Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Tai liêu tư tưởng, đọa đức, phong cách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.99 KB, 86 trang )

đạo đức và phong cách Hồ chí minh

MC LC
Trang
LI NểI ĐẦU
Chương 1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC - GIÁ TRỊ

5
6

4


VÀ VẬN DỤNG TRONG BỒI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC CỦA
1.1.
1.2.

NGƯỜI CHÍNH ỦY TRUNG, SƯ ĐỒN HIỆN NAY
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và vận dụng trong

6

bồi dưỡng đạo đức của người chính ủy trung, sư đồn hiện
nay
25
Chương 2 TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀ VIỆC HỌC
TẬP, LÀM THEO CỦA NGƯỜI CHÍNH ỦY TRUNG, SƯ
2.1.
2.2.


ĐỒN HIỆN NAY
33
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
33
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của

người chính ủy trung, sư đồn hiện nay
49
Chương 3 PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VÀ VIỆC HỌC TẬP,
LÀM THEO CỦA NGƯỜI CHÍNH ỦY TRUNG, SƯ
3.1.
3.2.

ĐỒN HIỆN NAY
57
Phong cách Hồ Chí Minh
57
Học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh của người

chính ủy trung, sư đoàn hiện nay
TÀI LIỆU THAM KHẢO

74
88

5


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC - GIÁ TRỊ VÀ VẬN DỤNG

TRONG BỒI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI CHÍNH ỦY
TRUNG, SƯ ĐỒN HIỆN NAY
1.1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC

1.1.1. Khái niệm và cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
a) Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là hệ thống các luận điểm,
quan điểm mang tính tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của đạo đức cách mạng; kết quả của sự kế thừa, vận dụng và
phát triển sáng tạo giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tinh hoa đạo đức nhân loại, nhất là lý luận chủ nghĩa Mác Lênin về đạo đức nhằm xây dựng nền đạo đức mới, phục vụ thiết
thực cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức thực chất là đề cập đến đạo đức cách
mạng. Bởi lẽ, trong tư tưởng của Người, đạo đức ln nảy sinh, hình thành, phát
triển gắn liền với cuộc đấu tranh cách mạng; bắt nguồn từ lợi ích sống cịn của
cách mạng nước nhà và từ những đòi hỏi cụ thể trong mỗi bước đi lên của cách
mạng. Đạo đức cách mạng khi được xây dựng, hoàn thiện lại quay trở lại phục
vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng.
Mặt khác, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm, quan
niệm mang tính hệ thống, tồn diện và sâu sắc của Người về các vấn đề cơ bản của
đạo đức cách mạng, như là: bản chất, vị trí, vai trị, chuẩn mực, nguyên tắc, con
đường, biện pháp xây dựng đạo đức cách mạng ở Việt Nam.
b) Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
* Cơ sở tư tưởng, lý luận
Thứ nhất, các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, trước hết được bắt nguồn từ các giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, trở
thành người cách mạng, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tiếp thu một cách trân
trọng, từ đó có những hiểu biết sâu rộng về lịch sử và truyền thống tốt đẹp của

dân tộc, đặc biệt là các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc. Cách thức mà
Người nghiên cứu, tiếp thu không chỉ qua văn thơ, ca dao, tục ngữ, sử sách, mà

6


còn trực tiếp từ sự dạy bảo về đạo “làm con”, “làm học trị”, “làm người” từ
trong gia đình, trường học và thực tế đời sống sinh hoạt thường ngày trong nhân
dân. Người nhận thức sâu sắc rằng, dân tộc Việt Nam là một dân tộc trọng đạo
đức; từ bao đời nay nhân dân ta sống với nhau rất “trọng tình, trọng nghĩa”, “có
tâm, có đức”. Nhân dân ln địi hỏi mỗi người phải tu dưỡng đạo đức để xây
dựng cuộc sống bình yên, hạnh phúc và để giữ làng, giữ nước; q trình đó đã
hình thành nên đạo lý làm người của dân tộc Việt Nam.
Ngoài ra, nổi bật trong các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc mà
Hồ Chí Minh tiếp thu, phát triển đó là: yêu quý con người, đề cao tình người,
cưu mang đùm bọc lẫn nhau trong khó khăn, hoạn nạn; cố kết, gắn bó cộng
đồng, đồn kết, chung lưng đấu cật, thương yêu đồng loại, khoan dung độ
lượng; hiếu học, cần cù, giản dị, tiết kiệm, v.v.. Những đức tính tốt đẹp đó
được lưu truyền từ đời này qua đời khác, trở thành thuần phong mỹ tục của
dân tộc Việt Nam. Đây là một trong những tiền đề hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức.
Thứ hai, những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của những người thân trong gia
đình và quê hương xứ Nghệ.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình có truyền thống đạo đức mẫu mực
và lớn lên ở một mảnh đất có truyền thống cách mạng, ý chí vượt khó, vượt khổ,
sống khẳng khái, hiếu học của quê hương xứ Nghệ. Trong đó, tấm gương giàu lịng
u nước, thương dân, cần cù lao động, có ý chí kiên cường vượt qua gian khổ, khó
khăn để đạt được mục tiêu, chí hướng và chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho
mọi cải cách chính trị - xã hội của cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc đã tác động ảnh
hưởng sâu sắc đến sự hình thành tư tưởng đạo đức và nhân cách của Hồ Chí Minh.

Chính vì vậy, Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc khơng chỉ là thân phụ, mà còn là
người thầy giáo đầu tiên của Người. Đồng thời, Người rất kính phục những tấm
gương đạo đức của những người con quê hương đã hy sinh vì độc lập tự do của dân
tộc, tiêu biểu như: Mai Hắc Đế, Phan Đình Phùng,... Những tấm gương đạo đức
sáng ngời ấy đã in dấu ấn sâu sắc trong tình cảm của Hồ Chí Minh và Người quyết
tâm học tập, noi theo.
Thứ ba, tinh hoa đạo đức nhân loại.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu có chọn lọc, kế thừa có phê phán tinh hoa đạo
đức phương Đơng và phương Tây. Người coi trọng và đánh giá cao những giá trị
tích cực, tiến bộ, đồng thời chỉ ra những điểm tiêu cực, hạn chế trong tư tưởng
đạo đức phương Đông và phương Tây.
Đối với Nho giáo, Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng vai trò của tư tưởng đạo
7


đức Nho giáo để khai thác, phát huy những mặt tích cực trong tư tưởng Nho giáo
và khuyên mọi người “nên học”. Theo Người, tư tưởng đạo đức Nho giáo có
những điểm tích cực đó là: Coi trọng tu dưỡng đạo đức, không coi đạo đức là bản
chất tự nhiên mà con người phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện công phu, bền bỉ mới
đạt được; đề cao sức mạnh của đạo đức, văn hóa, lễ giáo,... Đặc biệt, Nho giáo
chủ trương kẻ sĩ, nên những người cầm quyền càng phải thực hành đạo đức để
làm gương cho mọi người noi theo. So với các học thuyết cổ đại, với chủ trương
“ngu dân” để dễ cai trị, thì Nho giáo có nhiều điểm tiến bộ hơn hẳn các học thuyết
đó. Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra những mặt bất cập, hạn chế của tư tưởng
đạo đức Nho giáo. Đó là những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng
phân biệt đẳng cấp, coi khinh lao động chân tay, khinh thường phụ nữ,… Xét đến
cùng, đạo đức Nho giáo nhằm củng cố trật tự, đẳng cấp phong kiến, phục vụ lợi
ích của giai cấp thống trị.
Đánh giá về quan điểm đạo đức của Khổng Tử, Hồ Chí Minh viết: “Cách
đây 20 thế kỷ, chưa có chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc chưa

