Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

SKKN một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh ở trường THPT quỳnh lưu 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 42 trang )

PHỤ LỤC
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ..............................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................3
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ...........................................................4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................4
6. Đóng góp của sáng kiến kinh nghiệm ...................................................................4
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU .......................................................................6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN
THỐNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG ........................................6
1.1. Lý luận chung về cơng tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh
trung học phổ thông ..............................................................................................6
1.3.1. Đạo đức là nền tảng của nhân cách ........................................................... 15
1.3.2. Giáo dục đạo đức để hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh phổ
thông .................................................................................................................. 15
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN
THỐNG CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỲNH
LƯU 2, GIAI ĐOẠN TỪ 2015 ĐẾN 2020 ............................................................. 17
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học
sinh ở trường THPT Quỳnh Lưu 2. ..................................................................... 17
2.2. Thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh ở THPT
Quỳnh Lưu 2, huyện Quỳnh Lưu giai đoạn từ 2015 đến 2020 ............................ 18
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO
DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO HỌC SINH Ở TRƯỞNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỲNH LƯU 2 ...................................................... 20
3.1. Tăng cường vai trò của cấp ủy, chính quyền, các đồn thể xã hội trong việc
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh ............................................. 20
3.3. Xây dựng môi trường thuận lợi để học sinh phấn đấu vươn lên trong học tập
và rèn luyện ........................................................................................................ 22
3.4. Nâng cao vai trò của các thiết chế văn hóa trong giáo dục giá trị đạo đức


truyền thống cho học sinh ................................................................................... 22
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC .................................................................... 23
1


4.1. Về mặt nhận thức, thái độ ............................................................................. 23
4.2. Về hành động ............................................................................................... 25
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................. 27
1. Ý nghĩa của đề tài ............................................................................................... 27
2. Phạm vi áp dụng ................................................................................................. 27
3. Kiến nghị............................................................................................................ 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 29
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 32

2


PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Dân tộc Việt Nam, một dân tộc có bề dày lịch sử. Trải qua mấy ngàn năm
dựng nước và giữ nước, con người Việt Nam đã tạo dựng cho mình những giá trị
truyền thống tốt đẹp mang bản sắc của dân tộc Việt Nam. Những giá trị truyền thống
ấy đã trở thành một kháng thể, một sức mạnh nội sinh để dân tộc Việt Nam vượt qua
mọi khó khăn, thử thách và trường tồn trong lịch sử.
1.2. Trong những năm gần đây, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến
động, xu thế tồn cầu hóa và cơ chế thị trường bên cạnh những tác động tích cực cũng
đặt ra nhiều nguy cơ và thách thức trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là
trong lĩnh vực văn hóa, đạo đức, xã hội. Đó là việc hịa tan vào thế giới, đánh mất đi
bản sắc, cốt cách của dân tộc mình, là sự xuống cấp nghiêm trọng về đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ trong xã hội, đặc biệt là lối sống thực dụng chạy

theo đồng tiền, lấy đồng tiền làm thước đo cho mọi giá trị. Sẵn sàng quay lưng với
những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống của dân tộc. Một bộ phận không nhỏ, đặc
biệt là thanh niên, học sinh đã quá nhạy cảm và vồ vập với cái mới mà khước từ, thờ
ơ với những giá trị truyền thống của dân tộc. Lối sống ích kỷ, vụ lợi, những thói hư tật
xấu, các tệ nạn xã hội đang từng ngày, từng giờ làm băng hoại những giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam chúng ta.
1.3. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ta đã khẳng
định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực
phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hoá.
Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy
truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung
tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.”
Với ý nghĩa đó, việc giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc cho
học sinh là vấn đề hết sức cần thiết, cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Tại trường
THPT Quỳnh Lưu 2, từ năm 2015 đến nay, chúng tôi đã triển khai nhiều giải pháp
mang lại kết quả khá bền vững trong việc giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống
cho học sinh thể hiện ở các nội dung như việc xếp loại hạnh kiểm tốt, khá của học
sinh năm sau thường cao hơn năm trước, nhiều câu lạc bộ đội nhóm giúp đỡ nhau đã
được thành lập và hoạt động hiệu quả, ... đặc biệt, năm 2015 nhà trường đã được công
nhận trường đạt chuẩn quốc gia, năm 2016 tiếp tục đạt kiểm định cấp độ 3, được công
nhận lại trường đạt chuẩn quốc gia và kiểm định lại vào năm 2020. Đặc biệt là từ năm
3


2020trở lại đây trường Quỳnh Lưu 2 luôn được cấp trên ghi nhận là đơn vị dẫn đầu
trong việc tham gia các phong trào đền ơn đáp nghĩa, các cuộc thi do cấp trên phát
động,...Đó cũng là lý do chúng tôi viết đề tài “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh ở trường THPT Quỳnh

Lưu 2”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Từ lý luận và thực tiễn giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, chúng tơi
phân tích thực trạng việc giáo dục đạo đức truyền thống cho học sinh trung học phổ
thông, đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giáo dục giá
trị đạo đức truyền thống cho học sinh ở trường THPT Quỳnh Lưu 2.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh ở trường THPT
Quỳnh Lưu 2, huyện Quỳnh Lưu.
b. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi giáo dục đạo đức truyền thống cho học sinh ở
trường THPT Quỳnh Lưu 2, huyện Quỳnh Lưu.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, đánh giá thực trạng cơng tác giáo dục các giá trị đạo đức truyền
thống cho học sinh ở trường THPT Quỳnh Lưu 2, huyện Quỳnh Lưu giai đoạn 2015 2020.
- Đề xuất quan điểm, các giải pháp để nâng để cao hiệu quả của công tác giáo
dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh ở trường THPT Quỳnh Lưu 2 trong
những năm tiếp theo.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp quan sát, phương pháp phân tích - tổng hợp, quy nạp và diễn
dịch… Bên cạnh đó, sáng kiến cịn sử dụng phương pháp đánh giá làm sáng tỏ cơ sở
thực tiễn và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, nhằm đưa ra các giải pháp giáo dục
truyền thống dân tộc cho học sinh ở trường THPT Quỳnh Lưu 2.
6. Đóng góp của sáng kiến kinh nghiệm
- Đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm kế thừa và nâng cao hiệu quả giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho học sinh ở
4



trường THPT Quỳnh Lưu 2, huyện Quỳnh Lưu.
- Góp phần làm cơ sở lý luận cho các trường học trong việc giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc cho học sinh nói chung, học sinh THPT nói riêng.
7. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của sáng
kiến được triển khai trong 4 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh
trung học phổ thông.
Chương 2. Thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh ở
trường THPT Quỳnh Lưu 2, huyện Quỳnh Lưu giai đoạn 2015-2020.
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống cho học sinh ở trường THPT Quỳnh Lưu 2, huyện Quỳnh Lưu
Chương 4. Kết quả đạt được

