Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM THỰC TẾ TẠI địa PHƯƠNG CHO HỌC VIÊN CÁC LỚP TIẾNG DÂN TỘC THÁI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.81 MB, 86 trang )

SÁNG KIẾN
Đề tài:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC
HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM THỰC TẾ TẠI
ĐỊA PHƯƠNG CHO HỌC VIÊN CÁC LỚP TIẾNG DÂN TỘC THÁI”

lĩnh vực: Giáo dục thuòng xuyên

Tác giả:
Nguyễn Tùng Sơn
Nguyễn Thị Hải Yến


MỤC LỤC
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ ...................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 2
3. Phạm vi ứng dụng.............................................................................................. 2
4. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 2
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 3
6. Tính mới của đề tài ............................................................................................ 3
PHẦN II. PHẦN NỘI DUNG ............................................................................... 3
1. Cơ sở lý luận...................................................................................................... 3
2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................................. 5
3. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình tổ chức và kết quả đạt được...... 7
3.1. Thuận lợi ........................................................................................................ 7
3.2. Khó khăn, hạn chế .......................................................................................... 8
3.3. Kết quả đạt được ............................................................................................ 9
4. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động trải nghiệm thực tế
cho học viên các lớp bồi dưỡng tiếng dân tộc Thái ............................................ 10
4.1. Công tác chuẩn bị ......................................................................................... 10


4.1.1. Công tác chuẩn bị đối với giáo viên giảng dạy và phịng Bồi dưỡng nâng
cao trình độ .......................................................................................................... 10
4.1.2. Cơng tác chuẩn bị về việc phối hợp giữa các đơn vị, bộ phận.................. 10
4.2. Chương trình trải nghiệm thực tế tại địa phương ......................................... 11
4.2.1. Tìm hiểu phong tục, tập quán của đồng Thái tại địa phương ................... 11
4.2.1.1. Phong tục về nhà ở ................................................................................. 11
4.2.1.2. Phong tục trộm vợ .................................................................................. 14
4.2.1.3. Phong tục chọc sàn ................................................................................. 16
4.2.1.4. Phong tục về tổ chức lễ Xăng Khan ....................................................... 18
4.2.1.5. Phong tục về trang phục truyền thống.................................................... 20
4.2.1.6. Phong tục “Tằng cẩu” ............................................................................ 23
4.2.1.7. Phong tục về ma chay............................................................................. 25
4.2.1.8. Phong tục về cưới hỏi ............................................................................. 27
4.2.1.9. Phong tục thờ cúng ................................................................................. 29
4.2.1.10. Phong tục về văn hóa cồng chiêng ....................................................... 32
4.2.1.11. Phong tục về ẩm thực ........................................................................... 34
4.2.2. Tìm hiểu các ngành nghề truyền thống của đồng bào Thái ...................... 39
4.2.2.1. Nghề dệt thổ cẩm – Tinh hoa của nghệ thuật trang trí ........................... 39


4.2.2.2. Nghề đan lát và tư duy nghệ thuật miền sơn cước ................................. 41
4.2.2.3. Nghề trồng lúa nước và nuôi cá ............................................................. 44
4.2.2.4. Nghề trồng dâu nuôi tằm ........................................................................ 45
4.2.3. Các trò chơi dân gian................................................................................. 48
4.2.3.1. Tung còn (ném còn) ............................................................................... 48
4.2.3.2. “Tò mạc Lẹ” ........................................................................................... 50
4.2.3.3. Bắn nỏ..................................................................................................... 53
4.3.3.4. Múa sạp .................................................................................................. 54
4.3.3.5. Đi cà kheo............................................................................................... 56
4.2.4. Văn học giân gian của đồng bào Thái ....................................................... 57

4.2.5. Những làn điệu dân ca Thái ...................................................................... 61
4.3. Các hoạt động cho học viên tại nơi đi thực tế .............................................. 64
4.3.1. Nghe báo cáo văn hóa, phong tục tập quán tại địa phương ...................... 64
4.3.2. Tham quan và trải nghiệm một số nghề truyền thống tại các làng nghề
truyền thống......................................................................................................... 65
4.3.3. Trải nghiệm lễ cúng làm vía, chế biến ẩm thực Thái................................ 65
4.3.4. Trải nghiệm các trò chơi dân gian ............................................................. 65
4.3.5. Giao lưu văn hóa, văn nghệ....................................................................... 66
5. Tổng kết đánh giá, bài học kinh nghiệm và hướng phát triển của đề tài ........ 66
5.1. Tổng kết đánh giá ......................................................................................... 66
5.2. Bài học kinh nghiệm .................................................................................... 67
5.3. Hướng phát triển của đề tài .......................................................................... 67
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................... 67
1. Kết luận ........................................................................................................... 67
2. Kiến nghị ......................................................................................................... 69
2.1. Đối với UBND tỉnh Nghệ An và Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An........... 69
2.2. Đối với Trung tâm GDTX-HN Nghệ An ..................................................... 69


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

DTT

Dân tộc Thái

GVGD

Giáo viên giảng dạy

HV


Học viên

GD&ĐT

Giáo dục và Đào tạo

KNS&NK

Kỹ năng sống và năng khiếu

CBCC

Cán bộ công chức

GDTX

Giáo dục thường xuyên

GDNN-GDTX

Giáo dục nghề nghiệp-Giáo dục thường xuyên

GD&ĐT

Giáo dục và Đào tạo


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài

Chữ viết và tiếng nói là tài sản vơ giá của mỗi dân tộc, là hồn cốt văn hóa ẩn
chứa sức mạnh nội sinh to lớn. Bởi vậy việc bảo tồn và phát triển tiếng nói và
chữ viết của mỗi dân tộc có một vai trị vơ cùng quan trọng, góp phần bảo tồn
những giá trị văn hóa đã từng phải trải qua hàng vạn năm tiến hóa mới có được,
đồng thời thể hiện sự ưu việt trong chính sách bảo tồn và phát triển văn hoá đối
với các dân tộc thiểu số của Đảng và Nhà nước ta.
Như chúng ta đã biết, trong nhiều năm qua Đảng và nhà nước ta ln quan
tâm và thực hiện chính sách nhất qn về xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó khẳng định nhiệm vụ bảo
tồn, phát huy, phát triển văn hoá nghệ thuật của các dân tộc, làm giàu kho tàng
di sản văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nhất là bảo tồn tiếng nói,
chữ viết các dân tộc thiểu số là một nhiệm vụ thường xuyên của các cấp các
ngành.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nhấn mạnh: “Các dân tộc trong đại gia
đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế,
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ
dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống
tốt đẹp của các dân tộc…Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi
phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt
công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc”.
Thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước, trong nhiều năm qua tại Nghệ
An chương trình dạy “Tiếng nói và chữ viết dân tộc Thái hệ Lai-Tay” do Trung
tâm GDTX tỉnh Nghệ An (nay là Trung tâm GDTX-HN Nghệ An) biên soạn
theo Quyết định số 485/ QĐ-BNV ngày 12/5/2014, đã trở thành chương trình
học thiết thực cho đội ngũ CBCC cơng tác ở vùng đồng bào dân tộc Thái sinh
sống trên toàn tỉnh.
Trong khung chương trình bồi dưỡng tiếng nói chữ viết dân tộc Thái cho cán
bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang đang công tác trên địa bàn các

huyện miền núi học viên phải học đủ 450 tiết (trong đó 300 tiết thực học trên
lớp và 150 tiết là học qua trải nghiệm thực tế tại địa phương).