bị áp bức như chúng ta ngày nay, cho nên bộ óc Khổng Tử khơng bao giờ bị
khuấy động vì các học thuyết cách mạng. Đạo đức của ơng là hồn hảo, nhưng nó
khơng thể dung hợp được với các trào lưu tư tưởng hiện đại, giống như một cái
nắp trịn làm thế nào để có thể đậy kín được cái hộp vng”1.
Đối với tư tưởng đạo đức Phật giáo, Hồ Chí Minh kế thừa và tiếp thu tư
tưởng vị tha, từ bi, bác ái, coi đó là hiện thân của lòng nhân ái, độ lượng, khoan
dung; trong giáo lý đạo Phật khuyên dạy con người sống có đạo đức, trong sạch,
giản dị, chăm lo làm điều thiện, bình đẳng, dân chủ chất phác, chống mọi phân
biệt đẳng cấp, đề cao lao động, chống lười biếng, “nhất nhật bất tác, nhất nhật
bất thực” (một ngày không làm, một ngày khơng ăn)... Người cho rằng, đó là
những ý tưởng tốt đẹp, những yếu tố tích cực cần được khơi dậy trong nhân dân.
Đối với tinh hoa đạo đức phương Tây, trước hết, Hồ Chí Minh đã đánh giá
cao và tiếp thu những giá trị tích cực trong tư tưởng đạo đức Cơ đốc giáo. Nét nổi
bật của đạo đức Cơ đốc giáo là: Lòng nhân ái, thương người, tinh thần khoan dung,
không cố chấp. Chúa Giêxu luôn răn dạy con chiên của mình hãy sống trong sạch,
thuỷ chung, khơng tham lam, trộm cắp, không rối trá, phải an ủi, cứu giúp người
hoạn nạn, đói khát, bệnh tật,... Hồ Chí Minh đã viết: tơn giáo Giêxu có ưu điểm là
lịng nhân ái cao cả. Tuy nhiên, Người cũng đã nhận rõ mặt tiêu cực của đạo đức
Cơ đốc giáo khi bị giai cấp thống trị lợi dụng để ru ngủ con người, kêu gọi thỏa
hiệp với kẻ thù, trông chờ vào chúa, thủ tiêu đấu tranh.

1

Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 562.

8


Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao và tiếp thu những giá trị tích cực
trong tư tưởng về “tự do, bình đẳng, bác ái”. Song, Người đã sớm nhận thấy mặt

trái của lá cờ và khẩu hiệu: Tự do, Bình đẳng, Bác ái thơng qua sự đối lập giữa tư
tưởng đạo đức mà giai cấp tư sản rêu rao với thực trạng đầy rẫy áp bức, bất công
của xã hội tư sản. Người chỉ rõ, đằng sau chữ Tự do cịn là những hành vi trói
buộc, hành hạ và sỉ nhục con người. Đằng sau chữ Bình đẳng còn là sự đối chọi
giữa dư thừa và thiếu thốn, giữa đói rét và giàu sang. Đằng sau chữ Bác ái là sự
chém giết, bạo tàn. Hồ Chí Minh viết: “Để che đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột
giết người, chủ nghĩa tư bản thực dân luôn luôn điểm trang cho cái huy chương
mục nát của nó bằng những châm ngơn lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng, v.v.. Nhưng,
hãy xem tay chiến sĩ về bình đẳng ấy đã thực hiện bình đẳng như thế nào”1.
Điều đó có nghĩa, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tư tưởng tiến bộ
của đạo đức Phương Tây, nhưng Người cũng thấy rằng nó chưa thoả mãn
được lý tưởng chính trị và đạo đức của Người trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng triệt để con người.
Thứ tư, tư tưởng và tấm gương đạo đức của các nhà kinh điển mácxít.
Trong q trình xây dựng học thuyết của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
thực hiện cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức, tạo tiền đề lý luận khoa học
cho những người cộng sản và giai cấp công nhân vận dụng vào thực tiễn đấu
tranh cách mạng và xây dựng đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh trong xã
hội mới do giai cấp công nhân, nhân dân lao động làm chủ. V.I.Lênin là người
kế tục xuất sắc những tư tưởng thiên tài của C.Mác và Ph.Ăngghen, đã bảo vệ,
phát triển toàn diện học thuyết Mác trong đó có vấn đề đạo đức trong điều kiện
mới, khởi thảo hệ thống nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức mới - đạo đức cộng sản,
đưa đạo đức học mácxít phát triển lên một giai đoạn mới, gắn kết chặt chẽ đạo
đức với thực tiễn cách mạng, làm cho đạo đức cộng sản ngày càng trở nên phổ
quát trong xã hội mới do giai cấp công nhân và những người lao động làm chủ,
con người được tự do, phát triển toàn diện các phẩm chất và năng lực của mình.
Chính Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong tư tưởng đạo đức của V.I.Lênin điều mà
Người rất khâm phục: sau khi giải phóng nhân dân mình, Lênin cịn muốn giải
phóng các dân tộc bị áp bức khác nữa.
Khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã được thức tỉnh bởi tư tưởng

vĩ đại của các nhà kinh điển mácxít về vai trò và sức mạnh của con người trong
cải tạo tự nhiên và xã hội. Nếu như các học thuyết đạo đức cũ, dù nói nhiều đến
u thương, tơn trọng con người nhưng vẫn còn những hạn chế rất cơ bản là:
1

. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 1, tr. 93.

9


trông chờ sự cứu vớt của thượng đế, kêu gọi hịa hỗn với kẻ thù, chờ đợi sự ban
phát, rủ lòng thương của giai cấp thống trị,... Nhưng Chủ nghĩa Mác - Lênin lại
khẳng định: sự nghiệp giải phóng con người phải do chính con người tự làm lấy.
Đây được xem như là hành vi đạo đức cao cả nhất, đồng thời là một bước ngoặt
cách mạng của tư tưởng đạo đức nhân loại mà trước đó chưa có nhà tư tưởng nào,
học thuyết khoa học nào phát hiện được.
Mặt khác, theo Hồ Chí Minh, sức thuyết phục của đạo đức Mác - Lênin
khơng chỉ ở tính cách mạng và khoa học, mà còn ở tấm gương đạo đức mẫu mực,
trong sáng, cao cả của các nhà kinh điển mácxít. Do đó, cùng với việc tích cực,
nghiên cứu, học tập để hiểu sâu sắc những giá trị đạo đức cao đẹp trong học thuyết
Mác - Lênin, Người rất khâm phục, ngưỡng mộ và quyết tâm noi theo tấm gương
đạo đức cao đẹp, vĩ đại của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin. Chẳng hạn, khi đánh
giá về tấm gương đạo đức của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã viết: “Khơng phải chỉ
thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động,
đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người
thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ
hướng về Người, khơng gì ngăn cản nổi”1.
Trên thực tế, trong sự nghiệp cách mạng của mình, Hồ Chí Minh khơng
những thường nhắc tới các nhà kinh điển mácxít với lịng kính trọng, mà bản
thân Người là một biểu tượng cho tinh thần phấn đấu noi theo tấm gương đạo

đức vĩ đại của các ông. Như cố giáo sư Vũ Khiêu đã nghiên cứu và nhận xét:
“Hồ Chí Minh luôn luôn học tập và chiến đấu theo tư tưởng sáng suốt và đạo
đức cao cả của Mác, Ăngghen, Lênin. Trên cơ sở đó, Người đã xây dựng cho
mình và cho nhân dân ta một hệ thống tư tưởng đạo đức”2.
Có thể nói, tư tưởng và tấm gương đạo đức của các nhà kinh điển mácxít là
cơ sở cơ bản, chủ yếu và quyết định nhất đến sự hình thành, phát triển và cả bản
chất tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thuộc
hệ tư tưởng của giai cấp cơng nhân, mang bản chất cách mạng và khoa học. Chính
nhờ có tư tưởng và tấm gương đạo đức của các nhà kinh điển mácxít nên Hồ Chí
Minh đã xây dựng, phát triển và hoàn thiện được tư tưởng đạo đức của mình.
* Cơ sở thực tiễn
Thứ nhất, thực tiễn Việt Nam.
1

. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 1, tr. 317.
. Vũ Khiêu, Hồ Chí Minh - Ngơi sao sáng mãi trên bầu trời Việt Nam, Nxb. CTQG – ST, Hà Nội, 2014, tr. 78.

