, đơn vị…
Thực chất mục đích của “bàn bạc với dân” là nhằm tập hợp trí tuệ của quần chúng
đóng góp vào việc xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước làm
cho chủ trương, chính sách, pháp luật đó thể hiện được ý nguyện chính đáng của dân; mặt
khác, “bàn bạc với dân” cịn nhằm mục đích qn triệt và thực hiện chủ trương, chính
sách, luật pháp được tốt hơn, phát huy tiềm năng sáng tạo để đưa chủ trương, chính sách
luật pháp vào cuộc sống một cách thiết thực, hiệu quả. Để “bàn bạc với dân” cần phải
cung cấp thông tin cho người dân một cách đầy đủ, kịp thời; đồng thời phải thực hành
DC, lắng nghe mọi ý kiến của dân, của mọi đối tượng, xóa bỏ những định kiến hẹp hòi,
song lại phải tỉnh táo và sáng suốt; nghĩa là làm sao để nhân dân biết hưởng quyền DC,
biết dùng quyền DC của mình, dám nói, dám làm, dám đề đạt sáng kiến, kinh nghiệm.
Theo Người, để chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và chương trình, kế hoạch
của địa phương, đơn vị đạt hiệu quả cao, nhất định chọn cách: Đưa ra dân chúng bàn bạc.
Bởi, lực lượng dân chúng to lớn và “biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau
chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra” [49,
tr.335]. Để “bàn bạc với dân” hiệu quả, cần phải đấu tranh chống lại những tư tưởng hẹp
hòi, quan liêu, mệnh lệnh: “cho dân là dốt khơng biết gì, mình là thơng thái tài giỏi…
không thèm học hỏi dân chúng, không thèm bàn bạc với dân chúng” [49, tr.335]. Làm thế
dễ dẫn đến sai lầm, thất bại. Kinh nghiệm làm việc với dân chúng là: “Học hỏi quần
chúng nhưng không theo đuôi quần chúng” [49, tr.333].
Có thể nói, CTDV khơng chỉ phát huy sức mạnh to lớn mà còn phát huy cả quyền
làm chủ của Nhân dân. Tư tưởng DC là cái cốt lõi nhất, bản chất nhất của tư tưởng Hồ
Chí Minh về DV. Kế thừa quan niệm DC của các bậc tiền bối, Hồ Chí Minh quan niệm
DC là: nhân dân là người chủ, có địa vị cao nhất và chế độ ta là chế độ DC, tất cả đạị biểu
các dân tộc đều là người chủ nước nhà. Người khẳng định: “thực hành dân chủ là cái chìa
khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn” [59, tr.325]. Với Người, dân chủ khơng

phải là lời nói sng, mà đó là việc cần làm và phải làm. Bởi vì, DC là lẽ sống của Nhà
nước, của chế độ mới. Do đó, Hồ Chí Minh ln đánh giá cao về DC và thực hành DC.
Người cho rằng: DC phải dựa vào lực lượng quần chúng và đi đúng đường lối quần
chúng và nó là “của q báu nhất” của Nhân dân. Chính vì vậy, chỉ khi thực hành DC

