Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

(LUẬN văn THẠC sĩ) nghệ thuật chơi chữ của người việt dưới góc nhìn lôgíc học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------

VŨ THỊ CÚC

NGHỆ THUẬT CHƠI CHỮ CỦA NGƯỜI VIỆT
DƯỚI GĨC NHÌN LƠGÍC HỌC

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chun ngành: Triết học

Hà Nội 2014

1

TIEU LUAN MOI download :


ĐẠI HỌC QUỐC GIÁ HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

VŨ THỊ CÚC

NGHỆ THUẬT CHƠI CHỮ CỦA NGƯỜI VIỆT
DƯỚI GĨC NHÌN LƠGÍC HỌC

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60.22.80


Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm
Quỳnh

Hà Nội 2013

2

TIEU LUAN MOI download :


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu thực
sự của riêng cá nhân tơi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa
học của TS. Phạm Quỳnh.
Kết quả nghiên cứu trong Luận văn chưa từng được cơng bố
trong bất cứ cơng trình nghiên cứu của tác giả khác. Những điều
trích dẫn trong Luận văn là trung thực.

Tác giả luận văn

Vũ Thị Cúc

3

TIEU LUAN MOI download :


LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tâm của TS.
Phạm Quỳnh. Vì thế, tơi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và

sâu sắc tới Thầy.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Phịng sau đại học, cùng
các thầy cơ trong khoa Triết học trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG
Hà Nội đã tạo điều kiện để tơi có thể hồn thành tốt luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp cùng gia đình đã ln
đồng hành cùng tơi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!

Vũ Thị Cúc

4

TIEU LUAN MOI download :


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ THUẬT CHƠI CHỮ CỦA NGƯỜI
VIỆT ......................................................................................................................... 16
1.1.
1.1.1.

Các quan niệm về chơi chữ .............................................................................16
Quan niệm truyền thống .............................................................................. 16

1.1.2. Quan niệm về chơi chữ trong các giáo trình Phong cách học ....................... 17
1.1.3. Các quan niệm khác về chơi chữ .................................................................... 19
1.2.

Bản chất của chơi chữ .....................................................................................23


1.2.1. Chơi chữ là một hoạt động ngôn ngữ chuyên sử dụng quan hệ liên tưởng để
tạo nên những ý nghĩa bất ngờ.................................................................................. 23
1.2.2.

Quan hệ giữa âm và nghĩa trong chơi chữ .................................................. 26

1.3. Mối quan hệ ngơn ngữ - tư duy- lơgíc học.........................................................29
1.3.1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy ............................................................ 29
1.3.2. Mối quan hệ giữa tư duy và lơgíc học.............................................................37
1.3.3. Mối quan hệ giữa ngơn ngữ và lơgíc học ....................................................... 38
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 45
CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT NGHỆ THUẬT CHƠI CHỮ CỦA NGƯỜI VIỆT
TỪ CÁC HÌNH THỨC CƠ BẢN CỦA TƯ DUY TRONG LƠGÍC HỌC
TRUYỀN THỐNG .................................................................................................. 46
2.1. Khái qt về Lơgíc học truyền thống .................................................................46
2.2. Khảo sát nghệ thuật chơi chữ của người Việt từ các hình thức của tư duy .......48
2.2.1. Khảo sát nghệ thuật chơi chữ của người Việt từ hình thức tư duy khái niệm 48
2.2.2. Khảo sát nghệ thuật chơi chữ của người Việt từ hình thức tư duy phán đốn ...... 62
2.2.3. Khảo sát nghệ thuật chơi chữ của người Việt từ hình thức tư duy suy luận ....... 69
2.2.4. Khảo sát nghệ thuật chơi chữ của người Việt từ các quy luật của tư duy........... 74
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 79
CHƯƠNG 3: KHẢO SÁT NGHỆ THUẬT CHƠI CHỮ CỦA NGƯỜI VIỆT
TỪ GÓC NHÌN LƠGÍC TÌNH THÁI................................................................... 81
3.1. Tình thái với tư cách là đối tượng nghiên cứu của lơgíc học và ngơn ngữ học ........81
3.2. Khái niệm tình thái. Tình thái trong ngôn ngữ, tiếng Việt.................................87

5

TIEU LUAN MOI download :



3.2.1. Khái niệm “tình thái” ..................................................................................... 87
3.2.2. Phân biệt tình thái trong lơgíc và tình thái trong ngơn ngữ ........................... 91
3.2.3. Các kiểu loại tình thái trong ngơn ngữ tiếng Việt........................................... 93
3.2.4. Các phương tiện biểu thị tình thái trong ngôn ngữ tiếng Việt ........................ 95
3.3. Nghệ thuật chơi chữ của người Việt từ góc nhìn của phán đốn tình thái.........96
3.3.1. Phán đốn tính thái ......................................................................................... 96
3.3.2. Khảo sát nghệ thuật chơi chữ từ góc nhìn của phán đốn tình thái ............. 102
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................. 112
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 115

6

TIEU LUAN MOI download :


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giao tiếp thường ngày, dân tộc nào cũng có những thói quen, tập qn
riêng khi sử dụng ngơn ngữ. Khi thói quen và tập quán ấy dần đi vào đời sống văn
hóa tinh thần của mỗi dân tộc và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở
thành truyền thống ngữ văn của dân tộc đó. Dân tộc Việt Nam chúng ta cũng vậy,
cũng có những truyền thống ngữ văn riêng của mình. Và chơi chữ - đối tượng
nghiên cứu của luận văn, gần như được mặc nhiên coi như một truyền thống ngữ
văn của người Việt, bởi sự ra đời, tồn tại lâu đời và phạm vi lưu hành rộng rãi của
nó. Vì thế, chơi chữ vừa được coi là một trị chơi trí tuệ, vừa được coi là một
phương tiện truyền tải những lượng thông tin đặc biệt. Nhưng dù nhìn nhận dưới
góc độ nào đi nữa thì về bản chất đều coi chơi chữ là nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt khéo léo tuyệt vời của người Việt.