2

10


Từ khi thực dân Pháp xâm lược và đặt ách thống trị lên đất nước ta, biến nước
ta thành một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nhân dân ta bị nô dịch, áp bức cả về
thể xác và tinh thần. Sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến và sự áp đặt “lối
sống tư sản”,... là nguy cơ làm xói mịn các giá trị đạo đức, lối sống, thuần phong mỹ
tục truyền thống tốt đẹp của dân tộc và là một trở ngại lớn đối với sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta. Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh cho rằng, muốn giải phóng triệt
để người lao động, phải đồng thời giải phóng cho họ cả về tư tưởng, văn hóa, đạo
đức, lối sống, thói quen lạc hậu có gốc rễ từ hàng ngàn năm nay.

Mặt khác, Cách mạng Tháng Tám 1945 thành cơng, chính quyền thuộc
về nhân dân, Hồ Chí Minh sớm phát hiện ra những hiện tượng sai lệch của
một bộ phận cán bộ, đảng viên như: chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, hách dịch,
cửa quyền, tham ơ, hủ hóa... Những tệ nạn đó, nếu không sớm được khắc
phục, ngăn chặn sẽ dễ trở thành nguy cơ làm tổn hại đến thanh danh của
Đảng, uy tín của Chính phủ và tồn bộ sự nghiệp cách mạng, nhất là trong
điều kiện Đảng cầm quyền.
Như vậy, yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như
trong quá trình tổ chức, xây dựng chế độ mới nhằm đưa nước ta từ một nước
nghèo và lạc hậu trở thành một nước giàu mạnh, văn minh đã đặt ra yêu cầu cấp
thiết xây dựng nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng cho nhân dân ta nói chung
và cán bộ, đảng viên nói riêng.
Thứ hai, thực tiễn thế giới.
Trong hành trình tìm đường cứu nước, với gần 30 năm sống và hoạt động
ở nước ngoài (1911 - 1941), Hồ Chí Minh đã vượt qua ba đại dương, bốn
châu lục, đặt chân đến gần 30 nước, Người trở thành một trong những nhà
hoạt động chính trị đi nhiều nhất, có vốn hiểu biết phong phú nhất về thực tế
các thuộc địa cũng như các nước tư bản đế quốc chủ yếu trong nửa đầu của
thế kỷ XX. Qua đó, Người đã nhận thấy, chủ nghĩa đế quốc một mặt thẳng tay
đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân lao động, mặt khác chúng thực hiện
chính sách đầu độc về văn hóa, tuyên truyền lối sống thực dụng, đề cao chủ
nghĩa cá nhân, áp đặt các giá trị đạo đức tư sản vào các nước thuộc địa. Vì
vậy, theo Hồ Chí Minh, cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa không chỉ
nhằm mục tiêu độc lập dân tộc, mà còn để bảo vệ và phát triển những giá trị
văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.
Từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập vào các nước thuộc địa đã làm
cho cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc càng gắn bó mật thiết với nhau
hơn, quyền tự quyết của các dân tộc được coi trọng và đề cao. Trong cuộc đấu
11



tranh đó, các quan điểm về cái gọi “khai hố văn minh” của chủ nghĩa thực dân
ở các nước thuộc địa lần lượt bị vạch mặt, lên án; mục tiêu, lý tưởng cách mạng,
niềm tin vào đạo đức cộng sản của quần chúng nhân dân lao động không ngừng
được nhận thức đúng đắn, mở rộng và phát triển trên phạm vi thế giới.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và những thành tựu
to lớn trong công cuộc cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước của
V.I.Lênin, nhất là trên lĩnh vực phát triển kinh tế, văn hoá, xây dựng đạo đức, lối
sống mới đã tác động mạnh mẽ và chiếm được tình cảm của đông đảo quần
chúng nhân dân lao động trên thế giới. Thực tế đó đã được Hồ Chí Minh nhận
thức, tiếp thu một cách sáng tạo và trở thành một động lực quan trọng để hình
thành nên tư tưởng của Người về đạo đức.
1.1.2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
a) Bản chất, đặc trưng, vai trò của đạo đức cách mạng
* Bản chất của đạo đức cách mạng
Đạo đức cách mạng là đạo đức mới, vì nó ra đời, gắn liền với sự nghiệp đấu
tranh cách mạng và phục vụ chế độ xã hội mới, nền văn hóa và con người mới xã
hội chủ nghĩa. Như Hồ Chí Minh khẳng định: “Đạo đức đó khơng phải là đạo đức
thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó khơng phải vì danh vọng của cá
nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” 1. Theo Người,
nền đạo đức mới mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời phản ánh sâu sắc
tính nhân dân, tính dân tộc và khác về chất so với đạo đức cũ - đạo đức của các
giai cấp thống trị, bóc lột. Người viết: “Có người cho đạo đức cũ và đạo đức mới
khơng có gì khác nhau. Nói như vậy là lầm to. Đạo đức cũ và đạo đức mới khác
nhau nhiều. Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo
đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”2.
Sự khác nhau về chất giữa đạo đức mới với đạo đức cũ là ở chỗ: đạo đức cũ
do giai cấp thống trị ở địa vị “ông chủ” đặt ra và bắt các thần dân, những người ở
địa vị đầy tớ thực hiện. Trái lại, đạo đức mới là đạo đức theo hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân - giai cấp tiến bộ, cách mạng, đại diện cho lợi ích của toàn thể

nhân dân lao động và cả dân tộc. Mặt khác, nếu như đạo đức cũ nhằm ru ngủ con
người, làm cho con người an phận trước thực tại, chịu đựng trước số mệnh, trước
chúa. Ngược lại, đạo đức mới của Hồ Chí Minh là một cuộc cách mạng trên lĩnh
vực đạo đức, nhằm khơi dậy, phát huy tiềm năng, sức mạnh của con người, vì sự
nghiệp giải phóng con người. Nếu như đạo đức cũ là công cụ, phương tiện phục
vụ mục đích của giai cấp thống trị để nơ dịch nhân dân, là phương tiện để trói
buộc, đày đọa con người; trong khi đó đạo đức mới nhằm đem lại tự do, hạnh
1
2

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 5, tr.292.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 7, tr.220.

12


phúc và sự hồn thiện con người; là mục đích của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, chứ khơng phải là phương tiện.
Nói cách khác, đạo đức cách mạng phục vụ sự nghiệp giải phóng dân
tộc, giai cấp và con người, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. V.I.Lênin đã
từng nhấn mạnh: Cái gì phục vụ cho sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản, cái
ấy là đạo đức. Kế thừa tư tưởng đó, Hồ Chí Minh viết: “Nói tóm tắt, thì đạo
đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng...
Hết lịng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình,
gương mẫu trong mọi việc”1.
* Đặc trưng của đạo đức cách mạng
Thứ nhất, đạo đức thống nhất với chính trị và phục vụ sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đạo đức trong
xã hội cũ về cơ bản đều bị giai cấp thống trị lợi dụng để nơ dịch hoặc trói buộc,
bóc lột con người. Do đó, giữa lý tưởng đạo đức và thực tiễn chính trị xa nhau,

thậm chí đối lập nhau. Trái lại, đạo đức cách mạng là để phục vụ sự nghiệp chính
trị cao cả - giải phóng dân tộc, giai cấp và con người. Sự nghiệp chính trị đó
khơng những chứa đựng và thấm nhuần tư tưởng đạo đức cao đẹp, mà chính
những tư tưởng chính trị đó cũng là đạo đức của người cách mạng. Trong tác
phẩm “Đạo đức cách mạng” (1958) Người đã viết: “Chúng ta, tất cả đảng viên,
đoàn viên, tất cả cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng cần phải quyết tâm suốt đời
phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của người cách mạng,
đó là đạo đức cách mạng”2.
Với bản thân Hồ Chí Minh, từ khi tiếp nhận được ánh sáng cách mạng của
thời đại mới là chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã khẳng định một cách nhất quán con
đường cách mạng của dân tộc Việt Nam là con đường cách mạng vơ sản. Cũng từ đó
Người cống hiến tồn bộ trí lực cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc vì mục tiêu, lý
tưởng chính trị là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, là
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là nhằm phục vụ lý
tưởng chính trị cao cả nói trên và tư tưởng chính trị của Người lại luôn thấm
nhuần và quán triệt tư tưởng đạo đức cách mạng.
Thứ hai, đạo đức thống nhất với và pháp luật. Mặc dù khẳng định vai trò to
lớn của đạo đức, nhưng Hồ Chí Minh chưa bao giờ tuyệt đối hóa đạo đức, coi đạo
đức là phương tiện duy nhất để quản lý và phát triển xã hội. Trái lại, Người còn đặc
biệt chú trọng đến vai trò của pháp luật, đến mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật
1
2

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 11, tr. 603.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 11, tr. 611.