17


mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến và khi phát huy DC đến cao độ thì
mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng đến thành công. Để
làm cho nhân dân thực sự được hưởng DC và biết dùng quyền DC của mình, trước hết
phải cho nhân dân biết quyền làm chủ của mình: Nhân dân có khả năng quyết định, điều
hành những tổ chức, cơng việc do mình làm chủ; phải đảm bảo đời sống vật chất và tinh
thần cho họ: Giải quyết vấn đề kinh tế và tài chính thế nào cho hợp lý, lợi cho dân. Điều
đáng lưu ý, mở rộng dân chủ phải đi đôi với tăng cường chuyên chính, chống lại kẻ thù
của nhân dân - chống lại những quan điểm, tư tưởng đối lập với lợi ích của nhân dân. Tuy
nhiên, quyền hành và lợi ích ở nơi dân thì nhân dân phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đối với
công việc kháng chiến, kiến quốc, chấn hưng đất nước. Hồ Chí Minh đã nhiều lần đề cập
đến vấn đề này, kêu gọi các tầng lớp nhân dân làm trịn nghĩa vụ của người cơng dân,
người chủ nước nhà.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về DC thật rộng rãi, đầy đủ, không phân biệt tôn
giáo, dân tộc, dịng giống. Trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số là một bộ phận không thể
thiếu. Nếu trước kia, với chế độ thực dân - phong kiến bằng mọi thủ đoạn chúng đã chia
rẽ đồng bào, dân tộc Việt Nam; thực hiện chính sách “chia để trị”, miệt thị, coi khinh
đồng bào ta, tước đoạt quyền DC, đồng bào phải sống trong cảnh thân phận nô lệ. Tuy
nhiên, dưới ánh sáng cách mạng vô sản, đồng bào ta đã giác ngộ, tham gia tranh đấu
giành độc lập, tự do, DC cho dân tộc. Theo Hồ Chí Minh khơng chỉ thực hành DC trong
đồng bào ở lĩnh vực chính trị mà còn phát huy quyền làm chủ của họ trong các lĩnh vực
khác, như: kinh tế, văn hóa, xã hội,… làm sao để đồng bào khẳng định được vị trí, vai trị
của người chủ. Cụ thể, cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, Nhà nước non trẻ ra

đời. Trong cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, Hồ Chí Minh đề nghị: “Tất cả công dân
trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, khơng phân biệt giàu nghèo, tơn
giáo, dịng giống” [48, tr.7], “khơng chia gái trai, giàu nghèo, tơn giáo, nịi giống, giai
cấp, đảng phái, hễ là cơng dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó” [48, tr.153]. Điều đó
khẳng định, mọi người dân đều có quyền ứng cử, bầu cử và bầu chọn ra các đại biểu
tham gia vào việc chung của cả nước; có quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do
cư trú, đi lại trong nước. Đặc biệt, các dân tộc được tự do bày tỏ nguyện vọng và phải cố
gắng để cùng giành cho bằng được độc lập hồn tồn, tự do và thái bình.
Tổ chức và động viên quần chúng tham gia vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần

18


Động viên và tổ chức quần chúng thi hành là q trình khẳng định vai trị chủ
động của người dân, dùng chính sức lao động của mình vào những việc làm cụ thể, nhằm
đạt được kết quả. Tuy nhiên, để “tồn dân thi hành” thì trước hết dân phải được giác ngộ
và được phát huy DC, nghĩa là dân đã bàn bạc, thống nhất quyết định thực hiện thì phải
thực hiện những nội dung dân được biết và dân đã bàn. Tránh trường hợp “bàn một đằng
mà làm một nẻo”. Nội dung “toàn dân thi hành” chủ yếu thực hiện những đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình, kế hoạch của địa
phương mang lại lợi ích thiết thực cho quần chúng và làm tròn nghĩa vụ của người dân
đối với xã hội. Nói một cách khác là tổ chức thực hiện quyền và nghĩa vụ của người dân.
Chăm lo phát triển kinh tế đảm bảo lợi ích thiết thực cho nhân dân ln là vấn đề
cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người xác định rõ: “Ngồi lợi ích của nhân dân và
của giai cấp cơng nhân, Đảng ta khơng có lợi ích nào khác” [56, tr.334]. Người đã hy sinh
cả cuộc đời để phấn đấu cho mục tiêu cao cả là nước nhà độc lập, nhân dân được tự do,
hạnh phúc. Đó chính là mục đích, là lẽ sống của Người, nó ln tồn tại trong mọi thời
gian, mọi hồn cảnh là làm cho ích quốc, lợi dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, lợi ích
của của quốc gia, dân tộc và của nhân dân cũng chính là khát vọng, mong mỏi của Người.