5


PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN
THỐNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
1.1. Lý luận chung về cơng tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
học sinh trung học phổ thông
* Một số khái niệm:
- Khái niệm giáo dục:
Theo Từ điển tiếng Việt: Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ
thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng
ấy dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.
- Khái niệm giá trị:
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học: giá trị là cái làm cho một vật
nào đó trở nên có ích lợi, cần dùng và có đổi một vật gì khác: giá trị cần dùng, giá trị

trao đổi. Theo các nhà nghiên cứu, “nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích
cực, mặt chính diện, nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng,
cái tốt, cái hay, cái đẹp, là nói đến khả năng thơi thúc con người ta hành động và nỗ
lực vươn tới".
- Khái niệm đạo đức:
Đạo đức là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự
giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội.
Đạo đức là một từ Hán Việt, được dùng từ xa xưa để chỉ một thành tố trong
tính cách và giá trị của một con người. Đạo là con đường, đức là tính tốt hoặc những
cơng trạng tạo nên. Khi nói một người có đạo đức là ý nói người đó có sự rèn luyện
thực hành các lời răn dạy về đạo đức, sống chuẩn mực và có nét đẹp trong đời sống và
tâm hồn.
- Khái niệm giá trị đạo đức truyền thống:
Như đã đề cập, đạo đức truyền thống có cả những điều tích cực và những điểm
tiêu cực. Những điểm tích cực trong đạo đức truyền thống thường được gọi là giá trị
đạo đức truyền thống.
Cụ thể hơn, về vấn đề này, giữa cái gọi là "giá trị" và "truyền thống", Giáo sư
Trần Văn Giàu đã nhận định: "Truyền thống thì có cái tốt cái xấu; nhưng khi chúng ta
nói "giá trị truyền thống" thì ở đây chỉ có cái tốt mà thơi, bởi vì chỉ có những cái gì tốt
6


thì mới được gọi là giá trị, mà phải là những cái tốt phổ biến, cơ bản, có nhiều tác
dụng tích cực đến đạo đức ln lý, có cả tác dụng hướng dẫn sự nhận định và hướng
dẫn sự hành động, thì mới được mang danh là giá trị truyền thống". Theo chúng tôi,
điều này cũng đúng giữa những cái gọi là "đạo đức truyền thống" và "giá trị đạo đức
truyền thống".
Với những điều đã trình bày như trên, có thể coi giá trị đạo đức truyền thống là
toàn bộ những tư tưởng, tình cảm, những chuẩn mực, quy tắc, phong tục, tập qn đạo
đức có tính tích cực, được truyền dạy, được mọi người hay một cộng đồng người nhất

định tự nguyện noi theo.
Mỗi dân tộc trên thế giới đều có hệ giá trị đạo đức truyền thống riêng của mình.
Đó là một bộ phận trong hệ giá trị tư tưởng của dân tộc đó. Ở Việt Nam, giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc được nảy sinh và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử dựng
nước và giữ nước. Nó được lưu truyền, chắt lọc, kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ
khác và chiếm giữ vị trí cốt lõi trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc. Sớm xác định
được vai trò quan trọng của giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc đối với sự phát
triển của đất nước, nhân dân Việt Nam ln trân trọng, giữ gìn và phát huy những giá
trị quý báu ấy.
1.2. Nội dung giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh trung học
phổ thông trong giai đoạn hiện nay
Sự hình thành và phát triển của các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam được
bắt nguồn từ những hồn cảnh địa lí, điều kiện sản xuất, hoàn cảnh lịch sử và xã hội.
Xã hội truyền thống Việt Nam được xây dựng trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp lúa
nước. Điều kiện tự nhiên của Việt Nam mưa nắng thất thường, nhiều thiên tai, hạn
hán, lũ lụt,... những đặc điểm này đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành các giá trị
đạo đức truyền thống của dân tộc; tạo nên sự gắn bó cộng đồng, sự thương yêu đùm
bọc lẫn nhau, đặt nền móng cho tính cần cù, tiết kiệm. Về mặt địa lí, Việt Nam là đầu
mối giao thơng quốc tế quan trọng, là mục tiêu xâm lược của nhiều thế lực ngoại
bang. Chính vì vậy, con người Việt Nam phải chung sức trong đấu tranh bảo vệ độc
lập dân tộc, trong lao động sản xuất và trong các quan hệ xã hội khác. Do đó, trong
nấc thang giá trị xã hội, việc đề cao các giá trị đạo đức mang tính cộng đồng là điểm
nổi bật trong đời sống dân tộc Việt Nam. Sự phát triển nổi trội của các giá trị đạo đức
cịn có một ngun nhân khác; đó là tình trạng chậm phát triển của luật pháp (đến thế
kỉ XI, bộ luật đầu tiên của Việt Nam mới được ban hành).
Đạo đức và tri thức quan hệ mật thiết với nhau. Tư tưởng giáo dục của Hồ Chí
Minh coi trọng cả đức lẫn tài, trong đó đức là gốc, "trong giáo dục khơng những
phải có tri thức phổ thơng mà phải có đạo đức cách mạng”. Trên nền tảng của văn
hóa bản địa, với điều kiện địa lí thuận lợi, Việt Nam còn tiếp thu được những tinh
7



hoa văn hóa nhân loại mà tiêu biểu là: Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo.
Chính những đặc điểm trong quá trình hình thành và phát triển của xã hội Việt
Nam đã làm cho các giá trị đạo đức truyền thống được định hình và được bồi đắp
thường xuyên. Cùng với thời gian, những giá trị này trở nên ổn định và được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và trở thành sức mạnh, động lực cho sự sinh tồn
và phát triển của dân tộc Việt Nam.
Theo Giáo sư Vũ Khiêu, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao
gồm: “lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù, tinh thần nhân đạo,
lòng yêu thương và quý trọng con người”. Trong các văn kiện của Đảng ta, các giá trị
truyền thống thường được đề cập đến và được coi là những giá trị nổi bật, Nghị quyết
9 của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng đã chỉ rõ:
“Những giá trị văn hóa tinh thần bền vững của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước
nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý thương người như thể thương thân, đức
tính cần cù vượt khó, sáng tạo trong lao động... Đó là nền tảng và sức mạnh tinh thần
to lớn để nhân dân ta xây dựng một xã hội phát triển tiến bộ, công bằng nhân ái”.
Từ những quan điểm trên đã cho thấy sự khẳng định rõ nét vị trí nổi bật của
những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc bao gồm: Tinh thần yêu nước; Tinh
thần đoàn kết và ý thức cộng đồng sâu sắc; Truyền thống nhân nghĩa; Truyền thống
hiếu học và tôn sư trọng đạo; Tinh thần cần cù và sáng tạo trong lao động... Những
đức tính ấy đã trở thành những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam mà trải qua nhiều thế kỷ nay dân tộc ta nâng niu và gìn giữ. Những giá trị đó đã
tạo ra một sức mạnh to lớn cho dân tộc ta, giúp cho dân tộc Việt Nam vượt qua biết
bao khó khăn thử thách và giá trị đó sẽ tiếp tục được phát huy trong hiện tại và tương
lai. Bên cạnh việc tiếp thu những tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, chúng ta phải
kế thừa, phát huy những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc nhằm xây dựng một
hệ thống chuẩn mực đạo đức mới giàu tính dân tộc, mang đậm tính nhân văn và đáp
ứng những yêu cầu mới của xã hội.
Ngày nay, việc giáo dục đạo đức cho học sinh nói chung và học sinh ở bậc