13



và xem pháp luật là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng đạo đức xã hội văn minh,
tiến bộ. Tức là, đạo đức và pháp luật luôn thống nhất hữu cơ với nhau trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, bản thân đạo đức và pháp luật vừa có ưu điểm, vừa có
những hạn chế nhất định; do đó, cần có một sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa đạo
đức và pháp luật nhằm tạo ra một sự “đồng thanh, cộng hưởng” giữa hai yếu tố
này trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hồ Chí Minh cịn cho rằng, đạo đức
ln cần đến pháp luật để được truyền bá một cách rộng rãi, phổ biến trong toàn
xã hội, đạo đức cần pháp luật như là một biện pháp bảo đảm, bảo vệ cho nó được
thực hiện đầy đủ, triệt để trong cuộc sống. Bởi lẽ, nếu chỉ đơn thuần giáo dục đạo
đức thì khơng thể ngăn ngừa, phòng chống và giải quyết được các tệ nạn xã hội;
nếu khơng kết hợp với tính nghiêm minh, khoa học của pháp luật thì giáo dục đạo
đức sẽ trở thành vơ nghĩa. Vì thế, Người u cầu: “Pháp luật phải thẳng tay trừng
trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”1.
Có thể nói, phát hiện ra sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật để kết hợp
chúng với nhau trong xử lý các vấn đề của đời sống xã hội, trong quản lý xã hội
và phát triển đất nước là một nét tinh tế, đặc sắc, đồng thời trở thành một nghệ
thuật độc đáo ở Hồ Chí Minh. Thiên tài của Người không chỉ biểu hiện ở việc đề
cao vai trò của đạo đức, coi đạo đức là gốc của người cách mạng, đề ra một hệ
thống những chuẩn mực đạo đức làm nền tảng cho sự nghiệp cách mạng ở nước
ta, mà còn ở việc, Người đã xây dựng nên một hệ thống quan điểm pháp luật
tiến bộ, phù hợp với quan điểm đạo đức mới.
Thứ ba, đạo đức thống nhất với tài năng, đức là gốc của tài, tài là sự thể
hiện của đức trong hiệu quả hành động. Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn
thân, đạo đức trong hành động, mà đã là hành động thì phải chú trọng đến
hiệu quả. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao
nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình.
Hãy kiên quyết chống bệnh nói sng, thói phơ trương hình thức, lối làm việc
khơng nhằm mục đích nâng cao sản xuất” 2. Và theo Người, hiệu quả gắn liền
với tài năng. Tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ II (ngày 07/5/1958), Hồ

Chí Minh căn dặn: “Có tài mà khơng có đức ví như một anh làm kinh tế tài
chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những khơng làm được gì ích
lợi cho xã hội, mà cịn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà khơng có tài ví như
ơng Bụt khơng làm hại gì, nhưng cũng khơng lợi gì cho lồi người”3.
1
2
3

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 6, tr.127.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 13, tr.68.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 11, tr.399.

14


Như vậy, ở đạo đức cách mạng, đức và tài thống nhất làm một, phẩm chất
và năng lực làm một, hồng và chuyên làm một. Trong tài có đức, trong đức có
tài, tài càng cao đức càng phải lớn. Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh, trong sự thống
nhất và mối quan hệ giữa đức và tài, vị trí, vai trị của chúng không ngang bằng
nhau. Xét đến cùng, đức là gốc của tài. Tài là sự thể hiện của đức trong hiệu quả
hành động. Theo Người, đức là cái cơ bản, cái có trước nhưng khơng thể khơng có
tài. Người cho rằng: “Phải có chính trị trước rồi có chun mơn, chính trị là đức,
chun mơn là tài. Có tài mà khơng có đức là hỏng,... Đức phải có có tài”1.
Thứ tư, ý thức đạo đức thống nhất với hành vi đạo đức, giáo dục đạo đức
gắn liền với thực hành đạo đức. Đối với đạo đức cũ, giai cấp thống trị chỉ nói mà
khơng làm, họ đề ra đạo đức để trói buộc con người nhưng bản thân họ lại khơng
thi hành. Nói chuyện tại Trường Chính trị trung cấp quân đội (25/10/1951), Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính,
nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền
lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm

gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”2.
Đối với đạo đức mới, giữa nói và làm phải thống nhất với nhau đây là
một nguyên tắc. Hồ Chí Minh nói nhiều đến đạo đức cách mạng, nêu ra
những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức nói chung cho những người cách mạng
cũng như cho các đối tượng khác nhau và trên mọi lĩnh vực. Tuy nhiên,
Người thực hành đạo đức cịn nhiều hơn những điều mình nói, hoặc chỉ lặng
lẽ, kiên trì nêu gương và hành động là chủ yếu. Trong cuộc mít tinh của nhân
dân Hà Nội để tiễn Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp, (ngày 30/5/1946)
Người đã nói: “Cả đời tơi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ
quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non,
hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó” 3.
Thứ năm, đạo đức cách mạng thống nhất với đạo đức đời thường. Đạo đức
cách mạng được hiểu là những hành vi đạo đức thực hiện những nhiệm vụ cách
mạng lớn lao, cao cả, như đấu tranh giành độc lập tự do và xây dựng chủ nghĩa
xã hội; là những hành động, dũng khí trước máy chém và địn roi tra tấn của kẻ
thù, v.v.. Còn đạo đức đời thường là những hành vi đạo đức trong cuộc sống
hàng ngày, trong lao động, học tập, sinh hoạt, ứng xử với mọi người xung
quanh,... Sự vĩ đại của Hồ Chí Minh được nhân dân trong nước và thế giới ca
ngợi không chỉ vì việc lớn mà ngay cả từ những việc nhỏ, những việc nhỏ nhưng
1
2
3

Hồ Chí Minh, Về vấn đề giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1990, tr.188.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 7, tr.220.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 4, tr.272.

15



vô cùng vĩ đại, một con người vĩ đại từ những việc bình thường. Nói cách khác,
ở Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng thống nhất hữu cơ với đạo đức đời thường.
Đây cũng là một điểm khác cơ bản giữ đạo đức cũ và đạo đức mới. Đạo đức cũ
chỉ mới chú ý giữ gìn đạo đức một cách bề ngồi, hình thức, chưa chú trọng đến
giữ gìn đạo đức trong sinh hoạt đời thường.
Hồ Chí Minh khơng phải là một ơng thánh, Người cũng là một con người
bình thường như bao người khác, song do Người không ngừng hoàn thiện bản
thân theo lý tưởng chân, thiện, mỹ. Người gương mẫu từ việc nhỏ đến việc lớn,
bảo đảm sự nhất quán giữa việc công và việc tư, giữa vĩ nhân và người bình
thường, giữa đạo đức cách mạng và đạo đức thường nhật. Cuộc đời Hồ Chí
Minh chỉ ra cho chúng ta bài học là: Người ta không thể là nhà cách mạng trong
những việc lớn mà lại thiếu sót trong những việc nhỏ. Điều đó đã làm cho Hồ
Chí Minh trở thành một nhà đạo đức chân chính.
* Vai trò của đạo đức cách mạng
Thứ nhất, đạo đức là “gốc”, nền tảng của người cách mạng. Sinh thời, Hồ
Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trị của đạo đức cách mạng và không ngừng chăm
lo giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho con người nói chung, cán bộ, đảng
viên nói riêng. Trong đó, đối với người cách mạng, đạo đức được Hồ Chí Minh ví
như “mạch nguồn của dịng sơng”, “gốc rễ của cây cối”. Người nói: “Cũng như
sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc,
khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân”1.
Mặt khác, theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không chỉ là nền tảng,
gốc rễ, mà còn là chỗ dựa vững chắc đối với người cách mạng, nhất là những lúc
gặp khó khăn, thử thách. Bởi lẽ, đạo đức cách mạng giúp cho người cán bộ,
đảng viên luôn giữ được nhân cách, bản lĩnh trong mọi hồn cảnh, khơng dễ bị
thay đổi trước những xoay vần, biến thiên của thời cuộc. Người viết “Có đạo
đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt
rè, lùi bước,.v.v. khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần
gian khổ, chất phác, khiêm tốn”2.