Khát vọng về sự ấm no, hạnh phúc cho nhân dân lớn dần thành “ham muốn tột bậc” ở
Người, “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [48, tr.187]. Quan tâm lợi ích của
nhân dân, theo Người cũng có nghĩa là phải ln ln chăm lo, hướng dẫn, giúp đỡ họ về
mọi mặt để nhân dân đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế văn hóa, nhằm cải thiện và
nâng cao đời sống.
Từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, trải qua nhiều năm tháng đấu tranh gian
khổ, hy sinh để giành độc lập dân tộc, sau khi cách mạng thành công, Việt Nam đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa. Đó là xu thế phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại, là nguyện
vọng thiết tha lâu đời của dân tộc ta, là cơ sở để thực hiện nhiệm vụ thống nhất đất nước.
Khi có điều kiện xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ của Đảng và Chính
phủ: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu
dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi” [53, tr.518].
Nghĩa là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước từ trung ương đến cơ sở phải quan tâm đến đời
sống của nhân dân; giúp đỡ nhân dân tăng gia sản xuất, cải thiện cuộc sống. Quần chúng đã
một lòng theo Đảng để tranh độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, thì họ đáng phải

19


được hưởng hạnh phúc. Hạnh phúc mà Đảng, Chính phủ mang lại là: Làm cho dân có ăn,
mặc, ở và học hành. Đó là mong mỏi ln canh cánh bên lịng Hồ Chí Minh cho đến cuối
cuộc đời. Trong “Di chúc”, sự tha thiết, mong mỏi của Người khi nước nhà thống nhất,
Đảng và Chính phủ phải ra sức chăm lo đời sống vật chất, tinh thần nhân dân. Cụ thể,
Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hố, nhằm
khơng ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” [59, tr.612].
Như vậy, để vận động được quần chúng hăng hái, tin tưởng và làm theo đường lối
của Đảng, Nhà nước thì trước hết cán bộ phải thể hiện vai trò tiên phong, gương mẫu, đi
sâu, đi sát, lắng nghe ý kiến của quần chúng, bàn bạc và tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc cho quần chúng và tìm ra các biện pháp với từng nơi, từng lúc, từng đối tượng để

thực hành chủ trương, chính sách của Đảng, luật pháp của Nhà nước đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình vận động dân thực hiện cần phải mạnh dạn phát động quần chúng, phải
nêu cao tinh thần tập thể, DC, sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm: “bất kỳ việc to việc
nhỏ, hễ thêm điều lợi, trừ điều hại cho quần chúng, giúp quần chúng giải quyết vấn đề
khó khăn, tăng kết quả của việc làm, tăng sức sản xuất của xã hội” [49, tr.284]. Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ vai trị của cán bộ, đảng viên - người đầy tớ trung thành của nhân dân,
phải nhận rõ trách nhiệm: “Đã phụng sự nhân dân, thì phải phụng sự cho ra trị. Nghĩa là
việc gì lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh”
[50, tr.432]. Cán bộ, đảng viên tổ chức, tập hợp quần chúng với mục đích là: “Đem tài
dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân” [49, tr.81]. Người cũng phê bình lối làm việc chủ
quan: “làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình, rồi đem cột vào cho
quần chúng, thì khác nào “khoét chân cho vừa giầy” [49, tr.288]. Trong quá trình tổ chức
cần phải đề phịng hai khuynh hướng: Một là bng lỏng lãnh đạo để cho quần chúng
hành động một cách tự phát, vơ chính phủ; hai là làm cho quần chúng thụ động, mất tính
độc lập, sáng tạo, trong cả hai trường hợp đều mang lại hậu quả không tốt đối với sự
nghiệp chung, làm phương hại đến lợi ích chính đáng của quần chúng.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, lợi ích vật chất và tinh thần của quần chúng không chỉ
được quan tâm mà còn phải được điều hòa. Trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số cần phải
được chăm lo, giúp đỡ. Bởi vì, sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội là
sự nghiệp chung của cả dân tộc Việt Nam; đồng bào dân tộc thiểu số đóng vai trị quan trọng
- nơi trọng yếu của đất nước. Cơng lao đó khơng chỉ trong thời kỳ cách mạng và kháng
chiến, mà ngay cả trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội miền núi và đấu tranh để thực

20


hiện hịa bình, thống nhất Tổ quốc, đồng bào dân tộc thiểu số đang cố gắng góp phần xứng
đáng của mình. Quá trình phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần trong đồng
bào dân tộc thiểu số chắc hẳn gặp phải những trở lực lớn, nhưng bằng sự quyết tâm, tinh thần
đoàn kết của cả nước, Hồ Chí Minh tin tưởng vào một tương lai tươi sáng.