trung học phổ thơng nói riêng cần đặc biệt gắn liền với việc giáo dục các quy định của
pháp luật, chú trọng đến các giá trị truyền thống cốt lõi của dân tộc Việt Nam chúng
ta, đó là:
Truyền thống yêu nước và tự hào dân tộc
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Lịch sử
của dân tộc Việt Nam đã được viết bằng máu và mồ hôi của nhiều thế hệ ông cha đã
làm nên biết bao kỳ tích anh hùng, những trang sử vẻ vang đầy khí thế. Chính những
điều đó đã tạo nên truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam mà trong đó nổi bật
8


nhất là lòng yêu nước - một truyền thống cao quý vừa được hun đúc và phát huy suốt
trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Mỗi người Việt Nam
đều có quyền tự hào về những trang sử hào hùng của dân tộc, những người đã hy sinh
để bảo vệ mảnh đất quê hương. Những người đã viết nên thiên sử của dân tộc và sẽ
luôn là hành trang của các thế hệ người Việt Nam.
Có thể thấy rằng, lịng u nước của dân tộc ta xuất hiện từ rất sớm, gắn liền
với quá trình dựng nước. Dân tộc ta tự hào với một bề dày lịch sử lâu đời, gắn liền với
sự hình thành và phát triển của nhà nước Văn Lang, tồn tại bền vững hơn hai nghìn
năm, trước khi bị phương Bắc xâm chiếm, đô hộ.
Lịch sử dân tộc ta là một chuỗi dài các cuộc chiến tranh chống lại sự xâm lăng
của quân xâm lược. Trong thời gian này, lòng yêu nước nồng nàn đã thúc đẩy nhân
dân ta chiến đấu liên tục, cho đến khi giành được độc lập. Những chuỗi dài khởi nghĩa
và chiến tranh đã nhào nặn con người Việt Nam, xây dựng nên một dân tộc Việt Nam
với lòng yêu nước đặc sắc. Giáo sư Trần Văn Giàu đã đúc kết: Yêu nước là “sợi chỉ
đỏ xuyên suốt qua toàn bộ lịch sử Việt Nam”.
Truyền thống yêu nước của nhân dân ta còn thể hiện ở sự quyết tâm, giữ gìn
bản sắc dân tộc. Khơng chỉ có những cuộc khởi nghĩa vũ trang mới có sự huy động
tinh thần dân tộc. Nhân dân ta, dưới các thời kỳ bị đơ hộ, thời kỳ bị xâm lược, cịn đấu
tranh giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc để khơng bị đồng hóa. Người Việt Nam ln

ln kiên trì giữ gìn phong tục, tập quán của dân tộc mình: tục nhuộm răng đen, để
tóc dài, xăm mình, giữ tiếng nói, chữ viết.
Có thể thấy rằng, nếu khơng có tinh thần u nước thì đất nước ta đã bị xóa tên
trên bản đồ thế giới từ rất lâu. Chính tinh thần yêu nước nồng nàn đã tạo nên một sức
mạnh to lớn, giúp dân tộc ta vượt qua mọi gian nan, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Truyền thống đoàn kết
Truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển
trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong chống chọi với thiên nhiên
khắc nghiệt và chống giặc ngoại xâm. Ý thức về tinh thần đồn kết của dân tộc ta
được hình thành từ rất sớm, thể hiện ở quan niệm về chung một cội nguồn. Người
Việt Nam ln coi mình có chung một tổ tiên trong nguồn gốc xa xưa, là "đồng bào"
có vị tổ chung.
Truyền thống đồn kết của người Việt Nam được thể hiện trong gia đình, trong
cộng đồng, làng xã và trong toàn thể cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đó là “thuận
vợ, thuận chồng tát bể đơng cũng cạn"; là việc gìn giữ mối quan hệ tốt đẹp với cộng
đồng xung quanh... Nó khơng ngừng được hun đúc, phát triển. Lịch sử dân tộc ta đã
chứng minh rằng, nếu khơng giữ được sự đồn kết, thống nhất thì đất nước sẽ suy
9


yếu, nguy cơ mất nước sẽ xảy ra. Những câu thơ rất gần gũi nhưng đầy ý nghĩa giáo
dục, thể hiện tinh thần đoàn kết của dân tộc ta, như “đồn kết thì sống, chia rẽ thì
chết”, “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao”… thể hiện rõ
nhận thức sâu sắc của người Việt Nam về vai trị của tinh thần đồn kết.
Thấy rõ vai trị đặc biệt quan trọng của yếu tố đồn kết, cha ơng ta ln ra sức
giữ gìn truyền thống q báu này và dùng nó để chống lại chính sách chia rẽ của các
thế lực ngoại bang. Từ chính sách “dùng người Việt đánh người Việt” đến chính sách
“chia để trị” của bọn phong kiến, thực dân, đế quốc xâm lược đều lần lượt bị thất bại
trước tinh thần đồn kết của nhân dân ta.
Tóm lại, truyền thống đồn kết của Việt Nam được hình thành trong các quan