Nghệ thuật chơi chữ của người Việt nói riêng và tất cả các dân tộc trên thế
giới nói chung là sản phẩm của sự phát triển tư duy đến một trình độ cao – tư duy
lơgíc. Vì để có thể chơi chữ địi hỏi người ta phải có sự hiểu biết về ngôn ngữ, về
cấu trúc ngữ pháp của ngơn ngữ. Có như vậy mới tạo ra được những yếu tố gây ra
sự hứng thú, thú vị nhất của chơi chữ là tính bất ngờ, “tính phi lơgíc” và các lỗi
lơgíc bị vi phạm một cách vơ tình hay cố ý được sử dụng một cách triệt để. Điều
này được làm nên bởi mối liên hệ đặc biệt giữa ngơn ngữ- tư duy và lơgíc. Đây
chính là cơ sở để tác giả luận văn tiến hành sử dụng nghệ thuật chơi chữ của người
Việt như là phương tiện, công cụ nghiên cứu làm rõ những vấn đề của lơgíc học
truyền thống và lơgíc tình thái.
Mặt khác, trong lịch sử phát triển của cả hai ngành lơgíc học và ngôn ngữ
học, chúng ta không thể phủ nhận sự ảnh hưởng, tác động qua lại mạnh mẽ của
chúng đối với nhau. Đối với ngơn ngữ học, sự ảnh hướng đó thể hiện trong một số
thuật ngữ cú pháp cơ bản mà giới ngôn ngữ học vẫn sử dụng rộng rãi từ xưa đến
nay để phân tích câu như mệnh đề, chủ ngữ, vị ngữ,… vốn xuất phát từ các khái

7

TIEU LUAN MOI download :


niệm của lơgíc học. Khơng chỉ vậy, nhiều lý thuyết lơgíc như: lơgíc mệnh đề, lơgíc
vị từ, lơgíc thời gian, lơgíc mờ, lơgíc đa trị,… đã trở thành những cơng cụ cho việc
phân tích, miêu tả ngơn ngữ tự nhiên, đồng thời góp phần vào việc phát triển ngơn
ngữ học hiện đại. Đặc biệt, hướng nghiên cứu lơgíc – ngữ nghĩa hay lơgíc của ngơn
ngữ tự nhiên đã có những đóng góp đáng kể. Hướng nghiên cứu này khơng phải là
mới, đây đó đã có một số tác giả trong và ngoài nước đề cập tới. Tuy nhiên, cho tới
nay nó vẫn chưa được quan tâm một cách thỏa đáng ở nước ta. Chúng ta chỉ có thể
kể ra đây một vài cái tên ít ỏi trong giới Việt ngữ học đã tiếp cận vấn đề này như
Nguyễn Đức Dân, Hồng Phê… Có thể nói, lơgíc – ngữ nghĩa là những vấn đề vô

cùng lý thú, hấp dẫn nhưng cũng bao hàm cả sự phức tạp trong đó. Để tiếp cận vấn
đề này địi hỏi người nghiên cứu phải có những hiểu biết đến một chừng mựcnhất
định tri thức của cả hai ngành khoa học: ngơn ngữ học và lơgíc học. Đó là một
mảnh đất màu mỡ cho cả nhà lơgíc học và ngơn ngữ học nghiên cứu. Vì thế, việc
luận văn đi theo hướng nghiên cứu mới này là một điều đáng khích lệ.
Hơn nữa, cho đến nay việc ứng dụng lơgíc học trong nghiên cứu ngơn ngữ
nói chung và nghệ thuật chơi chữ của người Việt nói riêng cịn rất hiếm, thậm chí là
khơng có. Theo sự tìm hiểu của chúng tôi, những nghiên cứu ứng dụng của lơgíc
học ở Việt Nam chủ yếu dừng lại ở lơgíc hình thức [xem tài liệu 71]. Cịn mảng
nghiên cứu lý thuyết cũng như ứng dụng của lơgíc học hiện đại, nhất là lơgíc tình
thái ở nước ta hầu như chưa có nhiều. Có chăng, các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc
khái quát một cách chung nhất, tổng quát nhất về lơgíc tình thái trong các bài viết
trên tạp chí hay trong các cơng trình chung về lơgíc hiện đại. Có thể nói, với sự ra
đời của lơgíc học hiện đại, đặc biệt là lơgíc tình thái, lơgíc học ngày càng cung cấp
cho tư duy những phương tiện sắc bén để nhận thức thế giới ngày càng sâu sắc hơn.
Bởi trong hoạt động nhận thức, những tri thức của con người vừa có tính tuyệt đối,
vừa có tính tương đối vì nó bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau.
Do đó, việc sử dụng nghệ thuật chơi chữ của người Việt như là công cụ,
phương tiện để nghiên cứu những vấn đề của lơgíc học truyền thống và lơgíc tình
thái sẽ giúp chúng ta vừa thấy được những nét hay, độc đáo, thú vị của ngôn ngữ

8

TIEU LUAN MOI download :


tiếng Việt, vừa làm rõ được những vấn đề của lơgíc học. Mà ngơn ngữ tự nhiên, cụ
thể ở đây là tiếng Việt – đơn vị cơ bản của hiện tượng chơi chữ là vô cùng đa dạng,
phong phú, thậm chí rắc rối phức tạp. Cũng như tất cả các ngôn ngữ khác, tiếng
Việt cũng tuân theo những quy luật phổ quát, tất yếu của tư duy nhưng bên cạnh đó

nó cũng có lơgíc riêng của mình – “lơgíc giao tiếp” (theo Hồng Phê). Vì thế, chúng
ta có thể dễ dàng phân tích những hình thức, kiểu loại chơi chữ bằng các phương
tiện lơgíc học truyền thống, song cũng có những hình thức, kiểu loại chơi chữ mà
chúng ta khơng thể thực hiện được điều đó, hoặc làm một cách khiên cưỡng để rồi
đi đến kết luận vội vàng là “phi lơgíc”. Nhưng thực tế cho thấy nhiều khi “cái phi
lơgíc” đó thật ra lại là một cái lơgíc nào đó của ngơn ngữ tự nhiên chúng ta phải
dùng đến những cơng cụ của lơgíc tình thái mới làm rõ được.
Hơn nữa, lơgíc học và nghệ thuật chơi chữ đều là những công cụ mà con
người sử dụng để phản ánh thế giới, cũng như để phát triển năng lực tư duy của
mình. Tuy nhiên, những sự phản ánh này khác nhau về mục đích nhận thức và chức
năng. Nếu lơgíc học là cơng cụ phản ánh nhằm mục đích nhận thức chân lý khách
quan thì nghệ thuật chơi chữ lại là cơng cụ nhằm vui chơi trí tuệ với mục đích giải
trí, hay phê bình, đả kích; hay gửi gắm tâm sự. Nếu lơgíc học có chức năng rèn
luyện tư duy lơgíc, thì nghệ thuật chơi chữ có chức năng rèn luyện tính nhạy bén,
linh hoạt của tư duy. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về lơgíc học, nghệ thuật chơi
chữ, đặc biệt là quan hệ giữa chúng có ý nghĩa quan trọng trong rèn luyện và nâng
cao năng lực tư duy. Do vậy, việc nhìn nhận, đánh giá nghệ thuật chơi chữ từ góc
độ lơgíc học là một trong những vấn đề lý thú, đồng thời góp phần vào việc tìm hiểu
hệ vấn đề nói trên.
Đó chính là những lý do khiến tôi quyết định lựa chọn vấn đề: “Nghệ thuật
chơi chữ của người Việt dưới góc nhìn lơgíc học” làm đề tài cho Luận văn thạc sỹ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu

9

TIEU LUAN MOI download :