Song song với phát triển kinh tế nâng cao đời sống vật chất, Hồ Chí Minh ln
quan tâm đến đời sống tinh thần trong đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng đời sống văn
hóa mới đi đơi với chống lại những tư tưởng, thủ tục lạc hậu. Người yêu cầu cán bộ phải
quan tâm, giúp đỡ, cải tạo và xây dựng dần dần, tránh nóng vội. Người phân tích: “Vì đó
là phong tục tập qn đã lâu đời. Muốn cải tạo phong tục tập quán được tốt, thì tuyên
huấn phải làm, mà phải làm bền bỉ liên tục, làm dần dần, chứ khơng thể chủ quan nóng
vội, muốn làm hết ngay một lúc” [58, tr.165].
Hồ Chí Minh yêu cầu phát triển văn hóa, giáo dục trong đồng bào thiểu số. Đảng,
Nhà nước phải có những chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn, tạo mơi trường để dân
tộc thiểu số phát triển nền văn hóa mang bản sắc riêng, hài hịa, thống nhất với văn hóa
chung của dân tộc. Theo Người, nâng cao đời sống tinh thần trong đồng bào dân tộc thiểu số
phải gắn với phát triển giáo dục: “đồng bào phải cố gắng xóa nạn mù chữ. Phải biết đọc biết
viết thì làm ăn mới tiến bộ được” [57, tr.95]. Người yêu cầu Đảng, Nhà nước quan tâm đến
giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, từ việc xây dựng trường lớp đặc thù cho đồng bào,
như: trường nội trú, trường dành cho thanh niên dân tộc vừa học vừa làm,…
Tạo điều kiện để dân chúng kiểm thảo, góp ý, phê bình, tham gia xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh
Góp ý, phê bình là nội dung quan trọng không thể tách rời khỏi quy trình tổ chức
và thực hiện CTDV, là “mắc xích” có tính chất quyết định đến sự thành cơng hay thất bại
của cơng tác này. Nếu góp ý, phê bình nghiêm túc, hiệu quả là cơ sở quan trọng, đáng tin
cậy trong việc đúc rút kinh nghiệm. Đồng thời, đó cũng là căn cứ để chúng ta thực hiện
tốt công tác cán bộ. Để góp ý, phê bình đúng người, đúng việc trước hết phải thực hiện
tốt việc kiểm thảo. Bởi vì, có kiểm thảo, đánh giá kết quả mới có cơ sở vững chắc góp ý,
phê bình. Hồ Chí Minh lưu ý kiểm thảo ngay trong lúc thực hành cần ln ln kiểm
thảo đường lối chính trị của ta, chứ khơng phải đến lúc hồn thiện mới bắt tay vào thực
hiện. Người xem trọng việc kiểm thảo sự lãnh đạo của Đảng về chính trị và tổ chức, đề
cao tinh thần phê bình và tự phê bình trong Đảng, tổ chức việc học tập lý luận và sửa đổi
lối làm việc. Theo Người, kiểm thảo phải có phương thức mới đạt được hiệu quả: “Phải