1


Để thực hiện đúng chương trình và mục tiêu đề ra của chương trình dạy học
thì học viên học ngồi việc được truyền thụ những kiến thức về chữ viết và vốn
từ vựng để giao tiếp thì cịn phải là người hiểu biết về bản sắc văn hóa dân tộc,
các phong tục tập quán, nghi lễ của đồng bào tại địa phương thông qua 150 tiết
trải nghiệm thực tế. Nhiều năm qua các lớp tiếng dân tộc Thái theo đề án của
SNV đã thực hiện nghiêm túc chương trình dạy học trên lớp cũng như học trải
nghiệm thực tế…Qua quá trình tổ chức dạy học cho học viên đi trải nghiệm thực
tế tại địa phương chúng tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả tổ
chức hoạt động trải nghiệm thực tế tại địa phương cho học viên các lớp tiếng
dân tộc Thái ” để các đơn vị tổ chức lớp bồi dưỡng tiếng nói dân tộc Thái cùng
tham khảo, trao đổi, rút kinh nghiệm và để cho chương trình học qua hoạt động
trải nghiệm thực tế ngày càng được nâng cao chất lượng và hiệu quả. Thơng qua
đó giúp học viên làm giàu vốn từ giao tiếp, hiểu được các phong tục tập quán
của đồng bào cũng như bản sắc văn hóa dân tộc, từ đó hạn chế những bất đồng
trong giao tiếp khi làm nhiệm vụ trực tiếp tại địa phương có đồng bào dân tộc
Thái sinh sống. Đồng thời tạo thuận lợi cho việc tuyên truyền những chính sách,
chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước về các vấn đề kinh tế, chính trị,
văn hóa xã hội; nhằm bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp về bản
sắc văn hóa dân tộc.
2. Phạm vi nghiên cứu
Tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao kiến thức, những hiểu biết cho học
viên về bản sắc văn hóa dân tộc Thái đồng thời nâng cao khả năng giao tiếp cho
học viên các lớp bồi dưỡng tiếng nói và chữ viết dân tộc Thái tại Nghệ An.
3. Phạm vi ứng dụng

Tất cả các lớp tiếng Thái tại của Trung tâm GDTX-HN tỉnh Nghệ An và có
thể được nhân rộng tại Trung tâm GDNN-GDTX các huyện, tỉnh có nhiệm vụ
bồi dương tiếng dân tộc Thái.
4. Mục đích nghiên cứu
Đề tài chủ yếu tập trung và việc giới thiệu bản sắc văn hóa dân tộc; cách
thức tổ chức hoạt động trải nghiệm thực tế tại địa phương cho học viên các lớp
tiếng dân tộc Thái. Những vấn đề đưa ra trong đề tài này là những kinh nghiệm
được đúc rút từ quá trình 07 năm Trung tâm GDTX-HN Nghệ An tổ chức hoạt
dạy học các lớp bồi dưỡng tiếng nói chữ viết cho cán bộ, công chức, viên chức,
lực lượng vũ trang đang công tác trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
2


Với mong muốn việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm thực tế tại địa
phương cho học viên các lớp tiếng dân tộc Thái ngày càng được nâng cao, cách
thức tổ chức hoạt động trải nghiệm thực tế tại địa phương được nhân rộng ở
nhiều đơn vị khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu các thông tư, quyết định của Bộ GD&ĐT của Sở GD&ĐT tỉnh
Nghệ An, các văn bản hướng dẫn thực hiện bồi dưỡng lớp tiếng nói chữ viết dân
tộc Thái làm sơ sở lý luận cho đề tài.
- Phương pháp tổng hợp văn bản, tài liệu, tư liệu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp tìm hiểu thực tế.
- Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm.
6. Tính mới của đề tài
Nghiên cứu đề tài này trên cơ sở đề tài năm 2020, phát triển và nâng cao
nhằm thực hiện hiệu quả hơn việc tổ chức hoạt động trải nghiệm thực tế cho
học viên tại địa phương. Tuy đã có nhiều bài viết liên quan đến việc tổ chức
giảng dạy các kỹ năng như nghe, nói, đọc viết cho học viên trên lớp học nhưng

chưa có bài viết đề cập đến cách thức tổ chức phương pháp tổ chức hoạt động
trải nghiệm thực tế cho học viên tại địa phương.
PHẦN II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Đảng và Nhà nước ta ln quan tâm và thực hiện chính sách nhất quán về
xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong đó khẳng định nhiệm vụ bảo tồn, phát huy, phát triển văn hoá nghệ thuật
của các dân tộc, làm giàu kho tàng di sản văn hóa của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam, nhất là bảo tồn tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số là một nhiệm
vụ thường xuyên của các cấp các ngành trong tỉnh.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nhấn mạnh: “Các dân tộc trong đại
gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế,
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ
3


dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống
tốt đẹp của các dân tộc… Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi
phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt
công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc”.
Nghị quyết Hội nghị TW5 (khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” trong đó nhấn mạnh đến
việc bảo tồn tiếng nói, chữ viết và các giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc.
Ngày 09 tháng 11 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số
38/CT-TTg về đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số đối với cán
bộ, công chức công tác ở vùng dân tộc miền núi. Trong Chỉ thị nêu rõ:” Yêu cầu
của công tác quản lý và phát triển kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng đòi hỏi
đội ngũ cán bộ, cơng chức cơng tác ở các vùng có đồng bào dân tộc thiểu số

phải biết tiếng dân tộc để giao tiếp và sử dụng trong công tác. Đặc biệt đối với
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện, xã, công chức nhà nước, sĩ quan, chiến sĩ
trong lực lượng công an, quân đội công tác ở các vùng dân tộc, miền núi. Đây là
một trong những nhiệm vụ quan trọng và yêu cầu bắt buộc.
Ngày 24 tháng 01 năm 2006, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ký Quyết định số
03/2006/QĐ – BGD&ĐT về ban hành chương trình khung dạy tiếng dân tộc
thiểu số (có chữ viết) cho cán bộ cơng chức công tác ở vùng dân tộc thiểu số.
Ngày 24 tháng 10 năm 2012, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành Thông tư
36/2012/TT-BGDĐT quy định về tổ chức dạy học, kiểm tra và cấp chứng chỉ
tiếng dân tộc thiểu số.
Quyết định số 771/QĐ-TTg ngày 26 tháng 6 năm 2018 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Bồi dưỡng kiến thức dân tộc đối với cán
bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2018-2025”.
Những năm gần đây , tỉnh Nghệ An đã ban hành nhiều văn bản liên quan
đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trong đó có đào tạo bồi dưỡng tiếng DT
thiểu số cho cán bộ CCVC.
Ngày 22 tháng 6 năm 2011, UBND tỉnh Nghệ An có Quyết định số 3477/
UBND.VX về việc giao cho Trung tâm GDTX tỉnh Nghệ An tổ chức bồi dưỡng
và cấp chứng chỉ tiếng DTTS cho CBCC và lực lượng vũ trang đang công tác tại
vùng dân tộc miền núi tỉnh Nghệ An.
4


Ngày 07 tháng 11 năm 2014, UBND tỉnh Nghệ An có Quyết định số
6147/ QĐ-UBND ban hành đề án Đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số cho
cán bộ công chức, viên chức công tác ở vùng dân tộc miền núi tỉnh Nghệ An,
giai đoạn 2015-2020.
Ngày 24 tháng 11 năm 2014, UBND tỉnh Nghệ An có Quyết định số
6548/ QĐ-UBND về ban hành tài liệu Bồi dưỡng tiếng dân tộc Thái hệ Lai-Tay
cho cán bộ công chức, viên chức công tác ở vùng dân tộc miền núi tỉnh Nghệ