Nhóm thứ nhất: Những tài liệu nghiên cứu về nghệ thuật chơi chữ của người

Việt
Cơng trình đầu tiên đề cập tới chơi chữ có lẽ là cuốn “Chơi chữ” của Lãng
Nhân, xuất bản cách ngày nay đã hơn 40 năm. Sách đã tập trung được tương đối
nhiều tư liệu quý, người viết cảm nhận tốt về vấn đề, song vẫn cịn một số hạn chế
như: do khơng xác định được các kiểu dạng chơi chữ nên có một số câu được đưa
vào mà không phải là chơi chữ, cũng như cịn khá nhiều kiểu dạng chơi chữ khơng
được đề cập tới như mảng câu đối, truyện vui hiện đại, tiếng nói hàng ngày… Cơng
trình này của Lãng Nhân được hầu hết các nhà nghiên cứu xếp vào loại sưu tầm,
biên khảo về chơi chữ, do đó sách chưa có tác dụng hướng dẫn mang tính ứng dụng.
Tiếp đó, chơi chữ được giành một mục nhỏ trong các Giáo trình Phong cách
học của Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa, Cù Đình Tú, Võ Bình và Lê Anh
Hiền. Trong cơng trình “Phong cách học tiếng Việt” của Đinh Trọng Lạc và
Nguyễn Thái Hịa, chơi chữ được trình bày trong phần “Những biện pháp tu từ ngữ
nghĩa”. Theo các tác giả, chơi chữ là một trong những biện pháp tu từ ngữ nghĩa
cùng với các biện pháp khác như điệp ngữ, đồng nghĩa kép, liệt kê và tăng cấp,…,
và nêu ra một số hình thức chơi chữ phổ biến như lối nhại, phép đối, nói lái. Cịn
trong “Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt”, tác giả Cù Đình Tú đã có sự
nghiên cứu nghệ thuật chơi chữ một cách kĩ lưỡng và hệ thống hơn. Những cơng
trình này được xếp vào loại các giáo trình phong cách học về chơi chữ và cũng có
đóng góp nhất định vào việc nghiên cứu nghệ thuật chơi chữ của người Việt.
Có thể nói, chơi chữ chỉ được quan tâm thực sự khi chúng trở thành đối
tượng nghiên cứu của giới ngôn ngữ học trong vòng hơn 10 năm trở lại đây với
những cơng trình của Hồ Lê và Lê Trung Hoa, Nguyễn Đức Dân, đặc biệt là những
đóng góp của tác giả Triều Nguyên với bộ 4 tập “Nghệ thuật chơi chữ trong văn
chương người Việt” vừa mới được xuất bản năm 2008.
Trong cuốn “Sử dụng từ ngữ trong tiếng Việt (thú chơi chữ)” của Hồ Lê và
Lê Trung Hoa, các tác giả đã chọn lọc và sắp xếp có hệ thống các trường hợp chơi

10


TIEU LUAN MOI download :


chữ đắt giá nhất lấy từ tác phẩm văn học cũng như từ ngôn ngữ hàng ngày. Sách
chia làm 14 kiểu chơi chữ chính, mỗi kiểu lại được xếp thành một chương. Cuốn
sách này do Lê Trung Hoa biên soạn, Hồ Lê bổ sung ngữ liệu, hiệu chính và viết
chương mở đầu. Tuy nhiên, theo tác giả Triều Nguyên sách “vẫn có một số chỗ
chưa thỏa đáng” [40, tr. 8].
Những nghiên cứu về chơi chữ của Nguyễn Đức Dân chủ yếu giới hạn trong
những bài báo như “Về các kiểu nói lái trong tiếng Việt”,… Với những nghiên cứu
này, ơng cũng cung cấp thêm cho chúng ta những tư liệu bổ ích về chơi chữ. Tuy
nhiên, vì chỉ giới hạn trong những bài báo nên vấn đề chơi chữ được đặt ra chủ yếu
có tính chất gợi mở, chưa có những luận giải một cách thấu đáo, thỏa đáng.
Đáng kể nhất, trong nghiên cứu về nghệ thuật chơi chữ của người Việt, phải
kể đến những cơng trình nghiên cứu cơng phu và đồ sộ của tác giả Triều Nguyên.
Chẳng hạn cuốn “Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao người Việt”, đặc biệt là 4 tập
“Nghệ thuật chơi chữ trong văn chương người Việt”, đó là chưa kể tới vơ số những
bài nghiên cứu về chơi chữ của ông được đăng trên các tạp chí. Cuốn “Nghệ thuật
chơi chữ trong ca dao người Việt” chia làm 4 phần, trong đó phần chủ yếu tác giả
tập trung cho việc sưu tầm, chọn lọc, phân tích, sắp xếp những bài ca dao có sử
dụng nghệ thuật chơi chữ trong kho tàng ca dao dân tộc, không phân biệt thời gian,
địa bàn xuất hiện của chúng. Ông cũng đưa ra một quan niệm và một cách phân loại
chơi chữ theo cách riêng của mình mà khơng có sự trùng lặp với các tác giả trước.
Có thể nói, với chuyên luận này, tác giả lần đầu tiên cung cấp một cách nhìn khá
đầy đủ và có hệ thống, kèm sự phân tích, khám phá về nghệ thuật chơi chữ trong ca
dao người Việt. Đóng góp to lớn của tác giả là phát hiện ra kiểu chơi chữ chưa từng
được đề cập tới trong các nghiên cứu trước đó, là kiểu chơi chữ dựa vào tiền giả
định là các dữ liệu văn học, văn hóa. Những nghiên cứu này sẽ là tiền đề cho những
nghiên cứu tiếp theo của tác giả về nghệ thuật chơi chữ của người Việt. Đó là cơng
trình “Nghệ thuật chơi chữ trong văn chương người Việt” với 4 tập là “Nghệ thuật

chơi chữ trong văn chương người Việt - Chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ
viết” tập 1; “Nghệ thuật chơi chữ trong văn chương người Việt - Chơi chữ bằng

11

TIEU LUAN MOI download :


phương tiện ngữ nghĩa” tập 2; Nghệ thuật chơi chữ trong văn chương người Việt Chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp, luật thơ và phong cách văn bản” tập 3; “Chơi
chữ có sự tham gia của ngữ liệu ngồi văn bản” tập 4. Với chuyên luận đồ sộ này,
đối tượng nghiên cứu về chơi chữ đã được mở rộng, đó là những tác phẩm văn
chương của người Việt, khơng phân biệt thời gian, thể loại, chữ viết…, có sử dụng
chơi chữ. Tức chúng khơng cịn chỉ giới hạn trong những bài ca dao, mà là rất nhiều
thể loại có thể như ca dao, truyện vui, văn xuôi, thơ, kịch…, thể hiện một sự dày
công sưu tầm, chọn lọc, phân tích một cách có hệ thống của tác giả. Mặc dù tham
vọng của người viết là rất lớn, xong với một phạm vi nghiên cứu rộng như vậy –
nghệ thuật chơi chữ trong văn chương người Việt không kể văn học dân gian hay
bác học, cổ đại hay hiện đại, chữ Hán hay chữ quốc ngữ, tác giả không thể tránh
khỏi sự thiếu sót, qua loa trong phân tích vấn đề.
Trong mảng luận văn, luận án viết về chơi chữ, cho đến nay, theo chúng tơi
được biết có một Luận văn Thạc sỹ Lý luận ngôn ngữ về chơi chữ của tác giả
Nguyễn Thị Thu Hương với tên đề tài “Chơi chữ trong truyện dân gian xứ Nghệ” và
một Luận án Tiến sỹ khoa học ngữ văn của tác giả Trương Văn Sinh bảo vệ năm
1993, với đề tài là “Nghệ thuật chơi chữ trong tiếng Việt”. Có thể nói tác giả của
Luận án đã có những đóng góp mới mang tính riêng của mình trong việc nghiên cứu
nghệ thuật chơi chữ. Đó là trên cơ sở tìm hiểu những quan niệm về chơi chữ trước
đó, tác giả đưa quan niệm của mình về bản chất của chơi chữ, các bình diện của
chơi chữ, nguyên tắc phân loại các kiểu chơi chữ, từ việc khảo sát các cách phân
loại chơi chữ trước đó, ơng đưa ra cách phân loại chơi chữ thành 14 loại… Đặc biệt,
tác giả đã dành một phần lớn trong luận án của mình để phân tích, lý giải hiện tượng