hệ xã hội, quá trình lao động, sản xuất, đấu tranh trước kẻ thù, trước thiên nhiên khắc
nghiệt… Nó đã tạo cho tồn thể người Việt Nam trở thành "mn người như một",
thành bức tường thành vững chãi trước mọi hiểm nguy, mọi âm mưu chia rẽ mà nhờ
đó, cùng với các giá trị khác, dân tộc Việt Nam tồn tại cho đến ngày nay.
Truyền thống cần cù, tiết kiệm
Sống trong một đất nước mà địa thế, khí hậu tạo ra nhiều gian nan thử thách,
người dân Việt Nam, ngay từ những ngày đầu dựng nước, đã rèn luyện cho mình tinh
thần cần cù, chịu khó, chịu khổ. Đặc biệt, với một nước nông nghiệp như Việt Nam
xa xưa, trong điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên, để có thể có "cơm ăn, áo mặc",
mọi người phải vất vả rất nhiều:
“Cày đồng đang buổi ban trưa,
Mồ hơi thánh thót như mưa ruộng cày”.
“Một bơng lúa vàng, chín giọt mồ hơi”.
Chính vì sự khó nhọc trong lao động để tạo ra sản phẩm, đòi hỏi con người Việt
Nam phải tiết kiệm, quý trọng những thành quả lao động của mình làm ra.
“Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”.
Truyền thống tiết kiệm ở đây được thể hiện ở chỗ khơng xa xỉ, khơng hoang
phí, tiết kiệm về thời gian, công sức lao động, bởi lao động mà khơng tiết kiệm thì
như “gió vào nhà trống”.
Tóm lại, tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm của dân tộc ta xuất phát từ triết lý
cho rằng, mọi người phải có trách nhiệm đối với bản thân gia đình và xã hội, phải có
trách nhiệm với thế hệ tương lai. Mặt khác, do cuộc sống quá khó khăn, lại thường
10


xuyên đối đầu với thiên tai, địch họa nên người Việt Nam có tâm lý phải dành dụm,
chắt chiu đề phịng bất trắc xảy ra. Theo đó, chính "nhờ có cần cù mà tổ tiên chúng ta
đã xây dựng được một cái nôi dân tộc, tạo thành một nơi sinh tụ của giống nịi".
Chính vì lý do đó, việc giáo dục giá trị lao động cần cù, tiết kiệm là điều cần phải làm

cho mọi người, đặc biệt là tầng lớp thanh niên - thế hệ tương lai của dân tộc.
Truyền thống nhân nghĩa
Nhân nghĩa là một giá trị đạo đức cơ bản của con người Việt Nam thể hiện ở
suy nghĩ, tình cảm và hành động cao đẹp của quan hệ giữa người với người. Nhân
nghĩa là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta được duy trì và phát huy trong suốt chiều
dài lịch sử dân tộc. Đó là một hệ giá trị quan trọng hình thành nên tố chất của con
người Việt Nam, khẳng định bản sắc và nhân cách của dân tộc ta. Truyền thống nhân
nghĩa là một trong những giá trị đáng quý và đáng tự hào. Hiếm thấy một dân tộc nào
phải trải qua nhiều thương đau mất mát như dân tộc Việt Nam nhưng điều đó khơng
đánh mất đi lịng nhân nghĩa mà trái lại, chúng ta lại cảm thông, chia sẻ đau thương
với đồng loại, luôn yêu thương và quý trọng cuộc sống của con người.
Truyền thống nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam được hình thành từ các điều
kiện lịch sử xã hội và những đòi hỏi bức thiết của cuộc sống. Truyền thống ấy bắt
nguồn từ trong quá trình lao động, học tập và chiến đấu. Nhân nghĩa-lòng thương yêu
con người đã trở thành một nếp nghĩ, một cách sống, một giá trị đạo đức tiêu biểu của
dân tộc ta. Nó gắn liền với tình thương u đồng loại, nhân dân Việt Nam ln gắn
tình u q hương đất nước với lòng nhân ái, yêu thương con người, bao dung, nhân
nghĩa, yêu nước gắn chặt với yêu dân. Nhân nghĩa thể hiện ở lịng nhân ái, tình u
thương con người, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống, trong hoạn nạn, khó
khăn. Truyền thống nhân nghĩa, trọng đạo lý của dân tộc được thể hiện:
Trước hết là tình yêu thương, quan tâm giúp đỡ mọi người vượt qua những khó
khăn trong cuộc sống. Với con người Việt Nam, khơng biết tự bao giờ tình yêu
thương con người, sự đùm bọc lẫn nhau đã in sâu vào từng nếp nghĩ và cách sống của
mình “người với người sống để yêu nhau”. Tinh thần “Thương người như thể thương
thân”, “Lá lành đùm lá rách” đã trở thành triết lý nhân sinh, thành tình cảm sâu nặng
trong tâm hồn mỗi con người. Bởi vậy, lối sống của người Việt Nam là lối sống tình
nghĩa, thủy chung, gắn bó, chia ngọt sẻ bùi, vui cùng niềm vui của người khác và đau
cùng nỗi đau của đồng loại, “một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ” hay “thương nhau chia
củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”. Lòng yêu thương con người đã
hìnhthành nên tinh thần tương thân tương ái, đùm bọc lẫn nhau trong cuộc sống sinh

hoạt hàng ngày, trong lao động sản xuất và trong chiến đấu. Trải qua lịch sử trường
kỳ của dân tộc, truyền thống nhân nghĩa đã phát huy sức mạnh, góp phần vào những
chiến thắng oanh liệt của dân tộc và khẳng định giá trị truyền thống quý báu của dân
11


tộc ta.
Truyền thống nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam khơng chỉ thể hiện ở tình cảm,
hành động trong cuộc sống hàng ngày của những người cùng huyết thống, cùng dân
tộc mà còn biểu hiện ở lòng vị tha cao thượng. Tư tưởng “lấy đại nghĩa để thắng hung
tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” trong Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi là sự
thể hiện đỉnh cao của lịng nhân ái đó. Lịch sử đã từng ghi lại những ứng xử nhân đạo
của ông cha ta, “đánh kẻchạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại” với những tù binh chiến
tranh họ luôn đượcđối xử tử tế, được mở đường hiếu sinh để trở về. Truyền thống
nhân nghĩa Việt Nam thể hiện sâu sắc ở lòng vị tha cao thượng, khơng cố chấp với
người có lỗi lầm biết hối cải, đối xử khoan hồng với tù binh trong chiến tranh.
Đặc trưng nổi bật thể hiện truyền thống nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam là các
thế hệ sau luôn ghi lịng tạc dạ cơng lao cống hiến của các thế hệ đi trước trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khai sáng nền văn hóa của cộng đồng và dịng
họ. Tiếp nối truyền thống đó, những phong trào xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp
nghĩa, uống nước nhớ nguồn như chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng, chính sách đối
với các gia đình thương binh liệt sỹ, ủng hộ nạn nhân chất độc màu da cam, ủng hộ
đồng bào bị lũ lụt, bao bọc giúp đỡ những người bị nhiễm Covid-19 đối với không chỉ
công dân Việt Nam mà cả cơng dân nước ngồi,...đã đem lại nhiều kết quả và phát
huy được truyền thống nhân nghĩa của dân tộc. Trong thời đại ngày nay, Đảng và Nhà
nước ta đang chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác về nhiều mặt với tất cả các quốc
gia trên thế giới dự trên ngun tắc hịa bình, độc lập và cùng có lợi cũng thể hiện
lịng u chuộng hịa bình, tình hữu nghị cũng chính là biểu hiện của lòng nhân ái đối
với thế giới của người Việt Nam.
Truyền thống nhân nghĩa, trọng đạo lý, sống có nghĩa có tình...là một truyền