An.
Kế hoạch số 07/KH-UBND ngày 05 tháng 01 năm 2018 của UBND tỉnh
Nghệ An nhấn mạnh đến năm 2020, 100% cán bộ giáo viên đang công tác tại
vùng dân tộc miền núi phải biết ít nhất 01 tiếng dân tộc thiểu số.
Sở Giáo dục Và Đào tạo cũng đã tham mưu cho UBND tỉnh Nghệ An mở
một số lớp bồi dưỡng cho cán bộ, giáo viên công tác tại vùng miền núi.
2. Cơ sở thực tiễn
Cùng với các tộc người khác, người Thái có nền văn hóa phong phú đa
dạng, các tác phẩm văn học dân gian đã được ghi chép lại bằng chữ Thái
cổ.Hiện nay có khoảng 3000 tác phẩm, còn chưa kể các tác phẩm đang được
truyền miệng rải rác ở các nhóm Thái khác nhau. Các tác phẩm văn học Thái đã
và đang được khôi phục như: Xồng chụ xỏn xảo, Khun Lú Nàng Ủa, Ý Đón, Ý
Đăm, Ý nọi Nang Xưa, Nàng Ý Tú, Nàng Phổm Hỏm…
Chữ Thái được nhân dân các vùng người Thái cư trú truyền dạy cho con
cháu theo con đường cha truyền con nối đến tận bây giờ, khơng có trường, lớp
học, khơng có sách giảng dạy, khơng có tài liệu hướng dẫn.
Để giữ gìn, bảo tồn và phát triển ngơn ngữ chữ viết trong thời kỳ hội
nhập, Đảng, Chính phủ và các Bộ, Ngành Trung ương đã ban hành nhiều văn
bản chỉ đạo việc truyền dạy và bảo tồn phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân
tộc thiểu số.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, chúng tơi những giáo viên dạy tiếng
dân tộc Thái ở địa bàn tỉnh Nghệ An có trách nhiệm trang bị cho các học viên
vốn kiến thức cơ bản, vững vàng để có thể giao tiếp những câu thông thường với
người dân tộc Thái. Chúng tôi luôn cố gắng vươn lên về chuyên môn nghiệp vụ,
học hỏi kinh nghiệm của các bậc thầy, các bậc nghệ nhân người Thái, tham khảo
5


chia sẻ kinh nghiệm với các đồng nghiệp, cũng như tìm tịi sáng tạo những
phương pháp giảng dạy có hiệu quả, hấp dẫn học viên, nhằm không ngừng nâng

cao chất lượng các giờ dạy. Về mặt lý luận thì giáo viên phải là người dạy cho
các học viên hiểu đúng, thực hành đúng những kiến thức trong chương trình học
thơng qua các kĩ năng: Đọc, Nói, Nghe, Viết. Trong quá trình giảng dạy tiếng
dân tộc Thái cho cán bộ cơng chức, viên chức thì các kỹ năng Đọc, Nói, Nghe,
Viết luôn được giáo viên giảng dạy triển khai một cách tuần tự, đan xen lẫn
nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau.Từ đó học viên chủ động trong giao tiếp và sử
dụng ngơn ngữ theo từng mục đích riêng của mình như: dịch thuật, viết tài
liệu…
Hiện nay, việc DẠY và HỌC tiếng dân tộc thiểu số, cũng giống như các
môn học khác trong trường phổ thông, đều đang diễn ra với sự đổi mới phương
pháp giáo dục, cải cách sách giáo khoa, ứng dụng công nghệ thông tin vào việc
dạy học, giảm tải nội dung chương trình học ...nhằm làm cho lượng kiến thức
trong tài liệu học (sách giáo khoa) phù hợp với đối tượng học (học viên) đồng
thời làm cho học viên tiếp cận được với nội dung kiến thức hiện đại.
Tuy nhiên, quy trình DẠY và HỌC khơng chỉ trên phạm vi ở lớp học đặt
tại các đơn vị đặt lớp. Như chúng ta đã biết thực tế nhiều năm qua trung tâm
GDTX tỉnh Nghệ An đã tổ chức dạy học cho rất nhiều lớp bồi dưỡng tiếng nói
và chữ viết dân tộc Thái tại các huyện; bên cạnh việc dạy chữ dạy tiếng thì
chương trình tổ chức hoạt động trải nghiệm thực tế cũng luôn luôn được quan
tâm. Với chương trình học 4-5 tháng/1 khóa học thì chương trình học thực tế
được chia làm hai đợt, mỗi đợt học thực tế tại địa phương là hai ngày. Tuy nhiên
đa số các đợt học thực tế trong những năm qua chỉ dừng lại ở mức giới thiệu
chung các hoạt động và tham quan tìm hiểu chứ học viên ít được trải nghiệm các
hoạt động cụ thể mà chủ yếu là xem và nghe.
Chính vì vậy mà trong đề tài này chúng tôi mong muốn vừa giới thiệu
được cho học viên về bản sắc văn hóa và học viên vừa được trải nghiệm nhiều
hơn với đồng bào qua các hoạt động thực tế; cùng hịa mình vào đời sống của bà
con trông bản, cùng thực hành với bà con các hoạt động tại địa phương để làm
giàu thêm vốn từ trong giao tiếp, vốn hiểu biết về văn hóa, bản sắc dân tộc…tạo
thuận lợi cho CBCC trong q trình cơng tác tại các địa phương có đồng bào

Thái sinh sống.
6


3. Những thuận lợi và khó khăn trong q trình tổ chức và kết quả đạt
được
3.1. Thuận lợi
Trung tâm GDTX tỉnh Nghệ An đã nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát
sao của UBND tỉnh, Sở Nội vụ, Sở GD&ĐT trong việc triển khai các văn bản
liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trong đó có đào tạo bồi dưỡng
tiếng DT thiểu số cho cán bộ CCVC.
Với Đề án Đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số cho cán bộ công
chức, viên chức công tác ở vùng dân tộc miền núi tỉnh Nghệ An, giai đoạn 20152020 (theo Quyết định số 6147 QĐ-UBND ngày 07/11/2014 UBND tỉnh Nghệ
An), mỗi năm Trung tâm được giao chỉ tiêu từ 07-08 lớp tiếng Thái được cấp
kinh phí đào tạo. Sở Giáo dục & Đào tạo cũng đã tham mưu cho UBND tỉnh
Nghệ An mở một số lớp bồi dưỡng cho cán bộ, giáo viên công tác tại vùng miền
núi. Vì vậy số học viên của Trung tâm ln được ổn định trong thời gian vừa
qua.
Với việc nhận thức rõ được tính cấp thiết và lâu dài của cơng tác đào tạo,
bồi dưỡng tiếng dân tộc, các địa phương đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các
bộ, công chức, viên chức của đơn vị được đi học tiếng dân tộc thiểu số. Cán bộ
CCVC công tác ở các vùng dân tộc miền núi cơ bản đã xã định được việc học
tập tiếng DTTS là nhu cầu đồng thời là nhiệm vụ
Người học là CBCCVC là những người có trình độ nhận thức cao nên có
ý thức trong việc học tập, học có mục đích rõ ràng, có kinh nghiệm giao tiếp, có
kiến thức xã hội phong phú... Học tự nguyện, vừa làm vừa học nên người học
tâm lý thoải mái tạo nên sự thuận lợi cho giáo viên giảng dạy.
Trong nhiều năm qua,được sự chỉ đạo sát sao của SGD, BGĐ Trung tâm
và sự nhiệt huyết của GVGD tiếng dân tộc Thái của Trung tâm GDTX tỉnh và
sự phối phợi chặt chẽ của đơn vị đặt lớp (trung tâm GDTX các huyện) những