21



kiểm thảo từ dưới lên, từ trên xuống. Cấp nào cũng phải kiểm thảo. Phải làm cho tất cả
mọi người … cũng như cán bộ đều thấm nhuần, thì mới có kết quả” [50, tr.457], làm như
thế mới giữ được kỷ luật và triệt để. Qua đó, việc tổng kết, rút kinh nghiệm, sửa chữa
những sai lầm, khuyết điểm và phát huy ưu điểm mới thật sự sâu sắc. Điều đó được
Người luận giải: “Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát
của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ
kịp thời…nhiều nơi cán bộ lãnh đạo chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi
chỉ thị… Họ quên mất kiểm tra. Đó là một sai lầm” [49, tr.636] rất to. Vì thế mà "đầy túi
quần thơng cáo, đầy túi áo chỉ thị" mà công việc vẫn không chạy [49, tr.637].
Để phát huy tinh thần DC, công khai, minh bạch, chủ thể thực hiện kiểm thảo bao
gồm cán bộ và nhân dân. “Dân kiểm thảo” là một nội dung về quyền DC của nhân dân
nhằm xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng các đoàn thể nhân dân trong sạch,
vững mạnh; và bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Bàn về vấn đề này Hồ
Chí Minh đã phân tích: “ban kiểm tra là đúng, nhưng ban kiểm tra phải dựa vào quần
chúng mà tiến hành công tác” [59, tr.681]. Nhận thức được vấn đề này ngày càng rõ và
cấp bách, Đảng ta thường xuyên quan tâm, nhắc nhở phải tăng cường hệ thống thanh tra
nhân dân, nêu rõ vai trị của các đồn thể nhân dân đối với công tác kiểm tra, giám sát
việc thực hiện DC, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Trao
cho dân quyền kiểm tra là thể hiện lịng tin và sự tơn trọng đối với dân. Người đi kiểm tra
phải được trang bị những kiến thức cần thiết và phải chí cơng vô tư, không lồng các động
cơ sai lệch. Song, quan trọng hơn là phải giải quyết những vấn đề được phát hiện qua
việc kiểm tra. Quần chúng nhân dân thường hay so sánh quá khứ và hiện tại, bộ phận và
toàn bộ, nơi này và nơi khác. Họ rất nhanh nhạy phát hiện ra chỗ mạnh, chỗ yếu, kẻ tốt,
người xấu. Để kiểm thảo đúng, hiệu quả cán bộ và nhân dân phải nắm vững nội dung cần
kiểm thảo. Cụ thể, kiểm tra, giám sát những nội dung đã triển khai, bàn bạc, thảo luận và
tiến hành thực hiện.
Muốn thực hiện việc “dân kiểm thảo”, công tác kỷ luật, kiểm tra của Đảng và các
cơ quan nhà nước phải thật sự nghiêm minh. Nếu kỷ luật trong nội bộ Đảng và cơ quan

nhà nước khơng nghiêm minh, q trình kiểm tra không chặt; xử lý qua loa, chiếu lệ; nhẹ
trên nặng dưới, thông tin sai lệch, ô dù né tránh, thì dù dân có kiểm tra, giám sát cũng
khơng thể có hiệu quả. Vì lẽ đó, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ từ Trung ương đến các tỉnh, các
huyện, các xã “phải nắm chắc công tác kiểm tra. Mỗi năm phải kiểm tra mấy lần. Hễ thấy