Hơn nữa, sự nghiệp cách mạng lại là một cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp,
gian khổ do vậy đòi hỏi người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới có thể
hồn thành. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành
xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng
nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được
1
2

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 5, tr.292.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 11, tr.601 - 602.

16


nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng,
mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”1.
Thứ hai, đạo đức là tiêu chuẩn hàng đầu của người cán bộ, đảng viên, đặc
biệt trong điều kiện đảng cầm quyền. Cách mạng là sự nghiệp lớn lao địi hỏi phải
đồn kết, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, mà với nhân dân, niềm tin
về chính trị gắn liền với niềm tin vào đạo đức của người lãnh đạo. Điều này lịch
sử dân tộc ta đã chứng minh, để tập hợp được nhân dân chống ngoại xâm hay
chống chế độ phong kiến hà khắc đều là những người có uy tín đạo đức rất cao.
Ngược lại bọn vua chúa vô đạo sớm muộn cũng bị lật đổ. Có lẽ vì thế, ngay sau
khi lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền năm 1945, Đảng ta trở thành Đảng
cầm quyền, Hồ Chí Minh đã đặt lên hàng đầu việc giáo dục đạo đức cho cán bộ,
đảng viên. Người nói: “Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi
người là một cơng việc to tát, mà tự mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự
mình đã hủ hố, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì?”2.
Đặc biệt, với trí tuệ sáng suốt, tư duy khoa học và tầm nhìn chiến lược cùng
với sự mẫn cảm chính trị sâu sắc, Hồ Chí Minh đã tiên lượng, sớm chỉ ra và

cảnh báo nguy cơ căn bệnh của những người có chức, có quyền. Trong đó,
phổ biến là căn bệnh” lạm quyền, lộng quyền, nhất là trong điều kiện Đảng
cầm quyền. Bởi họ nắm trong tay “chìa khóa” của quyền lực, lại phải thường
xuyên đối mặt với cạm bẫy và cám dỗ về lợi ích vật chất,… Người cho rằng,
nguy cơ đó sẽ ngày càng tăng nếu mỗi cán bộ, đảng viên xem thường việc tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức của bản thân. Vì vậy, Người ln u cầu cán bộ,
đảng viên phải lấy việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Không lâu
trước khi qua đời Người đã cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con
người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, khơng nhất định hôm nay
và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng trong
sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”3.
Thứ ba, đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội không chỉ ở
mức sống vật chất cao mà còn ở giá trị đạo đức của nó và ở phẩm chất đạo đức của
những người cộng sản. Trong đó trước hết, cụ thể và trực tiếp là ở đạo đức của
những người cộng sản ưu tú đang chiến đấu cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa trở
1
2
3

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 11, tr.601.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 5, tr.292 - 293.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 15, tr.672.

17


thành hiện thực. Người đã viết: “Phong trào cộng sản quốc tế đã trở thành lực
lượng quyết định vận mệnh của lồi người khơng những chỉ nhờ có chiến lược và
sách lược thiên tài của Lênin về cách mạng vô sản, về xây dựng chủ nghĩa xã hội

và chủ nghĩa cộng sản, mà còn nhờ những phẩm chất đạo đức cao cả, những phẩm
chất làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành sức mạnh vô địch và những người cộng
sản trở thành những người có tư chất đặc biệt”1.
b) Các chuẩn mực đạo đức cách mạng
Lý luận đạo đức mácxít đã chỉ rõ, khơng có đạo đức vĩnh hằng cho nên
cũng khơng có chuẩn mực đạo đức bất biến, vĩnh viễn. Thấm nhuần lý luận đó,
tùy theo yêu cầu của mỗi giai đoạn cách mạng, tùy theo đặc điểm tâm lý lứa
tuổi, nghề nghiệp, .v.v, mà Hồ Chí Minh khái quát nên những chuẩn mực khác
nhau phù hợp với từng đối tượng. Mỗi người Việt Nam yêu nước đều có thể tìm
thấy trong lời dạy của Người những chuẩn mực đạo đức cần tu dưỡng, rèn luyện
để vươn tới cái thiện, cái tận thiện của cuộc sống. Song, tựu chung lại, có một số
chuẩn mực đạo đức được Hồ Chí Minh nhắc đi nhắc lại nhiều lần như là những
yêu cầu mà bất cứ người Việt Nam nào cũng cần có, đó là:
* Trung với nước, hiếu với dân
Đây là chuẩn mực đạo đức cơ bản, bao trùm và quan trọng nhất của người
cách mạng, nhằm giải quyết mối quan hệ của mỗi người đối với đất nước, nhân
dân, cách mạng, với Đảng.
Trung, Hiếu là những khái niệm, phạm trù cơ bản, những phẩm chất hàng
đầu trong hệ thống phẩm chất đạo đức Nho giáo du nhập vào nước ta đã lâu, và
được nhân dân ta tiếp nhận, cải biến cho phù hợp với yêu cầu đạo đức truyền
thống của dân tộc; phản ánh và thể hiện những mối quan hệ rường cột, chủ yếu
nhất của xã hội phong kiến. Đồng thời, nó đã xác lập và phát huy vai trị to lớn
trong việc duy trì trật tự, kỷ cương xã hội, đặt nền tảng cho sự tồn vong của chế
độ phong kiến phương Đơng nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Những phẩm
chất và phạm trù đạo đức đó được Hồ Chí Minh lĩnh hội, kế thừa, phát triển và
nâng lên tầm cao mới; đặc biệt, nó được Người vận dụng một cách linh hoạt,
sáng tạo ở mỗi một đối tượng cụ thể.
Phạm trù Trung, Hiếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã chuyển từ sự phản ánh
các mối quan hệ xã hội có ý nghĩa hạn hẹp giữa cá nhân với cá nhân (vua - tôi, cha
mẹ - con cái), sang sự phản ánh mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, chứa đựng

1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 12, tr.559.

18


trong đó giá trị nhân văn cao cả, ý nghĩa xã hội rộng lớn và nội dung chính trị - đạo
đức sâu sắc. Trong đó, Trung với nước là trung thành với với mục tiêu, lý tưởng
độc lập dân tộc gắn liền gắn liền với chủ nghĩa xã hội, với lợi ích của quốc gia - dân
tộc, với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng, với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, theo Hồ Chí Minh, “Trung với
nước” cịn là “Trung với Đảng”. Người nhấn mạnh: “Đạo đức cách mạng là tuyệt
đối trung thành với Đảng, với nhân dân”1.
Hồ Chí Minh cịn cho rằng, “Trung với nước” bao giờ cũng phải đi liền và
gắn chặt “Hiếu với dân”, giữa chúng khơng tách rời nhau mà ln gắn bó chặt chẽ
với nhau, là tiền đề, điều kiện của nhau; chỉ có trung với nước mới có thể hiếu
với dân và ngược lại. Hiếu với dân theo Hồ Chí Minh khơng phải chỉ hiếu với
cha mẹ mình, mà “Chữ hiếu, cũng phải hiểu một cách rộng” 2, đó là hiếu với
nhân dân, với toàn dân tộc. Người nhấn mạnh: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ
trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới.
Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào”3.
Như vậy, khái niệm Trung, Hiếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã mang ý
nghĩa, giá trị đạo đức mới, đã có sự chuyển hóa từ đạo đức “tu thân” sang đạo
đức cách mạng, khẳng định thái độ trách nhiệm chính trị, nghĩa vụ đạo đức của
mỗi cơng dân đối với đất nước, với hạnh phúc của nhân dân.
Trung với nước, Hiếu với dân theo Tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện
trong mọi công việc cách mạng của Đảng, trong từng suy nghĩ và việc làm cụ thể
của mỗi người dân, nhất là với mỗi cán bộ, đảng viên. Dù mục tiêu, nhiệm vụ của
mỗi thời kỳ cách mạng có khác nhau, nhưng u cầu về trung, hiếu ln nhất quán

và là tiêu chí chung cho mọi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân ta học tập
và rèn luyện. Đó là tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng tự hào về truyền thống vẻ
vang của dân tộc; là bổn phận, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người dân đối với
cộng đồng, với sự nghiệp cách mạng của Đảng, với sự tồn vong của dân tộc và sự
phát triển của đất nước; là ý chí và nghị lực không ngừng phấn đấu vươn lên, nỗ
lực vượt mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàng cống hiến và hy sinh vì mục tiêu, lý
tưởng cách mạng; là sự tin yêu, kính trọng nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của
dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, v.v..
* u thương con người
1
2
3

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 11, tr.604.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 8, tr.100.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 4, tr.170.