đợt học thực đã đạt được nhiều kết quả cao. Đặc biệt hơn nữa là sự ủng hộ nhiệt
tình và tạo mọi điều kiện tốt của địa phương nơi lớp đi học thực tế. chính quyền
đại phương cũng như bà con thôn bản rất hiếu khách, nhiệt tìnhvà sãn sàng tạo
mọi điều kiện tốt nhất cho lớp học được tìm hiểu văn hóa bản sắc dân tộc mình,
họ rất vui và phấn khởi khi được giới thiệu bản sắc văn hóa của họ cho đồn, họ
cùng hịa mình vào các hoạt động chung của lớp để giao lưu và để cho học viên
được học hỏi thêm về ngơn ngơn ngữ và văn hóa của họ.
7


3.2. Khó khăn, hạn chế
- Bên cạnh những thuận lợi trên thì trong q trình chúng tơi đưa học viên đi trải
nghiệm thực tế cũng gặp khơng ít những khó khăn nhất định như sau:
Nghệ An là 1 tỉnh có diện tích lớn, có mười huyện miền núi và đồng bào
các dân tộc sinh sống rải rác dọc khắp hai tuyến đường miền tây Nghệ An, Giáo
viên giảng dạy tiếng dân tộc thiểu số rất vất vả trong đi lại để về các huyện
miền núi giảng dạy cho cán bộ, cơng chức, viên chức..
Do địa bàn rộng, đi lại khó khăn như vậy nên việc thực hiện dạy tiếng
DTTS cho CBCC chỉ được thực hiện tại các trung tâm huyện, thành phố, trong
khi nhu cầu cấp thiết là đội ngũ CBCC và giáo viên đang công tác tại các xã
vùng sâu, vùng cao thì khơng có điều kiện được đào tạo bồi dưỡng.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho cơng tác dạy học cịn chưa đáp
ứng u cầu. Tài liệu bổ trợ, từ điển tiếng Thái chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được
so với nhu cầu của việc dạy và học. Mỗi địa phương lại có những phương ngữ
khác nhau nên gây khó khăn cho người dạy và người học..
Trong lớp học trình độ học viên khơng đồng đều, lớp học thường có cả
người Thái lẫn người Kinh, người Kinh không biết cả tiếng lẫn chữ, người Thái
thành thạo tiếng nhưng lại không biết chữ. Sự không đồng đều đó cũng gây khó
khăn cho việc dạy học. Đối với các học viên đều là người trưởng thành, các thói
quen ngơn ngữ tiếng mẹ đẻ đã ổn định gây khó khăn cho việc học ngơn ngữ thứ

hai về nghe, phát âm, viết đến tư duy diễn đạt, phản xạ ngơn ngữ chậm, khó hình
thành các kỹ năng ngơn ngữ mới.
Học viên cơ bản là CBCC công tác trên nhiều lĩnh vực khác nhau đòi hỏi
vốn từ vựng phải nhiều, phức tạp, nhiều thuật ngữ chuyên ngành trong khi khả
năng đáp ứng của các tài liệu học không bao quát nổi.
Các cơ quan đơn vị chưa xây dựng kế hoạch cho CBCC tham gia các lớp
đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc. Vẫn cịn một số cán bộ, cơng chức ở địa
phương mục đích học tiếng DTTS để chuẩn hóa lấy chứng chỉ thay thế chứng
chỉ ngoại ngữ khi nâng hạng, nâng ngạch...nên chưa thực sự quan tâm đến chất
lượng và quy chế bồi dưỡng.
Thời gian đào tạo, bồi dưỡng tiếng nói và chữ viết dân tộc Thái cịn rất
ngắn (chỉ khoảng 3 đến 6 tháng), số tiết học ít nên chất lượng học tập chưa cao.

8


Địa điểm thực tế: chủ yếu là các bản, xã vùng sâu vùng xa của các huyện
miền núi vì ở những nơi đó mới cịn tồn tại nhiều giá trị văn văn hóa của đồng
bào Thái như: các làng nghề truyền thống, các phong tục tập quán xưa..v.v. Nếu
như chọn địa điểm các bản, xã gần và thuận lợi thì bản sắc văn hóa sẽ khơng cịn
giữ nhiều nét cổ truyền bởi đã bị mai một đi nhiều vì sự giao thoa văn hóa giữa
đồng bào Thái và các dân tộc khác, đặc biệt là dân tộc Kinh. Vì vậy, học viên sẽ
không được học tập và tiếp xúc được nhiều bản sắc văn hóa cũng như khơng có
cơ hội nhiều trong việc giao tiếp để hoàn thiện vốn từ, vốn ngơn ngữ dân tộc
Thái. Bên canh đó, địa hình miền núi xa xôi, đường vào bản giao thông không
thuận lợi nên gây khó khăn cho hành trình đi lại, di chyển của giáo viên và học
viên.
3.3. Kết quả đạt được
Căn cứ vào kết quả tổng hợp thì đối tượng các lớp được bồi dưỡng theo
Kế hoạch của Sở GD&ĐT, của Sở Nội vụ theo từng năm là khá lớn. Tuy nhiên,

do vấn đề về kinh phí bồi dưỡng nên các hoạt động triển khai đi thực tế chỉ tổ
chức được cho các lớp của Sở Nội vụ. 100% các học viên được Trung tâm
GDTX tỉnh Nghệ An phối hợp cùng đơn vị mở lớp tổ chức cho đi thực tế tại các
địa phương nơi có đồng bào Thái sinh sống.
Bảng tổng hợp số lượng học viên bồi dưỡng qua các năm học
Năm 20112013

Năm
2014

Năm
2015

Năm
2016

Năm
2017

Năm
2018

Năm
2019

Năm
2021

Năm
2020


LỚP
Số
lớp

Số
HV

Số
lớp

Số
HV

Lớp BD
theo KH
củaSở
GD&ĐT

Tổng
số học
viên

Số
lớp

Số
HV

Số

lớp

Số
HV

Số
lớp

Số
HV

Số
lớp

Số
HV

Số
lớp

Số
HV

Số
lớp

Số
HV

Số

lớp

Số
HV

2

96

3

140

2

100

5

261

27

1461

02

89

3


150

2297

7

310

7

315

7

315

8

360

9

405

7

315

9


405

4333

Lớp BD
theo đề án
của Sở

44

1863

01

45

Nội vụ

9


4. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động trải nghiệm thực
tế cho học viên các lớp bồi dưỡng tiếng dân tộc Thái
4.1. Công tác chuẩn bị
4.1.1. Công tác chuẩn bị đối với giáo viên giảng dạy và phịng Bồi dưỡng
nâng cao trình độ
- Chuẩn bị nội dung (bao gồm lên Kế hoạch về thời gian, kinh phí, các thức tổ
chức, liên hệ địa phương nơi dự định sẽ tổ chức đợt thực tế) và chương trình
khung cho các đợt học trải nghiệm thực tế.