thống quý báu của dân tộc Việt Nam, tạo nên phẩm chất con người Việt vừa bình dị,
chất phác, vừa yêu thương mà cao quý. Bởi vậy, dân tộc Việt Nam được nhắc đến
không chỉ như một dân tộc anh hùng mà còn là một dân tộc giàu lịng nhân ái, vị tha,
tinh thần ấy đã có sức mạnh thu phục lòng người, bạn bè trên thế giới cảm phục. Tư
tưởng ấy, truyền thống ấy là một giá trị phù hợp với giá trị nhân văn chung của toàn
nhân loại và sẽ được phát huy mạnh mẽ trong cuộc sống hiện tại và cả tương lai.
Truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo
Truyền thống hiếu học, tôn sư trong đạo là một trong những giá trị đạo đức cao
đẹp và vững bền của dân tộc. Truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo cũng là một
trong những giá trị truyền thống quý báu làm nên tâm hồn và bản sắc dân tộc. Có thể
khẳng định rằng người Việt Nam rất hiếu học và hiếu học là một trong những giá trị
vãn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam có cõ sở từ trong mỗi gia ðình, dịng họ,
địa phương. Ở bất kỳ đâu trên đất nước ta, từ làng quê đến thành thị, từ cổ xưa đến
12


ngày nay, ln có những tấm gương hiếu học cho dù họ bận rộn với những cơng việc
của gia đình và xã hội. Các bậc cha mẹ trong xã hội truyền thống hay xã hội hiện đại
luôn mơ ước nuôi con ăn học có “dăm ba chữ” để thành người. Người xưa đã từng
nói: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri đạo” (Ngọc không mài dũa thì
khơng thành đồ dùng được, ngườikhơng học thì khơng biết đạo).
Truyền thống hiếu học của con người Việt Nam được tạo nên từ mơi trường
văn hóa của dân tộc mà trong đó gia đình là chiếc nơi văn hóa đầu tiên với những tơn
ti trật tự chặt chẽ có tác dụng giáo dục rõ nét. Nhân dân ta quan niệm rằng: “vàng chất
bằng non chẳng bằng cho con đi học” hay “một kho vàng không bằng một nang chữ”.
Việc học là một nét đặc trưng nổi bật tronggia đình Việt Nam truyền thống. Truyền
thống ấy được lan rộng ra trong dòng họ, làng xã trở thành nét sinh hoạt văn hóa trong
làng xã Việt Nam. Truyền thống ấy đã được bồi đắp, củng cố trong nhân dân bằng các
điều khoản trong lệ làng, phép nước, thể hiện trong các chính sách sử dụng và đãi ngộ
của các triều đại đối với các nhà khoa bảng.

Hiếu học được hiểu là sự quan tâm, coi trọng việc học của cả cộng đồng, sự nỗ
lực học tập của người học. Truyền thống hiếu học là tập hợp những thói quen, thái độ,
tập quán lâu đời, những quan niệm về sự quan tâm, coi trọng việc học, sự nỗ lực trong
học tập cũng như các biểu hiện về mục tiêu học tập được hình thành lâu đời trong lịch
sử hình thành và phát triển của dân tộc. Cũng như truyền thống yêu nước và truyền
thống nhân nghĩa, hiếu học đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam. Đó là thói quen ham thích, coi trọng việc học hành được hình thành từ lâu đời
và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Trước hết, biểu hiện của truyền thống hiếu học là tinh thần ham học hỏi, ham
hiểu biết. Với tinh thần ấy, lịch sử dân tộc đã ghi nhận biết bao tấm gương hiếu học
như Nguyễn Hiền, mồ côi cha sống trong túp lều ở chùa, nghèo nhưng với ý chí và
tinh thần hiếu học, dưới ánh đèn đom đóm để học, năm mười ba tuổi đã đỗ trạng
nguyên (vị trạng nguyên nhỏ tuổi nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam); Mạc Đĩnh
Chi, mồ côi cha từ sớm, nhà nghèo phải đốt lá rừng để học và đã trở thành vị trạng
nguyên tài giỏi của dân tộc. Lịch sử dân tộc còn biết đến biết bao tấm gương hiếu học
của các bậc hiền tài, đức cao đạo trọng như Chu Văn An, Lương Thế Vinh, Phùng
Khắc Khoan, Lê Quý Đôn...Vị vua đầu tiên coi trọng sự học ở nước ta là Lê Thánh
Tơng (1442- 1497). Ơng là người đầu tiên mở nhà Thái Học, lập tàng thư chứa sách
vở, dựng bia Văn Miếu ghi danh những người đỗ tiến sĩ trở lên. Trong bia tiến sĩ năm
Nhâm Tuất niên hiệu bảo đại thứ ba năm 1442 ở Văn Miếu (Hà Nội) có ghi rằng:
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, ngun khí vững thì thế nước mạnh và thịnh,
ngun khí kém thì thế nước yếu và suy, cho nên các đấng thánh đế vương không ai
không chăm lo việc tìm kiếm và bồi dưỡng nhân tài, bồi đắp nguyên khí”.
13


Truyền thống hiếu học có một ý nghĩa hết sức lớn lao bởi nó tạo nên sự phát
triển bền vững. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta đã từng nói
“Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”. Kế thừa
truyền thống hiếu học của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta rất quan tâm đến