22


vấn đề thì phải giải quyết ngay… phê bình kịp thời, chớ để việc qua rồi mới phê bình.
Làm như vậy sẽ đỡ mắc sai lầm, và nếu phạm sai lầm thì kịp thời sửa chữa” [56, tr.45].
Đồng thời, xem công tác kiểm thảo, rút kinh nghiệm là công việc thường xuyên, trong lúc
thi hành phải linh hoạt, sáng tạo, nghĩa là: “Mỗi năm nên có vài đợt kiểm tra lẫn nhau
giữa tỉnh này với tỉnh khác, huyện này với huyện khác... Tỉnh nào có kết quả tốt nhất sẽ
được Chính phủ khen thưởng,...” [58, tr.20]. Bởi, mục đích kiểm thảo, rút kinh nghiệm là
cơ sở đánh giá những đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước và chương trình, kế hoạch của địa phương có phù hợp, sát với thực tế, đúng nguyện
vọng của quần chúng hay khơng? Từ đó, cán bộ, đảng viên phải nghiêm túc “sửa chữa,
chứ khơng phải để cơng kích, cốt giúp nhau tiến bộ, chứ không phải làm cho đồng chí
khó chịu, nản lịng” [49, tr.308].
Thực tế trong nội bộ Đảng, cơ quan nhà nước lỏng lẻo, mất đoàn kết, chia rẽ bè
phái… thì khơng thể thực hiện tốt được việc “dân kiểm thảo”, rút kinh nghiệm. Dù có trao
quyền cho dân kiểm thảo cũng khơng có tác dụng tích cực, càng kiểm thảo thì càng làm cho
quần chúng nghi ngờ, bất mãn, hoặc đi đến lẫn lộn đúng sai, tốt xấu, kết luận khơng chính
xác, gây mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Chính vì vậy, chỉ khi biết dựa vào dân, nội bộ
Đảng và cơ quan nhà nước trong sạch và giữ nguyên kỷ luật, có tinh thần tự phê bình nghiêm
túc, thì lúc đó mới có điều kiện cần và đủ để thực hiện việc “dân kiểm thảo”.
Thực hiện kiểm thảo, góp ý phê bình cần phát huy tốt quyền làm chủ của đồng bào
dân tộc thiểu số, tạo điều kiện để họ tham gia tích cực đóng góp ý kiến, xây dựng Đảng,
Nhà nước trong sạch. Qua đó, tạo động lực, niềm tin và tinh thần đồn kết của đồng bào
được nâng lên. Theo Hồ Chí Minh, phát huy DC trong đồng bào dân tộc cần đấu tranh

chống lại những tư tưởng hẹp hòi dân tộc, cục bộ địa phương cũng như tấm lý tự ti dân
tộc. Hiến pháp Việt Nam (1946) ghi rõ: Tất cả các cơng dân Việt Nam đều bình đẳng
trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và cơng cuộc kiến quốc tùy theo tài năng
và đức hạnh của mình. Người chỉ rõ nguyên nhân sâu xa mà xuất hiện sự chia rẽ, hằn thù
trước kia là do cách xa, thiếu giây liên lạc hay là vì có kẻ xúi giục để chia rẽ và hiện nay,
khi đất nước giành được độc lập, xây dựng chế độ DC, tất cả đồng bào các dân tộc đều là
người chủ nước nhà, mỗi dân tộc, mỗi người phải: “khắc phục những tư tưởng dân tộc
lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc. Người dân tộc lớn dễ mắc bệnh kiêu ngạo. Cán bộ địa
phương, nhân dân địa phương lại dễ cho mình là dân tộc bé nhỏ, tự ti, cái gì cũng cho là

23


mình khơng làm được, rồi khơng cố gắng” [58, tr.167]. Do đó, kiểm thảo, góp ý, phê bình
hệ thống chính trị không là trách nhiệm của riêng ai mà là nhiệm vụ của tồn dân.
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về lực lượng tham gia công tác dân vận
Theo Hồ Chí Minh CTDV khơng là trách nhiệm của riêng của mỗi cá nhân, tổ chức
nào mà là trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên,
cơng chức, viên chức, đồn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng
vũ trang. Đó là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước
ta; góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng,
Nhà nước với quần chúng, nhân dân.
Đảng lãnh đạo công tác dân vận
Để khẳng định vai trò lãnh đạo của mình, trước hết Đảng phải có đường lối, chính
sách và phương thức lãnh đạo các giai cấp, tầng lớp nhân dân một cách đúng đắn, phù
hợp. Từ đó, khơi dậy và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi người dân để
họ sẵn sàng cống hiến “nhân lực, tài lực” góp phần thực hiện thắng lợi đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Muốn vậy, mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước trước khi ban hành, cần đưa ra trưng cầu dân ý; phải thực hiện đúng lời dạy
của Hồ Chí Minh: “Ln ln gần gũi nhân dân… nghe ngóng và hiểu biết nhân dân.