- Giáo viên giảng dạy hai tuần cuối tại lớp phối hợp với phịng Bồi dưỡng (là
phịng có chức năng nhiệm vụ quản lý, tổ chức dạy học các lớp tiếng dân tộc
thiểu số) có trách nhiệm, nhiệm vụ hướng dẫn Ban cán sự lớp và triển khai cho
tất cả học viên cách thức, chương trình, nội dung của đợt học thực tế trải nghiệm
tại địa phương.
4.1.2. Công tác chuẩn bị về việc phối hợp giữa các đơn vị, bộ phận
Để đợt học trải nghiệm thực tế đạt hiệu quả và chất lượng thì khơng thể
thiếu sự phối hợp chặt chẽ và nhuần nhuyễn giữa các bộ phận liên quan như:
lãnh đạo Trung tâm GDTX, giáo viên giảng dạy, ban cán sự lớp, đơn vị đặt lớp,
địa phương nơi được chọn để tổ chức cho lớp đi học thực tế.
+ Đối với đơn vị đặt lớp: phòng BD cần trao đổi và gửi kế hoạch đi học
thực để họ phối hợp với ban cán sự thống nhất thời gian, lựa chọn địa điểm và
nội dung chi tiết ngày học thực tế.
+ Đối với lớp học: Ban cán sự lớp phối hợp với đơn vị đặt lớp để tìm hiểu
và liên hệ địa điểm và tiền trạm địa điểm đi học thực tế trước 1 tuần, trong quá
trình liên hệ và đi tiền trạm phải chốt được các yêu cầu của lớp học, của chương
trình thực tế đối với địa phương (có cam kết rõ ràng). Lớp phải phối hợp với
phòng Bồi dưỡng nâng cao trình đọ Trung tâm GDTX tỉnh để thiết kế và làm
market cho đợt thực tế.
Học viên 100% phải tham gia đầy đủ, nhiệt tình. Nếu có học viên nào có
lý do đặc biệt khơng tham gia được thì phải viết giấy xin phép và có xác nhận
của đơn vị đặt lớp.
Học viên sau khi tham gia học thực tế phải viết bài thu hoạch nạp về cho
giáo viên giảng dạy theo đúng yêu cầu của chương trình.
10


+ Đối với địa phương (nơi lớp chọn làm địa điểm trải nghiệm thực tế):
Sau khi ban cán sự của lớp học đi tiền trạm và lựa chọn địa điểm thì địa phương
(lãnh đạo xã, trưởng bản...v.v.) nơi lớp học sẽ đến phải có những cam kết nhất

định về việc đảm bảo và đáp ứng đầy đủ nội dung chi tiết chương trình do lớp
yêu cầu.
4.2. Chương trình trải nghiệm thực tế tại địa phương
4.2.1. Tìm hiểu phong tục, tập quán của đồng Thái tại địa phương
-Với nội dung này trước hết học viên được nghe báo cáo viên của địa
phương nơi học viên đến thực tế trình bày (báo cáo viên là già làng, trưởng bản,
là người có vốn hiểu biết văn hóa, bản sắc dân tộc sâu sắc, là người có nhiều
kinh nghiệm trong cơng tác cũng như trong cuộc sống).
Nội dung báo cáo phải cơ bản đảm bảo các nội dung sau:
- Khái quát chung: Dân tộc Thái là một trong 54 dân tộc anh em có dân
số đông thứ 3 ở Việt Nam với dân số rải rác khắp 63 tỉnh thành trên cả nước.
Chủ yếu đồng báo Thái sinh sống quần cư ở các tỉnh vùng cao của 7 tỉnh Lai
Châu, Điện Biên, Yên Bái, Sơn La, Hịa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An. Cũng như
các đồng bào dân tộc thiểu số khác, dân tộc Thái có những nét phong tục tập
quán riêng.
4.2.1.1. Phong tục về nhà ở
Người Thái có tục ở nhà sàn. Hình ảnh những ngôi nhà sàn làm chủ yếu
bằng gỗ cao ráo, thống mát khơng chỉ là nếp sống quen thuộc và là nét đặc
trưng riêng của dân tộc này.
Từ xa xưa, người Thái chưa biết làm nhà, được một con rùa về báo mộng
và bảo rằng: “nhìn vào hình dáng của tơi mà làm”. Từ đó, nhà sàn của người
Thái được hình thành với 4 chân là 4 cột trụ, vảy rùa là ngói lợp. Nhà sàn
thường nằm trên mặt bằng hình chữ nhật, có lan can chạy trước hoặc xung
quanh nhà với 4 mái vươn cao đều đặn. Trải qua nhiều năm phát triển, ngày nay,
nhà sàn của người Thái đã được cải tạo, đổi mới giúp họ có thể thích nghi được
với điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên, trở thành một nét truyền thống gắn bó
với đời sống đồng bào qua hàng nghìn năm.

11



Nhà sàn của người Thái
Ngôi nhà sàn của người Thái vừa trang nhã, vừa chắc chắn: “Nhà tốt dựng
nơi cao ráo/nhà đẹp dựng giữa mường/gió to thổi khơng xiêu/bão lớn khơng lay
động”. Nhà sàn được trang trí nhiều hoa văn hoạ tiết tinh xảo trên bậu cửa sổ,
trên các tấm ván hình răng cưa làm chấn song của sổ, “khau cút” của nhà sàn
nhóm Thái Thanh đã trở thành tiêu chí về vẻ đẹp của ngơi nhà sàn người Thái cổ
xưa. “Khau cút” là hai tấm ván đóng chéo nhau hình chữ X trên địn nóc trước
hết để chắn gió cho mái tranh hai đầu hồi nhà. Những gia đình q tộc xưa cịn
làm thêm bơng sen cách điệu ở giao điểm hai tấm ván và những hình trăng
khuyết hướng vào nhau so le trên “khau cút”. Giải thích về biểu tượng “khau
cút” có nhiều ý kiến khác nhau như: Đó là cặp sừng trâu cách điệu, biểu tượng
của một nền văn minh lúa nước, hoặc đó là những búp cây guột có nhiều ở miền
núi phía tây Nghệ An, hay gắn với cuộc thiên di tìm miền đất hứa của người
Thái, anh em ln nhớ về nhau… Dù có cách giải thích thế nào, thì khi bắt gặp
hình ”khau cút” trên nóc nhà sàn, là mỗi người Thái lại thêm ấm lòng, nhớ về
anh em, bản mường yêu dấu. Trên bậu cửa sổ thường chạm hình đơi thuồng
luồng, linh vật làm chủ sông, suối, biểu tượng của sức mạnh và gia đình hạnh
phúc. Trên các chấn song cửa sổ là các hoa văn, hoạ tiết mô phỏng thiên nhiên
theo hình đối xứng hoặc lặp lại. Đó là những hình thoi như quả trám, hoa ban,
búp cây guột… Từ bếp dành cho người già đến hết cầu thang dành cho nam giới
12


gọi là ”quản”. Đây là nơi dành riêng cho đàn ông, phụ nữ không được đến khu
vực này, trừ một số trường hợp đặc biệt. Nơi đây có gian thờ tổ tiên – ”hỏng
hóng” và cột thiêng – ”sau hẹ”. Trên cột thiêng treo hình thần rùa bằng gỗ, ba
bơng lúa – ”sam huống khẩu” và ba nhánh rau thì là – ”sam hóm si la”… Ngồi
ý nghĩa có tính biểu tượng của tơ tem giáo thì đây cịn mang bóng dáng của
thuyết thiên – địa – nhân.