chơi chữ trong tiếng Việt, so sánh đối chiếu hiện tượng chơi chữ trong tiếng Việt
qua các thời kỳ, các phương ngữ, các tác giả tiêu biểu, đặc biệt còn so sánh đối
chiếu chơi chữ trong tiếng Việt với chơi chữ trong một vài ngôn ngữ không cùng
loại hình.
Nhóm thứ hai: Những tài liệu liên quan đến việc ứng dụng lơgíc học trong
nghiên cứu ngơn ngữ tiếng Việt.

12

TIEU LUAN MOI download :


Trong nhóm nghiên cứu này, cơng lao đầu tiên lại thuộc về các nhà ngôn ngữ
học chứ không phải các nhà lơgíc học. Trước hết phải để kể đến những cơng trình
nghiên cứu tâm huyết và cơng phu của GS.TS Nguyễn Đức Dân. Mặc dù không
phải là một nhà nghiên cứu chun về lơgíc nhưng tác giả Nguyễn Đức Dân đã có
những cơng trình khảo cứu khá chi tiết và đầy đủ về lơgíc như cuốn sách “Nhập
mơn lơgíc hình thức và lơgíc phi hình thức” do nhà xuất bản Đại học Quốc gia phát
hành năm 2005. Nguyễn Đức Dân nghiên cứu lơgíc học làm cơ sở để ơng nghiên
cứu về ngơn ngữ học. Cuốn sách “Lơgíc và Tiếng Việt” là sản phẩm của sự ứng
dụng này. Trong tác phẩm, ông đã dành hẳn một phần thứ nhất với khoảng 140
trang giấy để trình bày những vấn đề chung nhất về lơgíc học. Trong đó, tác giả
nhấn mạnh vào việc chỉ ra mối quan hệ giữa lơgíc và ngơn ngữ. Theo Nguyễn Đức
Dân, chính sự thâm nhập của tốn học và lơgíc học vào trong ngơn ngữ đã mở ra
nhiều hướng ứng dụng mới và thành công trong việc nghiên cứu ngơn ngữ. Để
khẳng định được điều đó, ơng đã đưa ra những dẫn chứng để chứng tỏ rằng việc coi
lơgíc như một điểm tựa trong nghiên cứu ngơn ngữ là hồn tồn có cơ sở [9, tr.1519].
Ngồi ra, Nguyễn Đức Dân cịn có rất nhiều bài báo đăng trên tạp chí Ngơn
ngữ học nói về mối quan hệ, sự ứng dụng lơgíc trong nghiên cứu ngơn ngữ: “Lơgíc
và sự phủ định trong tiếng Việt” [14]; “Lơgíc và sắc thái liên từ tiếng Việt (Về các

liên từ và, hay, hoặc, nếu…thì…)” [15].
Bên cạnh đó, ở Việt Nam tác giả Hồng Phê là người đầu tiên đã vận dụng
lơgíc tình thái để nghiên cứu một số vấn đề ngôn ngữ [Xem tài liệu 50].
Ngồi ra cịn phải kể tới cơng trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Hiệp,
đặc biệt là cuốn “Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp” [28]. Trong đó, những vấn đề
của tình thái lơgíc được tác giả sử dụng trong nghiên cứu tình thái ngơn ngữ.
Nhóm thứ ba: Những tài liệu liên quan đến việc sử dụng nghệ thuật chơi chữ
của người Việt như là chất liệu để nghiên cứu lơgíc học.

13

TIEU LUAN MOI download :


Có thể nói, cho đến nay chưa có một tài liệu chính thống nào ở Việt Nam
trực tiếp sử dụng nghệ thuật chơi chữ của người Việt để nghiên cứu lơgíc học (cả
lơgíc học truyền thống và lơgíc học hiện đại). Dù ở chỗ này hay chỗ khác, có tác giả
cũng đã lấy trong ca dao, tục ngữ, câu đối hay những mẩu chuyện để làm ví dụ phân
tích những vấn đề của lơgíc học. Song đó chưa thể gọi là sự nghiên cứu một cách có
hệ thống về nghệ thuật chơi chữ dưới góc nhìn của lơgíc học được.
Dù vậy những liệt kê ở trên cũng đủ cho thấy, nghệ thuật chơi chữ của người
Việt đã được nghiên cứu một cách khá nghiêm cẩn. Tuy nhiên, chúng ta dễ dàng
nhận thấy rằng những nghiên cứu đó chủ yếu xuất phát từ góc độ văn chương,
phong cách học, nhất là ngơn ngữ học. Do đó, việc tác giả luận văn nghiên cứu nghệ
thuật chơi chữ của người Việt dưới góc độ lơgíc học vẫn là một đề tài rất mới mà
đến nay chưa có một cơng trình nghiên cứu nào đề cập tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Nghiên cứu một cách tổng quan nhất về nghệ thuật chơi chữ của
người Việt và về mối quan hệ giữa ngơn ngữ - tư duy – lơgíc. Trên cơ sở đó, Luận
văn sử dụng nghệ thuật chơi chữ của người Việt như là công cụ, chất liệu để làm rõ

một số vấn đề của lơgíc học truyền thống và phán đốn trong lơgíc tình thái.
Nhiệm vụ:
- Khái qt những nội dung lý luận cơ bản nhất về nghệ thuật chơi chữ của
người Việt. Từ đó rút ra mối liên hệ tất yếu giữa ngôn ngữ - tư duy – lơgíc làm cơ
sở nghiên cứu.
- Khảo sát nghệ thuật chơi chữ của người Việt từ các hình thức cơ bản của tư
duy trong lơgíc học truyền thống.
- Khảo sát nghệ thuật chơi chữ của người Việt từ quan điểm của lơgíc học
tình thái.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Nghệ thuật chơi chữ của người Việt dưới góc nhìn lơgíc học.