19


Đây là chuẩn mực đạo đức giải quyết mối quan hệ của mỗi người đối với người
khác. Yêu thương con người của Hồ Chí Minh khơng phải là lịng thương hại của
“bề trên”, cũng khơng phải là sự động lịng trắc ẩn của người “đứng ngoài” mà là sự
đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ. Hơn thế nữa, đó cịn là con người mang
tính dân tộc, tính giai cấp và tính nhân loại, mang bản chất của giai cấp công nhân,
gắn liền với tinh thần quốc tế vô sản, có phạm vi rộng lớn, bao quát hết thảy mọi
người, trừ bọn thực dân, đế quốc và những kẻ áp bức, bóc lột.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, u thương con người trước hết là bảo đảm
các quyền tự nhiên của con người và không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của con người, từng bước làm cho con người được hưởng thụ đầy đủ

các giá trị do chính họ tạo ra. Đó là sự tơn trọng con người, coi con người là vốn
quý nhất, luôn đứng ở trung tâm của sự phát triển, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của cách mạng.
Mặt khác, theo Hồ Chí Minh phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người,
hướng con người đến chân, thiện, mỹ; phải quan tâm, chăm lo giáo dục để con người
hướng tới chân lý, có hiểu biết, có tri thức, có khả năng làm chủ bản thân, làm chủ tự
nhiên và làm chủ xã hội; thông qua giáo dục để con người trở nên lương thiện, có
đạo đức, biết yêu thương đồng loại, biết sống vì mọi người.
* Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vô tư
Đây là chuẩn mực đạo đức gắn với hoạt động hằng ngày của từng người,
giải quyết mối quan hệ của mỗi người với “tự mình”. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã đề
cập đến chuẩn mực này nhiều nhất, thường xuyên nhất, ngay từ tác phẩm Đường
cách mệnh (1927) cho đến bản Di chúc cuối cùng.
Hồ Chí Minh đã sử dụng những khái niệm cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng
vơ tư của đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam. Người đã
giữ lại những gì tốt đẹp của q khứ, lọc bỏ những gì khơng cịn phù hợp và đưa
vào những nội dung mới do sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước
và xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra. Mỗi chữ cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng
vơ tư đã được Người giải thích rất rõ, rất cụ thể, rất dễ hiểu đối với mọi người.
Cần: Là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai, làm việc có kế hoạch, sáng
tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, khơng lười biếng,
khơng ỉ lại, khơng dựa dẫm. Hồ Chí Minh căn dặn: “Người siêng năng thì mau
tiến bộ. Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no. Cả làng siêng năng thì làng phồn
thịnh. Cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu”1.
Kiệm: Là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của
1

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 6, tr.118.

20



nhân dân, của đất nước, của bản thân.; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, kiệm là
“không xa xỉ, khơng lãng phí, khơng bừa bãi”, khơng phơ trương hình thức,
khơng liên hoan chè chén lu bù. Cần với kiệm, phải đi liền với nhau như hai chân
của con người. Hồ Chí Minh nêu rõ: “CẦN mà khơng KIỆM, “thì làm chừng nào
xào chừng ấy”. Cũng như một cái thùng khơng có đáy; nước đổ vào chừng nào,
chảy ra hết chừng ấy, khơng lại hồn khơng. KIỆM mà khơng CẦN, thì khơng
tăng thêm, khơng phát triển được. Mà vật gì đã khơng tiến tức phải thối. Cũng
như cái thùng chỉ đựng một ít nước, khơng tiếp tục đổ thêm vào, lâu ngày chắc
nước đó sẽ hao bớt dần, cho đến khi khô kiệt”1.
Liêm: Là luôn luôn tôn trọng giữ gìn của cơng và của dân, khơng xâm
phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân. Phải trong sạch,
không tham lam. Chữ Liêm phải đi đôi với chữ kiệm cũng như chữ kiệm phải đi
đôi với chữ cần. Vì xa xỉ mà sinh ra tham lam. Chữ Liêm theo Hồ Chí Minh có
nghĩa rộng hơn, vì dưới chế độ phong kiến, những quan lại không đục khoét của
dân thì gọi là Liêm. Ngày nay, chữ Liêm có nghĩa rộng hơn tức là mọi người đều
phải Liêm. Người trong công sở phải lấy chữ Liêm làm đầu. Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Do BẤT LIÊM mà đi đến tội ác trộm cắp. Cơng khai hay bí mật, trực tiếp
hay gián tiếp, bất liêm tức là trộm cắp. Cụ Khổng Tử nói: “Người mà khơng
Liêm, khơng bằng súc vật”2
Chính: Nghĩa là khơng tà, là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng
đắn, thẳng thắn tức là tà. Cần, Kiệm, Liêm là gốc của Chính.
Theo Hồ Chí Minh, trên thế giới có nhiều người, nhiều việc, song chỉ có
hai hạng người là Thiện và Ác và hai loại việc là Chính và Tà. Người quan
niệm: “Làm việc CHÍNH, là người THIỆN. Làm việc TÀ, là người ÁC. Siêng
năng (cần), tần tiện (kiệm), trong sạch (liêm), CHÍNH là THIỆN. Lười biếng,
xa xỉ, tham lam, là tà, là ác” 3. Đối với mình, khơng tự cao, tự đại, ln chịu
khó học tập, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi
điều dở của bản thân mình. Đối với người, khơng nịnh hót người trên, khơng

xem khinh người dưới; ln giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đồn kết, thật
thà; khơng dối trá, lừa lọc. Đối với việc, thì để việc công lên trên, lên trước
việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi
đến chốn, khơng sợ khó khăn, nguy hiểm; việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng
làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh.
Chí cơng vơ tư: Là cơng minh, chính trực, cơng bằng, cơng tâm và khơng
1
2
3

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 6, tr.122.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 6, tr.127.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 6, tr.129.

21


thiên tư, thiên vị; làm việc gì cũng khơng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng,
vì dân tộc. Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ
thì mình nên đi sau. Chí cơng vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa
cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là đồng minh của đế quốc; là một thứ vi trùng rất độc.
Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè
phái, chủ quan, tham ô, lãng phí, tham danh, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, coi
thường tập thể, tự cao tự đại, độc đốn chun quyền. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ
nghĩa xã hội không thể thắng lợi nếu không loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
Theo Hồ Chí Minh, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, có quan hệ chặt
chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người thực
hành trước để làm gương cho nhân dân noi theo. Người cho rằng, những người
trong công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu khơng giữ đúng cần, kiệm,
liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của nhân dân.