Người Thái Nghệ An ở nhà sàn, thường tập trung nơi gần nguồn nước để
sinh sống. Họ sống thành từng cụm dân cư với quan niệm “ Cốn mí họ, cọ mí
đỏn” ( Người có họ, cây cọ có khóm). Thể hiện rõ ý thức cộng đồng trong cuộc
sống của đồng bào Thái.
Nhà ở của họ trước đây thường có nhiều gian (Từ 5 đến 7 gian), vì có
nhiều thế hệ cùng chung sống trong một gia đình. Cấu trúc các gian như sau:
“Hong chan” (Gian ngoài sàn) là nơi đặt cầu thang lên, là nơi mọi người có thể
treo các tư trang : nó, mũ , dép… khi sắp bước vào nhà; Tiếp là “Hong nọc”
(gian ngoài), là nơi đặt bàn thờ ở góc phía trên, gian này để tiếp khách, khách
q, những người cao tuổi sẽ được bố trí ngồi gian này; Tiếp theo là “hong
cáng” (Gian thứ) và có nhiều gian thứ, tùy theo gia đình đơng hay ít. Trong các
gian này phía trên sẽ thưng lại đặt các giường ngủ gọi là “ Xm”, phía dưới để
một khoảng lớn cho phụ nữ sinh hoạt, cũng là lối đi vào gian bếp. Chính là
“Hong táu phi”. Trong gian bếp, có bếp lửa và các đồ dung để nấu nướng. Trên
bếp lửa có gác bếp 2 tầng: Tầng gần bếp gọi là “Xà” để sấy khô các loại thức ăn
dự trữ như thịt, cá…. Tầng cao hơn gọi là “Than”, để cất các loại hạt giống tránh
mối mọt… cuối cùng là “hong xẹp” hoặc “Táng hơ”. Đây là gian cuối, cũng có
một cầu thang nưã để lên xuống. và chứa các đò dùng khác của phụ nữ. Người
nhà đi làm về, đang mặc quần áo xộc xệch, không lên thẳng cầu thang phía
ngồi, mà lên cầu thang này để rửa ráy, thay đồ chỉnh tề xong mới ra ngoài. Đặc
biệt khi có khách đến,nhất định phải ăn mặc chỉn chu mới được chào khách.
Cầu thang lên có 7, 9 hoặc 11 bậc vì người Thái quan niệm số lẻ là số
may mắn, bền vững.
Phụ nữ là con dâu không được ăn cơm, ngồi, nằm ngủ.ở “Hong nọc”,
không được ngồi lê la bậc cửa, bậc cầu thang, khơng chải tóc vướng vào cửa sổ
vì người Thái quan niệm: các thế hệ ơng bà, tổ tiên sẽ đứng trên các bậc cầu
13


thang, bậc cửa để trông nhà, nếu ngồi ở các vị trí đó thì sẽ phạm thượng; cửa sổ

là mắt của ngơi nhà, nếu để tóc vướng mắt sẽ bị mờ, không ăn nên làm ra;
4.2.1.2. Phong tục trộm vợ
Nếu như đồng bào Mơng có tục “cướp vợ” thì đồng bào Thái tại Nghệ An
cũng có tục “trộm vợ”. Tục trộm vợ là hình thức hơn nhân khá kỳ lạ, hôn nhân
“đi tắt” của đồng bào Thái nơi đây. Lý do có tục trộm vợ là vì ngày trước gia
đình các cô gái Thái thường thách cưới với nhiều lễ vật như nhiều nén vàng bạc,
trâu, bò, ruộng vườn…v.v nên nhiều gia đình nhà trai nghèo thường khơng có đủ
lễ vật nên để hợp lý cho những gia đình nghèo muốn lấy vợ từ đó người Thái có
tục trộm vợ. hoặc những trường hợp khi tình yêu của người con trai và người
con gái bị một trong hai bên gia đình ngáng trở hoặc do cơ gái bị ép dun.

Đám cưới của một đôi trai gái Thái ở Quỳ Hợp, Nghệ An. Dù bị "trộm"
nhưng cuộc hôn nhân sẽ được xác lập bằng nghi thức đầu tiên là "ăn chung
mâm, uống chung bình rượu cần" trong lễ cúng ma nhà chàng trai.
Trong khởi thủy của người Thái Nghệ An, trộm vợ thường được xem là
"cứu cánh" của những chàng trai nghèo không đủ tiền để đáp ứng lời thách cưới
thường rất tốn kém của nhà cơ gái hoặc tình u đôi lứa bị ngăn cản.
14


Việc “trộm vợ” thường được sự đồng thuận của cô gái để đưa cuộc hơn
nhân vào tình huống “chuyện đã rồi”. Khi đó, chàng trai sẽ bị “phạt vạ” nhưng
khoản phạt vạ này sẽ nhỏ hơn rất nhiều so với thách cưới theo phong tục. Tuy
nhiên, để đi được đến hôn nhân, cả hai người sẽ phải thực hiện nhiều nghi lễ
theo phong tục. Theo một số nghệ nhân người Thái, tục "trộm vợ" được ví như
một sự vượt rào, bứt phá, một sự phản kháng công khai và mạnh mẽ nhất của
trai gái Thái trước những hà khắc của phong kiến ngày xưa, để mưu cầu hạnh
phúc cho bản thân và người mình yêu thương. Để "trộm vợ", chàng trai phải lén
đặt vài lá trầu, hai trái cau và một chai rượu trắng lên bàn thờ nhà cô gái và chờ
thời điểm thích hợp để đưa cơ gái “xuống sàn”, thường là vào lúc rạng sáng.

Cuộc trộm vợ có khi còn nhận được sự giúp đỡ của những người bạn thân của
cô gái.
Cuộc hôn nhân của đôi trai gái sẽ được xác lập bước đầu tiên khi họ “ăn
cơm, uống rượu chung” trong lễ cúng ma nhà chàng trai. Nếu cơ gái thuận tình
với cuộc hơn nhân này bằng cách ăn cơm chung mâm, uống chung bình rượu
cần, cơ sẽ được “tẳng cẩu” (bới tóc cao lên đỉnh đầu).
Cuộc hơn nhân chính thức có tính pháp lý về mặt tâm linh là khi hai
người “chung chăn, chung đệm” dù chưa chính thức “ngủ chung” với nhau. Tuy
nhiên để được xem là người “sống nhà chồng nuôi, chết nhà chồng chơn” thì dứt
khốt phải có đám cưới diễn ra.
Đám cưới chỉ diễn ra khi được sự đồng thuận của nhà gái sau khi đã nhận
“nộp phạt” của nhà chàng trai, gồm 1 nén bạc trắng, 1 đơi vịng tay bằng bạc và
1 con trâu đực sừng nhú ngang tai. Thường thì sẽ xảy ra “mặc cả” giữa hai bên
vì phía nhà gái sẽ thách cưới cao để chứng tỏ con gái mình có giá. Trong khi đó,
nhà trai sẽ dựa vào “chuyện đã rồi” để giảm bớt các khoản thách. Đó chỉ là phần
thủ tục bởi hai bên sẽ thơng cảm cho nhau để cuộc hôn nhân của đôi trẻ được
thuận lợi.
“Trộm vợ” là một hình thức hơn nhân đi tắt của đồng bào Thái. Mặc dù
vậy, người Thái ở Nghệ An rất tôn trọng quyết định của người con gái. Trong
trường hợp bị “ép duyên”, khi bị “trộm” về, cơ gái khơng chịu ăn chung mâm,
uống chung bình rượu cần trong lễ cúng ma nhà chàng trai thì cuộc hơn nhân đó
cũng khơng thành. Tuy nhiên, hình thức hơn nhân tốt đẹp và nhân văn này gần
15