Học hỏi nhân dân… dựa vào nhân dân để thực hiện nguyện vọng chính đáng của nhân
dân” [50, tr.432].
Những yêu cầu đó phải đi song song với nhau. Vì khơng gần gũi nhân dân thì
khơng thể hiểu biết nhân dân. Khơng hiểu biết nhân dân thì khơng học hỏi được những
kinh nghiệm và sáng kiến của họ. Và khơng học hỏi nhân dân thì khơng lãnh đạo được
nhân dân. “Có biết làm học trị dân, mới làm được thầy học dân” [50, tr.432]. Làm được
điều đó sẽ khắc phục được bệnh chủ quan duy ý chí, quan liêu; mặt khác thu hút được trí
tuệ, chưng cầu ý kiến của toàn dân, của toàn xã hội vào việc hoạch định chính sách sát
với thực tế, mang tính khả thi. Đó cịn là giải pháp để các tổ chức Đảng, chính quyền, cán
bộ, đảng viên ln nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực chủ động trong vận động, tập
hợp quần chúng.
Có thể khẳng định, cơng tác quần chúng trước hết là trách nhiệm của Đảng. Đảng
làm CTDV bằng cả hệ thống tổ chức của mình: Thực hiện tồn Đảng làm công tác vận
động quần chúng thông qua các cấp ủy Đảng và đảng viên; thông qua Nhà nước và hệ
thống mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Ngoài ra, Ban Dân vận các cấp là bộ máy tham

24


mưu giúp cấp ủy trong việc lãnh đạo công tác vận động nhân dân. Bên cạnh đó, cán bộ,
đảng viên có uy tín sẽ làm nịng cốt lãnh đạo các cơ quan dân cử, các đoàn thể nhân dân.
Để làm trịn sứ mệnh của mình, Đảng phải thường xun đổi mới, chỉnh đốn, phải
thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Phải
chú ý xây dựng Đảng thực sự vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức; nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng mới đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.
Nhà nước phụ trách cơng tác dân vận
Nhà nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước dân chủ nhân dân, do
dân làm chủ và là chủ, mọi quyền hành đều ở nơi dân. Nhân dân phải có trách nhiệm xây
dựng Nhà nước. Do vậy, Nhà nước phải làm tốt CTDV. Hệ thống cơ quan Nhà nước từ
Trung ương cho đến địa phương phải làm tốt CTDV vì nhân dân là chủ đồng thời là đối

tượng chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nước. Chính vì vậy, mọi quyết định của cơ quan
nhà nước đều ảnh hưởng đến lợi ích và nghĩa vụ của nhân dân. Đồng thời thái độ và cách
thức tham gia của nhân dân có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả chủ trương, chính sách
của Nhà nước.
Nhà nước làm CTDV bằng việc đề ra các chính sách đúng đắn, phù hợp, khả thi
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng an ninh và đối ngoại. Nhà
nước có nghĩa vụ ban hành chính sách, nhân dân trực tiếp thực hiện, là đối tượng trực
tiếp được hưởng lợi ích hoặc phải chịu hậu quả từ các chính sách của Nhà nước. Vì vậy,
trách nhiệm của nhà nước trước hết là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu nhất của
nhân dân, từ cái ăn, mặc, ở và học hành. Đó là mục tiêu cơ bản nhất khi đất nước tranh
được độc lập, tự do. Bởi lẽ, “chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói,
chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc
lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” [48, tr.175].
Nếu chính sách đúng đắn, phù hợp sẽ bồi dưỡng được sức dân, bảo vệ được lợi ích,
phát huy sức mạnh, niềm tin của nhân dân và ngược lại. Việc ban hành chính sách có ý
nghĩa hết sức to lớn, vì dân chúng có tin vào chế độ hay khơng, khả năng của họ được phát
huy đến mức nào, trước hết phụ thuộc vào năng lực ban hành chính sách của Nhà nước. Do
vậy, để làm tốt CTDV trước hết Nhà nước phải có các chính sách đúng, phù hợp trên tất cả
các lĩnh vực. Đó là chính sách thể hiện trung thành quan điểm chỉ đạo của Đảng, nguyện
vọng, lợi ích của nhân dân; phù hợp với xu hướng của thời đại và các đặc điểm đặc thù của

25


×