Đối với một quốc gia, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo sự giàu có về vật
chất, vững mạnh về tinh thần, thể hiện sự văn minh tiến bộ. Cần, kiệm, liêm,
chính là nền tảng của đời sống mới, của phong trào thi đua yêu nước.
* Tinh thần quốc tế trong sáng
Đây là chuẩn mực đạo đức giải quyết mối quan hệ quốc tế. Đó là tinh thần
đồn kết quốc tế vơ sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu thành mệnh đề “bốn phương vơ
sản đều là anh em” và tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”.
Đó là tinh thần đồn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động
các nước mà Hồ Chí Minh đã dày cơng vun đắp bằng thực tiễn hoạt động cách
mạng của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.
Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến
bộ trên thế giới vì hịa bình, cơng lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết ấy là nhằm
mục tiêu lớn của thời đại là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội,
là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các
nước, các dân tộc.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những chuẩn mực đạo đức cơ bản của người cách
mạng nói riêng và của con người mới Việt Nam nói chung. Những chuẩn mực
đạo đức trên đây là một thể thống nhất trong nhân cách của con người mới, của
cán bộ, đảng viên.
c) Các nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
* Nói đi đơi với làm, nêu gương về đạo đức

22


Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln
quan tâm đến vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng đạo đức. Người đã nêu ra vị trí, vai
trị, bản chất, hệ thống các chuẩn mực và phạm trù đạo đức mới, cùng với đó là các
nguyên tắc, phương pháp xây dựng đạo đức cách mạng một cách thiết thực và hiệu
quả. Trong số các nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng được sử dụng, Hồ Chí

Minh đặc biệt coi trọng ngun tắc “nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức”.
Trong quá trình xây dựng, giáo dục con người mới xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí
Minh rất đề cao nêu gương “người tốt, việc tốt”, “người thực, việc thực”. Người
nhấn mạnh “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một
trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng,
xây dựng con người mới, cuộc sống mới”1.
Từ xưa, ở phương Đông và Việt Nam đều coi trọng phương thức “Dĩ nhân
nhi giáo, dĩ ngôn nhi giáo” (nghĩa là, trước hết phải giáo dục bằng tấm gương
sống của mình, sau đó mới giáo dục bằng lời nói). Phương thức độc đáo đó đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển và nâng lên tầm cao mới đồng thời
vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong xây dựng, giáo dục đạo đức cho các tầng lớp
nhân dân, nhất là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người thường nhắc nhở:
“Một tấm gương sống cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”2.
Hồ Chí Minh quan niệm, giáo dục đạo đức là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân,
của tất cả mọi người. Trong xã hội ta ai cũng là chủ thể đồng thời là đối tượng của giáo
dục đạo đức. Do vậy, ai cũng có thể và cần phải luôn nêu gương sáng về đạo đức. Và
theo Người, nêu gương thì trước hết phải làm gương trong mọi công việc từ nhỏ đến
lớn; trong lối sống và cách ứng xử; trong lời nói việc làm, nói phải đi đơi với làm, nói
ít làm nhiều. Mặt khác, để phát huy vai trò của phương pháp nêu gương về đạo đức
trong giáo dục đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh đã phát động phong trào “người tốt,
việc tốt” nhằm giúp cho mỗi người tự nhận thấy mình có thể noi theo gương người tốt
và làm được việc tốt để trở thành người có ích, thành tấm gương cho cộng đồng và
qua đó đã tạo ra một phong trào thi đua sơi nổi, rộng khắp trong tồn xã hội.
* Xây đi đơi với chống, lấy xây làm chính
Thực tế cuộc sống ln ln tồn tại các mặt đối lập, theo đó, đã là con người,
ai cũng có tính tốt, xấu, thiện, ác ở trong mình. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong mình
có hai phe: một phe thiện và một phe ác. Hai phe cùng đấu tranh với nhau”3. Vì thế,
muốn cho cái tốt, cái tiến bộ phát triển phải kết hợp chặt chẽ với ngăn ngừa, phịng,
1
2

3

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 15, tr.672.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 1, tr.284.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 8, tr.98.

23


chống những cái xấu xa, tiêu cực, lạc hậu.
Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục
những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới; biểu dương những tấm gương
đạo đức cao đẹp nảy sinh từ phong trào quần chúng, từ đó khơi dậy ý thức đạo đức
lành mạnh để mọi người tự rèn luyện, tự bồi dưỡng để không ngừng tiến bộ. Việc giáo
dục đạo đức mới phải được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng; phù hợp
với từng lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác nhau;
phải khơi dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi người. Như Hồ Chí Minh đã nói:
“Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong
mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi”1.
Đấu tranh chống đạo đức thủ cựu, vô cảm về đạo đức là phê phán, lên án, loại
bỏ cái sai, cái xấu, cái vô đạo đức thường xuyên diễn ra trong cuộc sống và công tác
hàng ngày. Hồ Chí Minh cho rằng, trên con đường đi tới tiến bộ và cách mạng, đạo
đức mới chỉ có thể được xây dựng thành cơng trên cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ
nghĩa đế quốc, chống những thói quen và truyền thống lạc hậu, loại trừ chủ nghĩa cá
nhân. Đây thực sự là “một cuộc chiến đấu khổng lồ” giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu,
giữa cách mạng và phản cách mạng. Để giành được thắng lợi trong cuộc chiến đấu
này, điều quan trọng là phải phát hiện sớm, phải tuyên truyền, vận động thành phong
trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh, trong sáng về đạo đức.
“Xây” và “chống” đi liền với nhau. Trong mối quan hệ giữa xây và chống cần
nhận thức chống cũng nhằm xây nhưng, xây là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài, để kiến

tạo một nền đạo đức mới, xây dựng một xã hội mới với những con người có đạo đức.
* Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức suốt đời
Đạo đức cách mạng không phải tự nhiên mà có, càng khơng phải do ai ban
phát, càng khơng thể vay mượn người khác, mà đó là kết quả của q trình tự tu
dưỡng, rèn luyện thường xun, khơng lúc nào sao nhãng của bản thân mỗi người.
Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động vì độc lập tự
do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động, đạo đức cách
mạng mới bộc lộ rõ những giá trị của mình. Do vậy, đạo đức cách mạng địi hỏi
mỗi người phải tự giác tu dưỡng rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn, trong
công việc, trong các mối quan hệ của mình, phải nhìn thẳng vào mình, khơng tự
lừa dối, huyễn hoặc; phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện của mình để phát huy
và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái chưa tốt của mình để khắc phục; phải kiên trì rèn
luyện, tu dưỡng suốt đời như cơng việc rửa mặt hàng ngày. Như Hồ Chí Minh
từng nhấn mạnh: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu
1

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 15, tr.672.

24


tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng
mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”1.
1.2. GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ VẬN
DỤNG TRONG BỒI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI CHÍNH ỦY TRUNG,
SƯ ĐỒN HIỆN NAY

1.2.1. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
a) Giá trị lý luận
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đã góp phần làm sâu sắc,

phong phú các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.
Thực tiễn đã chứng minh, trong quá trình dựng nước và giữ nước, ông cha
ta đã xây dựng nên một hệ giá trị đạo đức truyền thống cao đẹp. Đó là tinh thần
yêu nước, khát vọng về độc lập chủ quyền của dân tộc; về vai trò, sức mạnh của
nhân dân, của đạo lý, của chính nghĩa; về tinh thần khoan dung, đại lượng; về tình
đồn kết thủy chung, gắn kết cộng đồng, v.v., Những giá trị đó đã tạo nên sức
mạnh để dân tộc ta chiến thắng thiên tai, địch họa; để bảo tồn nòi giống và giữ
vững bản sắc văn hóa Việt Nam trước âm mưu xâm lược, đồng hóa của kẻ thù.
Mặc dù vậy, trong thời đại mới, những giá trị đạo đức truyền thống đã bộc lộ sự
hạn chế trước sự vận động, phát triển của lịch sử. Thực tế cho thấy, khi thực dân
Pháp xâm chiếm nước ta, biến nước ta thành một nước thuộc địa, nửa phong kiến,
nhân dân ta đã liên tục nổi dậy chống thực dân Pháp cứu nước nhưng các cuộc
khởi nghĩa đó đều thất bại. Khi đó, muốn đánh bại kẻ thù giành độc lập dân tộc và
đưa đất nước phát triển đúng quy luật khách quan và xu thế của lồi người thì
phải bổ sung và phát triển các giá trị đạo đức truyền thống lên một tầm cao mới,
nhằm phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân, kết hợp sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế để tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cách mạng.
Trước yêu cầu đó, trên cơ sở nắm bắt quy luật khách quan và xu thế thời
đại, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển các giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc lên một trình độ mới, với một chất mới, đáp ứng yêu cầu của lịch sử. Và
chính Người đã tạo nên một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa đạo đức của nhân loại mà đỉnh cao là đạo đức cộng sản của
chủ nghĩa Mác - Lênin, đáp ứng đòi hỏi xây dựng nền đạo đức mới Việt Nam
trong thời đại mới. Hồ Chí Minh sử dụng những khái niệm, những phạm trù đạo
đức đã từng quen thuộc với dân tộc Việt nam từ lâu đời, đưa vào đó những nội
dung mới, đồng thời bổ sung những khái niệm, những phạm trù đạo đức của thời
1

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 11, tr.612.