đây đã bị biến tướng, gây nên nhiều hệ lụy, đặc biệt là khi các cô gái ở độ tuổi
rất trẻ, nhiều em đang ngồi trên ghế nhà trường.
4.2.1.3. Phong tục chọc sàn
Dậy đi em, dậy đi em ơi!
Ra đầu sàn để ngắm trăng sao

Ra đầu sàn để ngắm sao nhấp nháy
Ði uyển chuyển cầm ghế ngồi chung.
Đây là những câu hát quen thuộc trong tục chọc sàn của người Thái.
Chúng thể hiện tình yêu và lời ngỏ cưới của chàng trai gửi gắm tới những cô gái
Thái.
Tục chọc sàn là những lời tỏ tình, giao dun của các đơi trai
gái dân tộc Thái khi đến tuổi "cập kê". Các đôi trai gái đã gặp
nhau, quen biết nhưng để dẫn đến mối tình “cơng khai” hay xa
hơn là chuyện đám cưới, chàng trai sẽ thực hiện phong tục chọc
sàn.
“Chọc sàn” thường bắt đầu khi mùa vụ xong xi, thóc ngơ
về nhà. Vào thời điểm mọi người đã ngủ hết ( khoảng gần 11 - 12
giờ đêm) chàng trai tìm đến nhà cô gái bằng một đoạn gỗ nhỏ dài
40 - 50cm dùng để gõ lên sàn nơi cô gái nằm để báo hiệu mình
đang đợi bên dưới.
Theo tục người Thái gian đầu thờ tổ tiên, gian tiếp bố mẹ
ngủ, rồi đến gian con trai, con gái nhưng cũng có trường hợp
chàng trai chọc nhầm sàn. Bên cạnh đó, chàng trai cịn mang theo
những nhạc cụ sáo, nhị, tính tẩu và đàn mơi. Chàng thổi sáo, đánh
đàn tính tẩu gửi gắm lời tỏ tình đến người con gái mình thích qua
những câu hát dân gian. Cơ gái có ý đáp trả thì hỏi mấy câu thăm
dị qua sàn xuống dưới. Nếu cảm thấy ưng cái bụng thì cơ gái sẽ
mở cửa mời chàng trai vào nhà hoặc đi ra ngoài sân cùng nhau
tâm sự đến gần sáng. Sau đêm ấy, về sau cơ gái chỉ cần nghe tiếng
đàn tính tẩu, giọng hát là nhận ra chàng trai đến tìm mình. Sau ba
16


bốn đêm chuyện trị như thế thì chàng trai hỏi cơ gái có nhất trí
làm vợ mình khơng. Cơ gái đồng ý, chàng trai về thưa chuyện với

bố mẹ đến hỏi cưới.

Chàng trai chọc sàn nhà cô gái
Một nét đẹp văn hóa trong tục chọc sàn là khi khơng được
người con gái đáp lại, chàng trai cũng không bao giờ oán trách.
Tưởng chừng như chọc sàn chỉ là một cách để trai gái có thể gặp gỡ,
nhưng ẩn sâu trong đó là một nét văn hóa trong giao tiếp. Khi chọc sàn, người
con trai không làm ầm ĩ ảnh hưởng đến người khác, khi không được người con
gái đáp lại, họ cũng khơng bao giờ ốn trách.
Chọc sàn thể hiện được sự tơn trọng giữa hai bên khi cuộc trị chuyện của
họ khơng đi đâu xa mà nói chuyện ngay dưới nhà vì người con trai tơn trọng giữ
gìn cho người con gái. Và người con gái cũng thể hiện được sự trân trọng, cái
duyên khi nói chuyện.
Từ lâu, chọc sàn vẫn luôn là sợi chỉ đỏ chắp nối cho bao nhiêu cuộc hơn
nhân hạnh phúc. Vì thơng qua chọc sàn họ có cơ hội tìm hiểu về nhau thật kĩ.
17


4.2.1.4. Phong tục về tổ chức lễ Xăng Khan
Đồng bào dân tộc Thái thường nói với nhau, trong đời sống của họ không
thể thiếu lễ Xăng Khan. Trải qua hàng trăm năm tồn tại và có những thay đổi
phù hợp với từng giai đoạn phát triển, lễ Xăng Khan vẫn là món ăn tinh thần
quan trọng trong đời sống sinh hoạt văn hóa của cộng đồng dân tộc Thái.
Lễ Xăng Khan có ý nghĩa quan trọng trong đời sống cộng đồng dân tộc
Thái ở miền Tây xứ Nghệ, là sinh hoạt văn hóa khơng thể tách rời trong đời
sống tinh thần, là dịp để người Thái thể hiện lòng thành kính, biết ơn đối với các
bậc thần linh, tổ tiên, dịp để bà con dân bản tạ ơn công lao của các ơng mo những người đóng vai trị kết nối giữa đời sống thực tại của bản làng và đời sống
tâm linh - nơi hiện hữu của thần sông, thần núi, thần rừng và ông bà tổ tiên.
Không ai nhớ chính xác nghi lễ Xăng Khan có từ bao giờ. Các già làng
nói rằng, khi “phèn đín tọ bở ba, phèn phà to kết hói, nơ phu nơ pạ to họi cày

thường, cà mí xăng khản”, nghĩa là: Khi mặt đất bằng lá đa, bầu trời bằng vảy
con ốc, núi rừng bằng dấu chân con gà ri thì đã có Xăng Khan.

Lễ Xăng Khan - ngày hội tưng bừng của đồng bào dân tộc Thái
18


Lễ Xăng Khan có rất nhiều nghi thức, nghi lễ như: Lễ “Pay toọc tang” (đi
kiếm cây cọ tang), lễ đón “mo khu”, “mo bạn” (mo thầy, mo bạn), lễ “xạc húa”
(gội đầu), lễ “khạy đản” (lễ mở màn), lễ “xơ ký n” (cúng cầu n)… Ngồi ra,
cịn có rất nhiều trò diễn, trò vui. Cứ sau mỗi nghi lễ lại có một trị diễn minh
họa cho nội dung của nghi lễ đó, mơ phỏng lại các hành vi của các thần linh. Hết
nghi lễ, trò diễn này lại đến nghi lễ, trò diễn khác, cứ như thế cho đến lúc tan
hội. Ngồi các trị diễn, trong lễ hội Xăng Khan cịn có nhiều hình thức nghệ
thuật trình diễn dân gian như múa, hát nhuôn, hát xuối, khắc luống, đánh cồng
chiêng, gõ boong bu, thổi khèn…
Lễ Xăng Khan vừa mang đậm giá trị lịch sử, gắn liền với sự hình thành và
phát triển của tộc người Thái, do con người sáng tạo và giữ gìn, trao truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác và đời này qua đời khác. Trải qua hàng trăm
năm, lễ hội Xăng Khan là nơi quy tụ tâm thức cộng đồng với vẻ đẹp của văn hoá
tâm linh, văn hoá nghệ thuật và những phong tục, tập quán cổ truyền rất đặc
biệt; là nơi thể hiện những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, mang tính gắn kết cộng
đồng rất cao của tộc người Thái, đã tạo ra một bản sắc văn hóa riêng biệt khơng
thể lẫn lộn với bất kỳ dân tộc nào.
Ngoài ra, giá trị lịch sử của lễ hội thể hiện qua những bài cúng của các
thầy mo là những trường ca, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích bằng văn vần,
kể về thuở khai bản lập mường, về những người anh hùng dân tộc Thái, về cuộc
sống thần linh, ông bà, tổ tiên của người Thái. Đây cũng là những tư liệu q để
tìm hiểu về lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc Thái; đồng thời nó cũng là
một lễ hội tín ngưỡng dân gian độc đáo của người Thái ở Nghệ An.