14

TIEU LUAN MOI download :


Phạm vi: Luận văn sẽ khảo sát đa số các loại hình chơi chữ của người Việt
dưới góc độ lơgíc học. Tuy nhiên, phạm vi liên quan đến lơgíc học rất rộng. Do đó,
luận văn chỉ dừng lại lơgíc học truyền thống do Aristotle sáng lập và một nhánh
phát triển mạnh mẽ nhất của lơgíc học hiện đại là lơgíc tình thái (tập trung vào phán
đốn tình thái, mệnh đề tình thái).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn đã dựa trên cơ sở triết học về mối quan hệ giữa ngôn
ngữ, tư duy và lơgíc, cùng với đó là các cơng trình nghiên cứu về chơi chữ của các
tác giả đã có trong lịch sử nghiên cứu về nghệ thuật chơi chữ của người Việt.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp sưu
tầm, phân tích, tổng hợp, mơ hình, bảng biểu, so sánh liên tưởng.
6. Đóng góp của Luận văn
Luận văn đã góp phần giới thiệu đến bạn đọc những hiểu biết tổng quát nhất

về nghệ thuật chơi chữ của người Việt, về cơ sở triết học của mối quan hệ giữa
ngôn ngữ, tư duy và lơgíc, lơgíc học truyền thống và lơgíc tình thái. Từ đó tác giả
Luận văn mong muốn cung cấp những vấn đề lý thú nhất cho người đọc, người
nghiên cứu quan tâm đến nội dung lơgíc trong nghệ thuật chơi chữ của người Việt.
Vì thế, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng
dạy về lơgíc học cũng như ngơn ngữ học và ngữ nghĩa học.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương và 8 tiết.

15

TIEU LUAN MOI download :


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ THUẬT CHƠI CHỮ CỦA
NGƯỜI VIỆT
1.1.

Các quan niệm về chơi chữ

Chơi chữ là một thói quen sử dụng ngơn ngữ có tính chất nghệ thuật của người
Việt nói riêng và các dân tộc trên thế giới nói chung. Thói quen này xuất hiện từ khi
nào, thực ra cho tới nay chưa có ai xác định được. Chỉ biết rằng, nếu dựa vào tên gọi
của hiện tượng này thì có thể phỏng đốn chơi chữ bắt đầu từ lời ăn, tiếng nói hằng
ngày của quần chúng nhân dân lao động. Những cứ liệu trong văn học dân gian đã cho
chúng ta thấy điều này. Cho nên khi ngơn ngữ và chữ viết xuất hiện thì cũng là lúc con
người phát minh ra chơi chữ. Từ khi ra đời, chơi chữ dần dần đi vào đời sống văn hóa
của nhân dân ta, nó xâm nhập vào mọi lĩnh vực từ văn học dân gian tới văn học bác
học, rồi báo chí, ngay cả trong khẩu ngữ cũng dùng chơi chữ. Cho đến nay, chơi chữ

vẫn đã, đang và sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển. Có thể nói, chơi chữ là do nhân dân
sáng tạo ra và được nhân dân sử dụng. Vì thế chơi chữ khơng thuộc về một ai, nó là tài
sản của tất cả mọi người, ai cũng có quyền sử dụng và chiếm lĩnh nó.
Nhưng chơi chữ là gì? Câu hỏi này được đặt ra từ rất lâu và đã có rất nhiều cách
trả lời khác nhau. Bởi khi trả lời câu hỏi này động chạm tới hàng loạt các vấn đề như:
bản chất, đặc điểm, tiêu chí phân loại, các kiểu loại…của chơi chữ. Mỗi người có cách
trả lời riêng, từ đó đưa đến những quan niệm khác nhau về chơi chữ. Ở đây chúng tôi
xin khái quát một số quan niệm phổ biến về chơi chữ như sau:
1.1.1. Quan niệm truyền thống
Một thời gian dài trước đây, theo quan niệm truyền thống chơi chữ được hiểu là
trị chơi có tính chất “tiểu xảo về chữ nghĩa” nhằm mục đích trào lộng. Vì thế, chơi chữ
cịn được gọi là lộng ngữ. Quan niệm này có thể tìm thấy trong “Từ điển thuật ngữ văn
học” của tập thể các tác giả PGS.Lê Bá Hán, GS.TS. Trần Đình Sửu và GS.Nguyễn

16

TIEU LUAN MOI download :


Khắc Phi. Theo họ, “Lộng ngữ (tiếng Anh: pun; tiếng Nga: kalambur; tiếng Pháp:
calembour). Còn gọi là chơi chữ. Một biện pháp tư từ có đặc điểm: người sáng tác sử
dụng chỗ giống nhau về ngữ âm, ngữ nghĩa, văn tự, văn cảnh để tạo sự bất ngờ thú vị
trong cách hiểu, trong dòng liên tưởng của người đọc, người nghe” [17, tr.183], hay tại
trang của wikipedia – tiếng Việt cũng định nghĩa “Lộng ngữ hay chơi chữ là một biện
pháp tu từ tập trung khai thác những tương đồng về ngữ âm, ngữ nghĩa, văn tự, văn
cảnh nhằm tạo ra những liên tưởng bất ngờ, thú vị và đôi khi mang tính trào phúng”
[80]. Trong quan niệm này, chúng tơi thấy nổi lên hai điều:
Một là mục đích, chức năng của chơi chữ là vui chơi, giải trí, có tính chất trào lộng.
Hai là về đặc trưng, chơi chữ là một trò chơi giống như mọi trò chơi khác. Có
điều, trị chơi này dùng một phương tiện khác hẳn đó là chữ nghĩa, và được tổ chức

theo một cách riêng, phải đạt đến mức “tinh tế”.
Theo chúng tôi, việc nhấn mạnh vào mục đích, chức năng và đặc trưng của chơi
chữ như vậy là đúng, song chưa đủ. Vì nếu xét về mục đích, đành rằng lúc mới ra đời,
chơi chữ có thể nhằm mục đích trào lộng và hiện nay trong nhiều hiện tượng chơi chữ
mục đích này vẫn còn phát huy tác dụng. Song thực tế cho thấy, hiện nay mục đích vui
chơi, giải trí đã lui xuống hàng thứ yếu, nhường chỗ cho những mục đích khác quan
trọng, chủ yếu hơn. Còn về đặc trưng, rõ ràng muốn tạo ra một hiện tượng chơi chữ thì
phải có sự hiểu biết chữ nghĩa và biết cách tổ chức chúng đến mức tiểu xảo. Song cách
tổ chức đó ra sao? Và nó khác với cách tổ chức của một câu nói thơng thường ra sao?
Quan niệm truyền thống đã khơng trình bày những khía cạnh này.
1.1.2. Quan niệm về chơi chữ trong các giáo trình Phong cách học
Trong các giáo trình phong các học của Đinh Trọng Lạc, Võ Bình, Lê Anh
Hiền, Cù Đình Tú…Chơi chữ được đề cập đến một cách rõ ràng hơn, cụ thể hơn và
nhiều khía cạnh hơn so với quan niệm “truyền thống”. Xem xét quan niệm của các tác
giả trên, chúng tôi thấy họ đều nhất trí cho rằng:

17

TIEU LUAN MOI download :


Thứ nhất, coi chơi chữ là một trong những phương thức phong cách học với hai
chức năng cơ bản là chức năng nhận thức và chức năng biểu cảm nhằm hướng tới hai
mục đích: vui chơi, giải trí và châm biếm đả kích, phê phán. Chỗ khác nhau chỉ là Võ
Bình và Lê Anh Hiền thì nhấn mạnh mục đích thứ nhất, cịn các tác giả khác nhấn
mạnh mục đích thứ hai.
Thứ hai, coi chơi chữ là một hiện tượng được tổ chức đặc biệt, có khả năng tạo
ra những liên tưởng bất ngờ, thú vị, kích thích trí tuệ, tình cảm người đọc, người nghe.
Thứ ba, chơi chữ có mặt trong nhiều phong cách ngôn ngữ như: khẩu ngữ tự
nhiên, chính luận, báo chí, văn học nghệ thuật.