cơng tác giáo dục đào tạo, coi giáo dục đào tạo là “quốc sách hàng đầu”, là một trong
những động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Trong thư gửi học sinh nhân ngày
khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Bác căn dặn: “Non sơng
Việt Nam có trở nên vẻ vang hay khơng. Dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh
quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là nhờ một
phần lớn ở cơng học tập của các em”. Đó là lời căn dặn, lời động viên và cả một niềm
tin vào nền giáo dục và thế hệ tương lai của đất nước trong việc kế thừa và phát huy
truyền thống hiếu học của thế hệ trẻ nước nhà.
Trên cơ sở của truyền thống hiếu học, coi trọng sự học và coi trọng người có
học từ đó cũng hình thành đạo lý tơn sư trọng đạo. Truyền thống tôn sư trọng đạo đã
thấm sâu vào trong mỗi con người Việt Nam trở thành phương châm sống, quan niệm
sống “Không thầy đố mày làm nên” hay “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Tôn sư và
trọng đạo gắn bó chặt chẽ với nhau. Đạo lý làm người cao đẹp là trọng đạo. Đó là
động cơ mạnh mẽ khiến con người ham học, vượt mọi khó khăn để học. Học để thấu
hiểu đạo lý, học để làm người. Người xưa đề cao đạo lý thánh hiền, người học ra sức
dùi mài kinh sử, gia đình, họ hàng, làng xóm ra sức động viên tạo điều kiện cho người
học, nhà nước hết sức coi trọng việc học, sử dụng và đãi ngộ rất cao đối với người đỗ
đạt. Truyền thống trọng đạo hình thành và phát triển ngày một sâu rộng chính là do
tác động đó. Người học muốn hiểu đạo lí thì khơng chỉ tự học mà phải có người dạy,
phải có thầy dạy. Người thầy dạy học là người nắm được đạo lí, có tri thức, hiểu biết
sâu rộng và có sứ mệnh truyền thụ tri thức cho người học. Bởi vậy, trọng đạo thì phải
tơn sư, tơn sư trọng đạo gắn bó chặt chẽ với nhau. Sự tơn kính ấy thể hiện trong
những câu ca dao, tục ngữ mà nhân dân để lại: “Muốn sang thì bắc cầu kiều. Muốn
con hay chữ thì yêu lấy thầy”.
Những câu ca dao, tục ngữ đó thể hiện truyền thống tôn sư trọng đạo của dân
tộc ta. Trong làng xã, người thầy là chỗ dựa tinh thần của người dân trong cộng đồng
ấy. Mọi gia đình, hễ có chuyện vui, buồn đều đến xin ý kiến của thầy. Tôn sư - kính
trọng thầy bởi thầy đã thực hiện một trách nhiệm cao cả là “khai tâm- mở trí” cho
chúng ta, khai sáng trí tuệ cho chúng ta. Thầy khơng chỉ truyền thụ kiến thức mà còn
giáo dục cho người học cả bằng nhân cách của chính mình. Vì vậy, thầy phải là

"khn vàng, thước ngọc" để học trị noi theo. Lịch sử dân tộc mãi tôn vinh những
người thầy vĩ đại như Chu Văn An, dù đang ở địa vị quyền lực cao trong triều đình
vẫn dũng cảm dâng sớ “thất trảm” đề nghị chém những tên gian thần và sẵn sàng rũ
áo từ quan vì khơng chấp nhận sống trái với lương tâm, trái với đạo lí. Ơng là hình
14


ảnh mẫu mực về người thầy vĩ đại của dân tộc ta, một tấm gương sáng về đạo đức,
nhân cách người thầy.
1.3. Sự cần thiết phải giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh
trung học phổ thông
1.3.1. Đạo đức là nền tảng của nhân cách
Cuộc đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Giáo dục lẽ sống phải bắt đầu từ những năm
tháng còn trẻ, còn rất trẻ của cuộc đời. Khoảng thời gian đó là cơ hội thuận lợi nhất
đối với nhà giáo dục để giáo dục lẽ sống đối với các công dân tương lai khi mà những
va đập của cuộc đời chưa làm cho họ tập nhiễm phải những cái xấu, cái ác, khi mà sự
trong sáng của tâm hồn và tình cảm của họ làm cho họ dễ tiếp thụ những giá trị đạo
đức, dễ nảy nở những khát vọng trở nên tốt đẹp thông qua những phương thức giáo
dục biểu cảm, truyền cảm bởi văn hoá nghệ thuật và những tấm gương sống động về
người thực, việc thực ở đời. Có lẽ sống đúng, có lý tưởng sống cao thượng, con người
được đặt vào một xu hướng phát triển tích cực về nhân cách, tức là một khả năng nảy
nở và hoàn thiện nhân tính, cái mà nhà giáo dục lỗi lạc xơ viết trước đây,
Xukhơmlinxki gọi là “Khả năng dễ giáo dục”.
Phải có những phẩm chất ấy, con người ta mới có thể đem vào trong nếp sống
hàng ngày của mình những biểu hiện của sự quan tâm, ân cần, chu đáo với người
khác, tính cẩn thận, nề nếp, tận tâm, tận lực trong mọi cơng việc lớn, nhỏ vì người
khác. Đó là sự hy sinh, sự quên mình, chỉ với một tình cảm thiết tha được sống vì
người khác, được góp phần nhỏ bé của mình vào sự lớn rộng thêm những niềm vui và
hạnh phúc cho người khác, làm vợi đi những khó khăn, vất vả làm dịu đi những nỗi
buồn, những đau khổ của người khác, cũng như làm được ngày một nhiều hơn những

điều, những việc hữu ích cho cuộc đời.
1.3.2. Giáo dục đạo đức để hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh
phổ thông
Bàn về quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người có nhiều
quan điểm khác nhau. Theo Freud nhấn mạnh yếu tố bản năng dục vọng, vô thức
quyết định đến hành vi hoạt động của con người. Mọi người có những điểm khác
nhau về phương diện nhân cách là do q trình tiến triển của giai đoạn phát triển tính
dục. Vì vậy, theo ơng phải xây dựng xã hội văn minh trên cơ sở áp chế cái bản năng,
dục vọng của vơ thức. Quan niệm của ơng cịn có nhiều tranh cãi, nhưng ý nghĩa của
nó là ở chỗ: cần phải làm cho con người hướng đến những giá trị cao đẹp bằng quá
trình giáo dục đạo đức, giúp con người thức tỉnh lương tâm để không rơi vào tha hố
nhân cách. Ngược lại, Adler lại nhấn mạnh hồn cảnh xã hội và đặc biệt là gia đình
trong quá trình hình thành nhân cách. Theo ơng, con người ln có sự đối lập giữa
15


“tính tự ti” và “tính bù đắp”, cho nên: “Trẻ em trong hồn cảnh của mình ln mong
muốn tìm được những phương pháp bù đắp có hiệu quả. Do trẻ em khác nhau, nên
phương pháp bù đắp cũng rất khác nhau”. Horney lại cho rằng: “Nhân cách được phát
triển từ khi con nhỏ” cũng như Adler, Horney luôn nhấn mạnh yếu tố hồn cảnh xã
hội trong đó có nhân tố văn hố và yếu tố gia đình trong q trình hình thành nhân
cách. Trẻ em phát triển nhân cách như thế nào là tuỳ thuộc vào thái độ đối xử trong
gia đình. Với sự yêu thương, sự đùm bọc là một liệu pháp quan trọng để nhân cách
phát triển. Freud và chủ nghĩa Freud mặc dù cịn có nhiều ý kiến khác nhau nhưng
những quan niệm trên có những yếu tố hợp lý, đều cho rằng nhân cách không phải là
bẩm sinh mà phải được hình thành chứ khơng phải là một yếu tố định sẵn. Khi con
người mới sinh ra chỉ là một thực thể sinh vật, mặc dù là một cơ thể người nhưng
chưa có nhân cách. Khi nào con người tự điều chỉnh được hành vi khi tham gia vào
các mối quan hệ xã hội, thì lúc đó nhân cách mới được hình thành. Như vậy, nhân
cách là sản phẩm tương đối muộn trong quá trình phát triển của con người. Nhân cách