25


đại. Chính vì vậy những giá trị đạo đức mới đã hòa nhập với những giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc, làm cho mọi người Việt Nam đều cảm thấy gần
gũi, dễ nhớ, dễ thực hiện.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đã góp phần bổ sung vào kho tàng
lý luận đạo đức học Mác - Lênin những giá trị mới.
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã bổ sung vào lý luận đạo
đức mácxít nhiều quan điểm mới, có giá trị lý luận to lớn. Trước hết, Người
khẳng định vai trò và sức mạnh to lớn của đạo đức, coi đạo đức là gốc, là yếu tố
quyết định của người cách mạng. Người cho rằng, với người lãnh đạo “nếu
khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được ai”. Mặt khác,
Hồ Chí Minh đã đưa ra những chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với thời
đại mới, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, như là: trung với nước, hiếu với dân;
cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; u thương con người, sống có tình nghĩa;
có tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung.
Ngồi ra, Hồ Chí Minh đã nêu ra các nguyên tắc rèn luyện, xây dựng đạo đức mới
bảo đảm tính khoa học và phù hợp với đặc điểm tâm lý của người phương Đơng nói
chung, Việt Nam nói riêng, đó là: Tuyên truyền về đạo đức phải đi đôi với thực hành và
nêu gương về đạo đức; xây dựng đạo đức mới phải đi đôi với chống mọi hành vi vô đạo
đức; đạo đức khơng tự nhiên có được mà phải do rèn luyện bền bỉ, suốt đời.
Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam để Đảng ta lãnh đạo xây dựng nền đạo đức mới ở Việt Nam.
Những chuẩn mực đạo đức mà Hồ Chí Minh giáo dục cho các thanh niên
yêu nước trong quá trình chuẩn bị về tư tưởng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã tạo ra những hạt nhân nòng cốt của các tổ chức cộng sản đầu tiên.
Những thanh niên yêu nước đầu tiên với phẩm chất đạo đức cách mạng, sẵn sàng
hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, đã không ngại

gian khổ, hy sinh, đã dấn thân vào phong trào vơ sản hóa để truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam và dẫn
đến sự ra đời các tổ chức cộng sản đầu tiên và sau đó hợp nhất thành Đảng Cộng
sản Việt Nam vào ngày 03/02/1930. Cũng từ đó, trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta ln quan tâm xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Những quan điểm của Đảng về đạo đức cách
mạng và xây dựng nền đạo đức mới được thể hiện trong đường lối của Đảng ta từ
rất sớm và ngày nay vẫn đang được tiếp nối, trở thành một trong những yêu cầu
cấp bách của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
b) Giá trị thực tiễn

26


Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đã trở thành động lực quan
trọng góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đã làm thay đổi căn bản nhận thức và hành
vi của mỗi con người Việt Nam nói chung, mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng, tạo
thành sức mạnh to lớn trong sự nghiệp cách mạng. Chính tư tưởng của Người về
đạo đức đã góp phần quan trọng vào xây dựng phẩm chất chính trị, đạo đức cho
các thế hệ con người Việt Nam, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và kháng chiến chống thực dân đế quốc.
Các thế hệ cán bộ, đảng viên được Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
giáo dục, rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức đã thực sự là những con
người tiêu biểu về phẩm chất và năng lực, đáp ứng đòi hỏi sự phát triển của cách
mạng, được nhân dân mến phục, tin yêu. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
khơng chỉ có giá trị to lớn trong thực tiễn sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, kháng chiến chống thực dân đế quốc, mà còn nguyên giá trị to lớn đối với
sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trở thành cơ sở khoa học để cán

bộ, đảng viên và nhân dân tu dưỡng, rèn luyện, học tập, làm theo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đã góp phần nâng cao nhận thức
của mỗi người về chuẩn mực, nguyên tắc, cách thức ứng xử trong các mối
quan hệ với tự mình, với người và với việc. Tư tưởng đó cịn là mục tiêu
phấn đấu của mỗi cán bộ, đảng viên, là tiêu chí đánh giá nhân cách con
người mới xã hội chủ nghĩa, là phẩm chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” của
người quân nhân trong quân đội; là tiêu chuẩn để xây dựng gia đình văn hóa,
làng, xã văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng đời
sống văn hố ở các đơn vị trong tồn quân.
Trong điều kiện hiện nay, trước sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị
trường cùng với sự chống phá của các thế lực thù địch, tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức cịn là cơ sở để đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân, chống mọi
biểu hiện suy thối về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, và những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của một bộ phận cán bộ, đảng viên
nói chung, của người quân nhân trong quân đội ta nói riêng.
Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là một trong những động lực
cơ bản giúp mỗi quân nhân và Quân đội ta hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm
vụ được giao.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đã thực sự xuyên thấu, cảm hóa sâu sắc
đối với người quân nhân trong quân đội, giúp họ luôn chủ động khắc phục khó
khăn, vượt qua gian khổ, hy sinh để giành thắng lợi trong chiến đấu, lao động và

27


công tác. Như Người đã chỉ rõ: “Đại đa số chiến sĩ cách mạng là người có đạo
đức: Cả đời hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, sinh hoạt ngày thường thì làm
gương mẫu: gian khổ, chất phác, kính trọng của cơng, .v.v, Đạo đức ấy có ảnh
hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành xã hội mới và xây dựng mỹ tục
thuần phong”1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đã trở thành những nguyên

tắc, chuẩn mực, cách ứng xử của mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội; góp phần xây
dựng những người quân nhân cách mạng vừa “hồng” vừa “chuyên” - nhân tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
1.2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong bồi dưỡng đạo
đức của người chính ủy trung, sư đồn hiện nay
a) Sự cần thiết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong bồi
dưỡng đạo đức của người chính ủy trung, sư đoàn hiện nay
* Xuất phát từ giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức hiện nay
Điều kiện mới hiện nay so với thời Hồ Chí Minh sống và hoạt động đã thay
đổi rất nhiều. Yếu tố lớn nhất, bao trùm và chi phối là nhân loại đang sống trong
kỷ ngun tồn cầu hóa của một “thế giới phẳng”. Với tinh thần của Đại hội
XII: “Đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới, phát triển kinh tế
nhanh, bền vững, phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại” 2. Trong bối cảnh thế giới và trong nước như vậy, có
khơng ít ý kiến cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức khơng cịn giá trị.
Những loại ý kiến này thừa nhận tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đã tạo ra
sức mạnh và động lực to lớn cho sự nghiệp giành độc lập dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ bao cấp, khi mà toàn dân tộc tập trung tất cả
cho đánh đuổi thực dân, đế quốc xâm lược, phải đề cao lợi ích tập thể, kinh tế
tập thể,… Nhưng bây giờ, toàn Đảng, toàn dân đang tập trung cho dân giàu,
nước mạnh, cùng với đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh của các thành phần
kinh tế, của các loại lợi ích, trong đó có lợi ích cá nhân… thì tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức khơng cịn phù hợp nữa (!?).
Sự thật có phải như vậy khơng? Cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định: Thế
giới cịn đổi thay nhưng Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng của Người về
đạo đức nói riêng cịn sống mãi, cịn có giá trị sâu sắc và lâu bền. Do đó, việc học
tập và làm theo cũng như việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức hiện
nay vẫn rất quan trọng và cấp thiết, chẳng những đáp ứng yêu cầu cấp bách
trước mắt mà còn có ý nghĩa cơ bản, lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của
1


Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, tập 9, tr.508.
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn phịng Trung ương Đảng, Hà
Nội, 2016, tr. 20.
2

28


×