Tuy nhiên, giữa họ vẫn có sự khơng thống nhất và điều đó thể hiện ở mấy điểm sau:
Về mối quan hệ giữa hai loại nghĩa trong chơi chữ : Võ Bình và Lê Anh Hiền,
tập thể tác giả cuốn “Phong cách học tiếng Việt” do Đinh Trọng Lạc làm chủ biên thì
nhất trí cho rằng chơi chữ cũng như các hiện tượng phong cách học khác, đều có hai
phần nội dung là nội dung cơ sở và nội dung bổ sung. Ngược lại, Cù Đình Tú trong
“Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt”, lại khẳng định mối quan hệ giữa hai
loại nghĩa trong chơi chữ là mối quan hệ giữa phần tin cơ sở và phần tin khác loại, bởi
hai phần tin này hồn tồn tách biệt, khơng có quan hệ phụ thuộc nào với nhau.
Về phương tiện chơi chữ : trong khi Võ Bình và Lê Anh Hiền giới hạn chơi chữ
ở hai phương tiện : ngữ âm – chữ viết và từ ngữ, thì Cù Đình Tú cho rằng mọi phương
tiện ngôn ngữ (ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp) đều có thể được sử dụng để chơi
chữ. Vì thế, tác giả phân chia các kiểu loại chơi chữ theo ba phương tiện là ngữ âm –
chữ viết, từ vựng – ngữ nghĩa và ngữ pháp. Kéo theo đó, số lượng kiểu loại chơi chữ
trong hệ thống của Cù Đình Tú nhiều loại hơn hẳn so với hệ thống của hai tác giả kia.
Như vậy, rõ ràng quan niệm chơi chữ được trình bày trong các giáo trình phong
cách học có bước tiến xa hơn so với quan niệm “truyền thống”, mặc dù họ vẫn có

18

TIEU LUAN MOI download :


những điểm chưa nhất trí cần được thảo luận thêm. Hơn nữa, do đặt chơi chữ ở bình
diện phong cách học, coi chơi chữ chỉ là một hiện tượng nhỏ của phong cách học tiếng
Việt, nên các giáo trình phong cách học khơng có điều kiện đề cập tới một số vấn đề
khác không kém phần quan trọng của chơi chữ như đặc điểm của chơi chữ, mối quan
hệ giữa âm và nghĩa trong các hiện tượng chơi chữ, các bình diện hoạt động của chơi
chữ,…Vì thế, quan niệm về chơi chữ của họ chưa thật đầy đủ và còn hạn chế mà hạn
chế lớn nhất theo chúng tôi là họ đã đồng nhất chơi chữ với một trong những cách tu từ
của tiếng Việt. Bởi lẽ, theo tác giả Triều Nguyên thì giữa chơi chữ và các cách tu từ có

hai điểm khác biệt cơ bản mà khơng thể đồng nhất chúng với nhau. Đó là: 1 - “chơi
chữ được thể hiện trên tất cả các cấp độ đơn vị tiếng, trong lúc đó các cách tu từ khác
chỉ thể hiện trên một (hoặc một vài) cấp độ, đơn vị nhất định nào đó.(…) Tức phạm vi
thể hiện của chơi chữ rộng hơn”. 2 – “chơi chữ tạo ra một lượng ngữ nghĩa (thông tin)
mới, về bản chất không có quan hệ phù hợp với lượng ngữ nghĩa cơ sở, trong lúc các
cách tu từ khác, ý nghĩa do chúng tạo ra hoặc bằng sự liên tưởng nét tương đồng, liên
tưởng về mối quan hệ có thực giữa hai đối tượng hoặc bằng quan hệ phối hợp, gắn bó
về nghĩa.(…). Và mỗi khi cách tu từ phát huy hiệu quả, tức ý nghĩa tu từ được nhận ra,
thì văn bản (hay phát ngơn) khơng cịn ý nghĩa nào khác, trong lúc chơi chữ ln có hai
lượng ngữ nghĩa cùng xuất hiện sóng kèm. Như vậy, cách tạo nghĩa của chơi chữ khác
với các dạng tu từ” [44, tr.13 – 14]. Và những điều cịn thiếu sót đó sẽ được bổ sung
trong các quan niệm khác về chơi chữ.
1.1.3. Các quan niệm khác về chơi chữ
Ở đây chúng tôi gộp tất cả những quan niệm không thuộc hai loại trên làm một
bởi chúng có cùng hướng đi chung, mặc dù diện quan tâm của họ có rộng hẹp khác
nhau. Song hướng đi chung của các tác giả thuộc quan niệm này là tìm hiểu những vấn
đề chung về chơi chữ như bản chất, đặc điểm của chơi chữ…Những ý kiến của Lê
Trung Hoa và Hồ Lê, Nguyễn Đức Dân, Triều Nguyên, tác giả Luận án tiến sỹ khoa
học ngữ văn Trương Văn Sinh…đều thuộc loại quan niệm thứ ba này. Họ cho rằng:

19

TIEU LUAN MOI download :


Thứ nhất, chơi chữ là một hiện tượng liên tưởng tâm lý nhằm thực hiện ba mục
đích: trào lộng, châm biếm đả kích và gửi gắm tâm sự, trong đó có hai mục đích sau là
chủ yếu.
Thứ hai, chơi chữ là một hiện tượng ngơn ngữ vừa mang tính phổ qt, vừa
mang tính loại hình.