chỉ có được khi con người sống, hoạt động và giao tiếp.
Quan điểm của các nhà triết học duy vật cho rằng, nhân cách là khái niệm chỉ
bao hàm phần xã hội, tâm lí của cá nhân, đó là một con người với tư cách là một
thành viên của một xã hội nhất định; là chủ thể của các quan hệ người - người, của
hoạt động có ý thức và giao lưu. Nhân cách của con người là sản phẩm của quá trình
rèn luyện, giao tiếp trong xã hội, nó phụ thuộc vào sự tác động của các yếu tố mơi
trường xung quanh. Vì vậy, muốn cho một con người phát triển tốt về mặt nhân cách,
trở thành một con người tốt, một công dân có ích cho xã hội thì trước tiên phải tạo ra
một mơi trường tốt để người đó giao tiếp, rèn luyện. Xuất phát từ quan điểm này, việc
giáo dục các giá trị đạo đức cho học sinh nói chung và học sinh trung học phổ thơng
nói riêng là rất cần thiết để hình thành nên những tình cảm đạo đức trong sáng trong
bản thân các em, giúp cho các em phát triển một cách lành mạnh, trách xa các thói hư,
tật xấu, các tệ nạn xã hội.
Kết quả nghiên cứu về đạo đức của học sinh ở bậc trung học phổ thông cho
thấy tỉ lệ học sinh vi phạm các chuẩn mực đạo đức là không nhỏ, hành vi vi phạm phổ
biến nhất là: Nói tục; chửi thề; gây gỗ, đánh nhau; trốn học, gian lận trong trong kiểm
tra, thi cử. Khoảng 50% số học sinh được khảo sát cho biết thỉnh thoảng có chửi thề
và 12% cho biết thường xun có những hành vi tương tự. Tình trạng báo động học
sinh gây gỗ đánh nhau, trong đó khơng chỉ có học sinh nam mà cịn có cả học sinh nữ.
Một tỉ lệ đáng kể (34,2%) học sinh được khảo sát cho biết là thỉnh thoảng có thực
hiện hành vi gây gỗ, đánh nhau. Bên cạnh đó, hành vi bỏ giờ, trốn học cũng trở thành
phổ biến. Có đến 26,7% học sinh được khảo sát thừa nhận thỉnh thoảng và 7,5% cho
biết là thường xun. Ngồi ra cịn xuất hiện tương đối nhiều hành vi nghiêm trọng
hơn như trộm cắp, thiếu tôn trọng thầy cô,...Nạn bạo lực học đường đang ngày càng
16


có xu hướng gia tăng ở học sinh bậc trung học phổ thông, nhiều giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc đang dần bị lãng quên.
Có thể khẳng định rằng, trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam,

giá trị đạo đức truyền thống dân tộc đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, làm nên
bản sắc riêng của dân tộc Việt, con người Việt. Vì vậy, việc giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc cho học sinh nói chung và học sinh trung học phổ thơng
nói riêng hiện nay là nhiệm vụ cần thiết. Nó sẽ tạo ra một lớp người khơng chỉ mang
trong mình những giá trị của thời hiện đại, mà còn chứa đựng trong nhân cách
những giá trị đạo đức truyền thống đáng tự hào của dân tộc, tiếp nối truyền thống
của bao thế hệ người Việt Nam trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho học sinh hiện nay không chỉ là
việc cung cấp tri thức, mà còn là khắc phục những hạn chế, tạo sự hài hòa trong
nhân cách và tạo lập niềm tin vào sự phát triển xã hội cho học sinh.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN
THỐNG CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỲNH
LƯU 2, GIAI ĐOẠN TỪ 2015 ĐẾN 2020
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học
sinh ở trường THPT Quỳnh Lưu 2.
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Địa bàn tuyển sinh của trường THPT Quỳnh Lưu 2 tương đối rộng, gồm 7 xã,
phường chính của huyện Quỳnh Lưu và thị xã Hoàng Mai: Quỳnh Thạch, Quỳnh
Hậu, Quỳnh Hoa, Quỳnh Thanh, Quỳnh Văn, Quỳnh Tân và phường Quỳnh Xn.
Ngồi ra cịn một số ít đến từ các xã khác như Quỳnh Bảng, Quỳnh Trang. Địa bàn
tuyển sinh có đủ loại địa hình miền núi, đồng bằng và ven biển, khí hậu tương đối
phức tạp: Nắng lắm, mưa nhiều, lạnh thấu xương.
2.1.2. Điều kiện kinh tế
Khu vực phía bắc thuộc huyện Quỳnh Lưu và phía nam thuộc thị xã Hoàng Mai
thuộc địa bàn tuyển sinh của nhà trường là khu vực dân cư chủ yếu sống bằng nghề
nông nghiệp, kinh tế chưa phát triển, thậm chí có một số xã như Quỳnh Hoa, Quỳnh
Tân và Quỳnh Trang cịn có những xóm đặc biệt khó khăn được hưởng các chế độ ưu
đãi theo quyết định của thủ tướng chính phủ.
2.1.3. Điều kiện văn hóa xã hội
Trường THPT Quỳnh Lưu 2 đóng tại khu di chỉ văn hóa Quỳnh Văn, Quỳnh

Lưu và Hồng Mai cịn được biết đến là mảnh đất giàu truyền thống hiếu học và cách
mạng, các em học sinh của nhà trường đến từ các xã, phường khác nhau mang một nét
17