Có thể thấy rằng, sinh hoạt lễ Xăng Khan vẫn là một nhu cầu lớn của
đồng bào Thái ở Nghệ An hiện nay. Vì vậy, cần được quan tâm nghiên cứu đầy
đủ, nghiêm túc để loại bỏ những yếu tố không phù hợp với thời đại, yếu tố mê
tín dị đoan; đồng thời kế thừa và phát huy được những yếu tố tích cực, tốt đẹp
của lễ Xăng Khan để đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa tâm linh của đồng bào,
góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Với giá trị lịch sử, văn hóa, ngày 11/9/2017, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch đã công nhận lễ Xăng Khan của đồng bào dân tộc Thái (tỉnh Nghệ An) là 1
trong 7 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
19


4.2.1.5. Phong tục về trang phục truyền thống
Ở tỉnh Nghệ An chúng ta có 3 nhóm người Thái, nhưng tiêu biểu là hai
nhóm Thái: nhóm Tày Thanh (Thái đen) và Tày mường (Thái trắng). Trang
phục đàn ông Thái rất đơn giản, họ mặc những chiếc áo thổ cẩm màu tối, hoặc
đồ bộ màu đen, hoặc màu chàm. Trong trang phục truyền thống, nam giới mặc
quần áo thổ cẩm màu chàm xanh hoặc chàm đen, nhưng vài chục năm gần đây
nam giới đã chuyển sang mặc âu phục là chủ yếu.
Phụ nữ Thái hiện nay vẫn gắn bó với trang phục truyền thống: áo cỏn màu
trắng, xanh hoặc đen bó sát thân với hàng khuy bạc trắng, váy dài đen quấn
suông hoặc được thêu viền hoa văn ở gấu. Cùng với váy, áo phụ nữ Thái Đen
cịn có chiếc khăn Piêu thêu hoa văn bằng nhiều loại chỉ màu rất sặc sỡ và đẹp.
Đồ trang sức của phụ nữ chủ yếu là vòng bạc, xuyến bạc đeo ở cổ và tay; hoa tai
bằng bạc hoặc vàng.
So với đàn ông, trang phục phụ nữ Thái cầu kì hơn. Người Thái có câu: ”
Cày đỉ nắm khốn, cốn đỉ nắm chường dong”- Bởi vậy, chị em rất chăm chút cho
bộ trang phục của mình.
Hoa văn trên váy áo của đồng bào Thái bắt nguồn từ cuộc sống. Hoa văn
của mỗi nhóm dân tộc thái đều mang những nét đặc trưng riêng về bố cục, màu

sắc, lối trang trí tạo nên sự phong phú đa dạng, nhưng chúng lại thể hiện sự
thống nhất cao về tính hình học và cách điệu hố. Các hoa văn này phản ánh thế
giới quan về vũ trụ, thiên nhiên và con người, đó là các hình hoa lá, động vật,
mặt trời, các hình khối, đường nét khác nhau… với nhiều màu sắc sặc sỡ, kết
hợp tinh tế thể hiện mối quan hệ gắn bó bền chặt giữa con người với thiên nhiên.
Với các mẫu thêu đa dạng : Mạc cướm (Quả trám); Ken kháu (Hạt gấc); Tín pủ
(Chân cua), Tỉn khệp ( Chân rết), Tố nộc ( Con chim), Tố Bơ ( con bướm), Tố
quáng (Con nai), Tố xứa (Con hổ) , Tả nghến (mặt trời), Tố ngược (Con rồng);
tố bơ (con bướm)......
+ Trang phục Thái Tày Thanh: áo cóm( áo ngắn) màu đen, cũng cổ tàu có họa
tiết thêu 2 bên hàng cúc. Kết hợp với váy có phần đầu màu đỏ, thắt lưng màu
trắng làm bằng một cuôn sợi bện lại. Khi mặc người phụ nữ sẽ kéo phần đầu đỏ
lên cao, buông áo vừa chấm thắt lưng, làm sao để phô thắt lưng to bản và thân
đỏ của váy. Vì chuẩn mặc váy của họ là " Húa léng éng phe" (Đầu váy đỏ, thắt
lưng to bản).
20


Chân váy có hai loại:
+"Xín mục" là loại váy mà thân có những đường kẻ ngang màu trắng (
Trong đó có những họa tiết rất nhỏ gọi là " Bóc mục”)
+ Xín lán: Là loại váy thân khơng có sọc ngang.
- Khăn piêu: Khăn piêu Tày Thanh có tên gọi " khăn tải chờ lài mịn' ( Khăn
piêu mơ phỏng hình cây dâu). Vì cuộc sống của phụ nữ Thái gắn với công việc
trồng dâu nuôi tắm nên họ làm chiếc khăn mơ phỏng hình cây dâu. Một đầu
khăn có tua rua, tượng trưng cho rễ cây; thân khăn là thân cây; đầu kia có thêu
các họa tiết và có những bông hoa nhỏ làm bằng kén tằm, tượng trưng cho hoa
dâu. Người thái có quan niệm: ma sợ kén tằm, nên nhất thiết những bông hoa
này phải được kết bằng kén con tằm để tránh tà ma.Như vậy, khăn piêu khơng
chỉ làm đẹp mà cịn có nhiệm vụ bảo vệ người đội nó tránh sự uy hiếp của ma

qủy. Đây là điểm khác biệt nhất của khăn piêu tày thanh so với tất cả các laoij
khăn piêu khác.
+ Trang phục Thái Tày mường: Chiếc áo truyền thống được gọi là “ Xưa ná”
vì trước ngực có hai hàng cúc bạc hình con bướm hoặc thêu hoa văn. Một hàng
là âm, một hàng là dương. Hai hàng cúc cài chặt vào nhau biểu thị cho sự chung
thủy, bền vững. màu sắc của áo thường là màu sáng, đa dạng. Cổ áo hình trái
tim, hình chữ v hoặc hình trịn.
Chân váy của đồng bào Thái Tày mường có một điểm chung là : " Tọng
hung" mơ phỏng hình bảy sắc cầu vồng , mà cầu vồng thì đồng bào gọi là con
rồng cạn "Tố Ngược hung" - là phần giới hạn hai đầu cho họa tiết thêu ở giữa.
Hình thêu hoa văn rõ ràng, nổi bật hình chủ đạo, nhưng váy mỏng hơn, dây thắt
lưng xanh hoặc đỏ, buông tà bên hông rất điệu đà. Chân váy buông trùm mắt cá
chân. Chuẩn ăn mặc của họ là “Con cau pang, tín xin làm” (Nghĩa là: búi tóc to
bè, váy bng sát đất). Hai mẫu thêu được ưa chuộng nhất là : " Hỏ tả nghến" và
" Hỏ mè ngược".
+ “Hỏ tả nghến”: Chân váy thêu họa tiết hình mặt trời là họa tiết cổ và rất phổ
biến hiện nay. Họa tiết mặt trời là biểu tượng của Nàng Ni trong huyền thoại
Khủn Tinh, với cách thêu đối xứng làm nổi hình chủ đạo và làm cho bộ váy áo
thật duyên dáng và hấp dẫn.

21


×