Thứ ba, đặc điểm loại hình của tiếng Việt và đặc điểm của chơi chữ có mối quan
hệ tương tác với nhau. Mối quan hệ tương tác này được thể hiện qua đặc điểm và vai
trò của một đơn vị gọi là “tiếng”.
Ngoài những đặc điểm chung ấy, mỗi tác giả lại đi sâu vào một vài vấn đề nhất
định. Chẳng hạn như Lê Trung Hoa và Hồ Lê thì khẳng định vai trị của cấu trúc tiếng
Việt đối với chơi chữ. Theo tác giả, cấu trúc phân tiết tính của tiếng Việt được thể hiện
qua một đơn vị gọi là tiếng, đó cũng chính là tiền đề cho những khả năng phong phú
hóa và đa dạng hoá các kiểu chơi chữ [31, tr. 9]. Và theo ông “chơi chữ luôn luôn xoay
quanh và tổ chức sự phối hợp giữa hai trục: trục âm và trục nghĩa.” [31, tr. 15]. Điều
này thì tác giả Nguyễn Văn Sinh cũng đồng ý với họ.
Còn Nguyễn Đức Dân lại quan tâm đến tính phổ qt và tính loại hình của chơi
chữ. Theo tác giả, có những quy luật và phương thức chơi chữ chung cho mọi ngôn
ngữ, đồng thời mỗi ngơn ngữ đều có những đặc điểm riêng làm nên những lối chơi chữ
đặc sắc riêng của mình. Từ đó, ơng cũng đồng ý với tác giả của “Thú chơi chữ” rằng
đặc điểm làm nên tính đặc sắc riêng của lối chơi chữ tiếng Việt chính là tính phân tiết
của cấu trúc tiếng Việt. Vấn đề này cũng được tác giả Trương Văn Sinh đề cập tới
trong luận án tiến sỹ của mình nhưng ơng có sự lý giải vấn đề sâu sắc hơn dựa vào hai
cơ sở là cơ sở tâm lý và bản chất của chơi chữ. Theo ông “chơi chữ là kết quả của sự
vận dụng ý thức, tư duy, tình cảm…(tức phạm trù tâm lý nói chung) vào những hiện
tượng ngơn ngữ cụ thể. Nếu những hình thức ngơn ngữ cụ thể mang tính dân tộc thì tư
duy, tâm lý mang tính nhân loại. Theo đó, chơi chữ hàm chứa hai tính chất: tính nhân

20

TIEU LUAN MOI download :


loại và tính dân tộc. Đây là cơ sở để làm cho dân tộc nào cũng có chơi chữ và chơi chữ
trở thành một hiện tượng ngôn ngữ của các dân tộc”[57, tr. 30]. Và “Trong bất kỳ ngôn
ngữ nào trên thế giới cũng có hiện tượng đồng hình – dị nghĩa. Nếu hiện tượng đồng

hình dị nghĩa gây khơng ít khó khăn trong giao tiếp, thì chính nó ở một khía cạnh khác
lại có tác dụng tích cực nhấtđịnh.Chơi chữ là một biểu hiện cụ thể của khía cạnh này.
Tính nhập nhằng, nước đơi của các tín hiệu đồng âm khơng gì khác hơn là tính đồng
hình dị nghĩa của các yếu tố ngôn ngữ trong chơi chữ. Do đó, chúng ta khơng ngạc
nhiên khi thấy có nhiều kiểu loại chơi chữ và mỗi ngơn ngữ có nhiều kiểu loại chơi chữ
khác nhau, nhưng kiểu chơi chữ đồng hình – dị nghĩa ở mỗi ngơn ngữ nào cũng có và
luôn luôn là kiểu loại phổ biến hơn cả” [58, tr. 30].
Ngoài điều đã được các tác giả trên đề cập tới, Trương Văn Sinh cũng có sự
nghiên cứu riêng của mình. Theo ơng, chơi chữ là một hiện tượng ngữ văn, vì thế có
thể xem xét nó từ nhiều hướng hoặc văn học hoặc ngôn ngữ học. Từ hướng nghiên cứu
ngơn ngữ học, chơi chữ có thể được xem xét ở trên ba bình diện là hoạt động giao tiếp,
phong cách học và cấu trúc - chức năng. Trong mỗi bình diện, tác giả lại có sự phân
tích khá đầy đủ về những đặc điểm về mặt ngữ âm, về nghĩa, kết cấu,…Đặc biệt, tác
giả dành một phần lớn của luận án để phân tích, lý giải các vấn đề của hiện tượng chơi
chữ trong tiếng Việt như đặc trưng, bản chất, các yếu tố tham gia chơi chữ trong tiếng
Việt. Có thể nói, với luận án tiến sỹ này, tác giả Trương Văn Sinh đã mang đến cho
chúng ta một cách nhìn bao quát và tương đối đầy đủ về chơi chữ.
Tác giả Triều Nguyên lại có cách nhìn nhận vấn đề theo một hướng khác. Từ
việc xem xét quan niệm về chơi chữ trong các loại từ điển trên và trong các giáo trình
phong cách học, tác giả đưa ra một nhận định riêng của mình về chơi chữ như sau:
“chơi chữ là dùng phương thức diễn đạt đặc biệt, sao cho ở đó song song tồn tại hai
lượng thông tin (ngữ nghĩa) khác hẳn nhau, được biểu đạt bởi cùng một hình thức ngơn
ngữ, nhằm tạo nên sự thú vị mang tính chất chữ nghĩa.”[40, tr.13]. Đây cũng chính là

21

TIEU LUAN MOI download :


đóng góp của ơng trong việc đưa ra một định nghĩa về chơi chữ. Điểm khác biệt ở cách

định nghĩa này là nó “khơng đặt chơi chữ như một cách tu từ trong hệ thống các cách
tu từ đã nêu, vì chơi chữ khơng cùng cách tạo nghĩa như chúng. Nó cũng khơng đặt ra
vấn đề vận dụng các hiện tượng, các bình diện hay các đơn vị ngơn ngữ để hình thành,
vì phạm vi thể hiện của chơi chữ rộng khắp, hầu như lĩnh vực nào cũng có mặt” [40; tr.
13 – 14]. Ở đây, tác giả đặc biệt nhấn mạnh “sự thú vị mang tính chất ngữ nghĩa” của
chơi chữ. Sự thú vị này do cả hai lượng thơng tin khác nhau song song tồn tại mang
lại.`Chính vì có cách nhìn bao qt và tồn diện hơn so với các tác giả khác, nên tác giả
cũng có cách phân chia chơi chữ khá đầy đủ.
Qua một số quan niệm trên về chơi chữ, cũng đủ cho ta thấy góc nhìn về chơi
chữ rất đa dạng, phong phú, thậm chí là phức tạp. Vậy chúng ta có thể có được một
quan niệm thống nhất về nó khơng? Điều này quả thất rất khó, song khơng phải khơng
được. Bởi lẽ bên cạnh những điểm nhìn riêng của mình, các tác giả cũng có sự thống
nhất với nhau ở một số điểm nhất định. Theo chúng tơi, sự thống nhất đó thể hiện ở
một số điểm sau:
Thứ nhất, coi chơi chữ là một hoạt động ngôn ngữ dựa trên những phương thức
diễn đạt đặc biệt, sao cho có thể tạo ra sự tồn tại song song của hai lượng thông tin
(ngữ nghĩa) khác hẳn nhau, chúng có thể gắn bó trực tiếp với nhau trên văn bản, hoặc
ngầm ẩn sau văn bản, nhưng dù thế nào thì chúng cũng có những liên hệ nhất định với
nhau. Và khi ẩn nghĩa đó được nhận ra, tạo nên sự bất ngờ thú vị đối với người nghe,
người đọc bởi tính tương hợp lơgíc hay phi lơgíc của chúng.
Thứ hai, chơi chữ dù được tiến hành theo hình thức nào, kiểu loại nào cũng đều
nhằm một trong ba mục đích sau: vui chơi, giải trí; hay phê phán đả kích; hay có thể để
gửi gắm tâm sự.

22

TIEU LUAN MOI download :


Thứ ba, chơi chữ là một hiện tượng được thực hiện bằng nhiều phương tiện có

thể là phương tiện được biểu hiện trên văn bản hay ngoài văn bản, dưới nhiều hình
thức, đa dạng về hình thức và kiểu loại.
Thứ tư, chơi chữ là một hiện tượng ngôn ngữ vừa mang tính phổ qt cho mọi
loại ngơn ngữ trên thế giới, vừa mang tính loại hình tùy thuộc vào đặc điểm riêng của
từng ngơn ngữ.
Có thể nói, chính sự đa dạng trong quan niệm về chơi chữ, đưa đến sự đa dạng
trong cách phân chia các hình thức chơi chữ. Tuy nhiên, tất cả đều do bản chất của chơi
chữ tạo ra.
1.2. Bản chất của chơi chữ
1.2.1. Chơi chữ là một hoạt động ngôn ngữ chuyên sử dụng quan hệ liên tưởng
để tạo nên những ý nghĩa bất ngờ


Đặc điểm liên tưởng

Liên tưởng là một hiện tượng thường gặp trong đời sống hàng ngày của con
người. Từ sự vật, hiện tượng này người ta thường nghĩ ngay đến sự vật, hiện tượng
khác. Giữa các sự vật, hiện tượng nằm trong quan hệ liên tưởng bao giờ cũng có một
mối quan hệ nào đó về hình thức hoặc nội dung. Khi liên tưởng người ta có thể xác lập
theo thế tương đồng (giống nhau), hoặc tương phản (đối lập nhau). Dù liên tưởng theo
hình thức nào thì để có được quan hệ liên tưởng đều phải lấy sự đối chiếu, so sánh làm
cơ sở. Phép so sánh dựa trên mối liên tưởng tương đồng cho chúng ta phép ẩn dụ, thậm
xưng, nhân hóa… trong phong cách học. Phép so sánh dựa trên mối liên tưởng tương
cận cho chúng ta phép hoán dụ. Phép so sánh dựa trên mối liên tưởng tương phản cho
chúng ta phép so sánh đối lập. Quan hệ liên tưởng theo ba phép so sánh như vậy thông
thường là quan hệ hợp lơgíc được mọi người chấp nhận.


Quan hệ liên tưởng trong chơi chữ


23

TIEU LUAN MOI download :


Chơi chữ thực chất là một hoạt động ngôn ngữ chuyên sử dụng quan hệ liên
tưởng. Sự liên tưởng đó có thể là về mặt hình thức hoặc nội dung của các yếu tố và đều
có thể xảy ra hai khả năng: hoặc là các yếu tố liên tưởng đều có mặt trên văn bản hoặc
là trên văn bản chỉ có một số yếu tố, số cịn lại phải suy ra từ các yếu tố có trên văn
bản. Ví dụ:
Ruồi đậu mâm xơi đậu
Kiến bị đĩa thịt bị
Ở đây các yếu tố liên tưởng đều có mặt trên văn bản.
Da

trắng

vỗ



“bì”
Rừng

sâu

bạch

“bạch”
mưa


lâm

thâm

“lâm”

“thâm”

Liên tưởng trong chơi chữ cũng diễn ra theo cả ba thế với hai khả năng:tương
đồng về nội dung, hình thức; tương cận về nội dung và hình thức; cịn tương phản hầu
như chỉ có một khả năng về nội dung.
Liên tưởng trong chơi chữ có khi là những liên tưởng hợp lơgíc hoặc về hình
thức, hoặc về nội dung giữa những yếu tố hiện diện ngay trên văn bản nên có thể gọi
đó là những liên tưởng lơgíc trực tiếp. Có khi lại là những liên tưởng hợp lý hoặc về
hình thức hoặc về nội dung giữa những yếu tố ẩn dạng chứ khơng hiện diện trên văn
bản nên có thể gọi đó là những liên tưởng lơgíc gián tiếp.

24

TIEU LUAN MOI download :


Vậy sự liên tưởng trong chơi chữ khác sự liên tưởng ở những hiện tượng ngơn
ngữ thơng thường nói riêng và những liên tưởng trong đời sống nói chung như thế nào?
Theo chúng tôi, liên tưởng trong chơi chữ khác với liên tưởng ở các hiện tượng liên
tưởng nói chung ở hai điểm chủ yếu:
Thứ nhất, về hình thức, ở chơi chữ khả năng liên tưởng thứ hai (các yếu tố tham
gia chơi chữ không cùng xuất hiện trên văn bản) là khả năng có tính chất đặc thù,
dường như chỉ có ở chơi chữ.

Thứ hai, về nội dung, ở chơi chữ có hiện tượng liên tưởng lơgíc gián tiếp. Từ
đây đưa đến cho chơi chữ một thực tế là có sự tồn tại hai nội dung khác nhau, khơng có
liên hệ gì với nhau. Chính hiện tượng này tạo nên sự bất ngờ lớn ở người tiếp nhận.
Hai điểm khác biệt trên đây, đặc biệt là điểm thứ hai, làm cơ sở phân biệt chơi
chữ với các hiện tượng ngôn ngữ khác. Từ đây, tác giả Trương Văn Sinh phát biểu
thành hai quy tắc để tạo ra một hiện tượng chơi chữ trong tiếng Việt như sau:
“Quy tắc thứ nhất, muốn có một hiện tượng chơi chữ phải lựa chọn sắp xếp các
yếu tố ngôn ngữ sao cho tạo ra một liên tưởng ngữ nghĩa bất ngờ bằng những phương
tiện liên tưởng lơgíc trực tiếp hoặc gián tiếp.
Quy tắc thứ hai, muốn có hiện tượng chơi chữ, chúng ta phải lựa chọn và sắp
xếp các yếu tố ngôn ngữ sao cho hoặc đồng hình với nhau, hoặc tạo nên sự liên tưởng
để từ đó nảy sinh một nghĩa ẩn tương hợp lơgíc với hình thức văn bản (xét theo tuyến
liên tưởng, ẩn sau văn bản) nhưng lại có quan hệ khơng tương hợp – phi lơgíc với cũng
chính hình thức văn bản ấy (xét theo tuyến biểu hiện của văn bản)”[57, tr. 48].
Chính sự đặc biệt trong quan hệ liên tưởng này của nghệ thuật chơi chữ mà tác
giả luận văn đã phát hiện ra mối liên hệ ẩn dấu đằng sau sự liên tưởng đó với những
vấn đề của lơgíc học. Việc sử dụng nghệ thuật chơi chữ của người Việt làm chất liệu đã
giúp phân tích, làm rõ khơng những vấn đề của lơgíc học, mà xa hơn là của mối quan

25

TIEU LUAN MOI download :


×