văn hóa riêng của địa phương mình. Trên địa bàn tuyển sinh của nhà trường cũng có
nhiều di tích lịch sử văn hóa khá nổi tiếng gắn liền với các lễ hội văn hóa như đền
Rậm ở Quỳnh Văn, đền Phùng Hưng ở Quỳnh Xuân, Đền Lam Cầu ở Quỳnh Thạch.
2.2. Thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh ở THPT
Quỳnh Lưu 2, huyện Quỳnh Lưu giai đoạn từ 2015 đến 2020
2.2.1. Khái quát về trường THPT Quỳnh Lưu 2
Trường THPT Quỳnh Lưu 2 được thành lập vào năm 1965, đến nay trường đã
tròn 57 tuổi. Được thành lập trong thời kỳ chiến tranh nên trường đã di chuyển qua
nhiều địa điểm, hiện tại trường đóng tại địa chỉ xóm 8, xã Quỳnh Văn, huyện Quỳnh
Lưu, tỉnh Nghệ An.
Năm học 2021-2022, trường có 41 lớp với tổng số học sinh là 1733 em, 98 cán
bộ giáo viên được biên chế ở bốn tổ chuyên môn và một bộ phận hành chính. Về chất
lượng đội ngũ, hiện tại nhà trường có 26 giáo viên có danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp
tỉnh, 36 giáo viên có trình độ thạc sỹ. Trải qua 57 năm xây dựng và phát triển, thầy và
trò trường THPT Quỳnh Lưu 2 đã có nhiều cố gắng trong dạy và học, đã đạt được
nhiều thành tích đáng ghi nhận Là đơn vị dẫn đầu Miền Bắc về giáo dục đạo đức giai
đoạn 1965-1975; được nhà nước tặng thưởng huân chương lao động hạng ba vào năm
2005; được sở giáo dục và đà tạo Nghệ An công nhận đạt danh hiệu trưởng chuẩn
quốc gia, thủ tướng chính phủ tặng bằng khen, Bộ GD&ĐT tặng bằng khen, UBND
Tỉnh Nghệ An tặng cờ thi đua vào năm 2015. Năm 2020, trường tiếp tục được công
nhận lại danh hiệu trường đạt chuẩn quốc gia và kiểm định mức độ 2, nhiều năm liền
được sở GD&ĐT Nghệ An công nhận là đơn vị tiên tiến, tiên tiến xuất sắc.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên của
trường luôn nhận thức rõ mục tiêu: “dạy người, dạy chữ, hướng nghề”, trong đó dạy
người là mục tiêu cao nhất. Với quan điểm đó, đồng thời xuất phát từ thực tế của địa

phương, trường THPT Quỳnh Lưu 2 quyết tâm xây dựng nhà trường trở thành điểm
sáng về: dạy học sáng tạo, học hành chăm ngoan, môi trường thân thiện, dân chủ đoàn kết. Phấn đấu giữ vững danh hiệu trường đạt chuẩn Quốc gia, tiếp tục khẳng
định vai trò và sứ mệnh của mình trong việc góp phần thực hiện nhiệm vụ chung của
ngành giáo dục: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
2.2.2. Thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh của nhà
trường giai đoạn từ 2015 đến 2020
Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thơng có vai trị hết sức quan
trọng đối với sự hình thành nhân cách của học sinh cũng như góp phần to lớn trong
việc gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng
những lý tưởng đạo đức tốt đẹp cho học sinh nói chung và học sinh của trường THPT
18


Quỳnh Lưu 2 nói riêng.
Tại trường THPT Quỳnh Lưu 2, giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2020 công tác
giáo dục giá trị trị đạo đức truyền thống cho học sinh tuy đã được triển khai nhưng
chưa quyết liệt, sâu rộng và bài bản, phương pháp giáo dục chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm truyền thống nên chưa thu hút được học sinh mà thậm chí cịn tạo sự nhàm
chán theo kiểu “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Thực tế này xuất phát từ chỗ nhà trường
và gia đình cịn xem nhẹ vai trò và tác động của các giá trị đạo đức truyền thống, thậm
chí một số ít người có quan điểm phủ nhận cho rằng học sinh chỉ cần học giỏi các
mơn văn hóa, đặc biệt là các mơn khoa học tự nhiên và tiếng anh còn những cái khác
đều là thứ yếu. Một bộ phận không nhỏ cha mẹ học sinh hoặc là khơng đủ trình độ
nhận thức để quan tâm đến việc giáo dục toàn diện con em mình, một số do quá tập
trung vào phát triển kinh tế mà sao nhảng đi việc giáo dục con cái, phó mặc việc giáo
dục cho gia đình, thậm chí là thiếu đi sự quan tâm quản lý.
Từ những quan điểm, nhận thức và cách làm như trên đã dẫn đến một thực tế là
một bộ phận không nhỏ các em học sinh không những không học giỏi được các mơn
khoa học tự nhiên và tiếng anh mà cịn khơng thể tiếp thu nổi kiến thức của các các
môn thuộc khối khoa học xã hội, xuất hiện tình trạng học sinh thường xuyên vi phạm

nội quy trường học ngày càng nhiều, nói năng thơ tục, gây gỗ đánh nhau, thiếu tôn
trọng thầy cô và người lớn tuổi, thờ ơ trước các hiện tượng tiêu cực của xã hội, thậm
chí có những trường hợp vi phạm pháp luật. Hệ quả của sự thờ ơ này đã dẫn đến một
kết quả không mấy khả quan được thể hiện ở bảng thống kê dưới đây.
Bảng tổng hợp kết quả giáo dục toàn diện của học sinh nhà trường qua một
số năm học
Hạnh kiểm(%)
Năm học
Tốt

Khá

Học lực (%)

Trung
Yếu
bình
13,7

Giỏi

Khá

Yếu

Trung
bình

Kém


2015-2016

60,4

25,2

0,7

12,4

58,6

24,8

4,2

2016-2017

62,3

23,94 13,12 0,64

11,8

60,2

23,32

4,68


2017-2018

62,3

24,5

12,4

0,8

12,3

57,1

26,1

4,5

2018 – 2019

65

21,7

12,4

0,9

12,1


56,5

27,8

3,6

2019 – 2020

63

23,49 12,67 0,84

12,5

56,6

27,4

3,5

19


Từ kết quả thể hiện ở bảng trên cho thấy, quan điểm giáo dục “Tiên học lễ, hậu
học văn” vẫn cịn ngun giá trị cho đến hơm nay. Thực tế đã cho thấy rằng, ở đâu
xem nhẹ công tác giáo dục đạo đức thì ở đó sẽ khơng thể thành công với công tác giáo
dục và đào tạo bởi đạo đức của con người được xem là nền tảng, là gốc rễ của tri thức.
Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh nói chung, giá trị đạo đức truyền thống
nói riêng cần phải được quan tâm đúng mức, đặt đúng vị trí thì tất yếu nó sẽ phát huy
được giá trị và tác dụng của nó trong việc hướng đến mục tiêu xây dựng con người

mới xã hội chủ nghĩa góp phần thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đi
đến đích thành cơng. Muốn vậy, nhà quản lý giáo dục, cha mẹ học sinh và cả học sinh
mà nói rộng hơn là cả xã hội cần có sự thay đổi cách suy nghĩ, cách nhìn nhận, đánh
giá vấn đề theo quan điểm của triết học là lịch sử, đoàn diện, cụ thể.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO HỌC SINH Ở
TRƯỞNG TRUNG HỌC PHỔ THƠNG QUỲNH LƯU 2
3.1. Tăng cường vai trị của cấp ủy, chính quyền, các đồn thể xã hội trong
việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho học sinh, trong những năm qua, nhà trường đã có sự quan tâm, chú trọng
đúng mức đến công tác này và đã đạt được những kết quả bước đầu tương đối khá khả
quan. Cụ thể, về phía Chi Bộ, trong Nghị quyết của Chi Bộ nhiệm kỳ 2015-2020 và
2021-2025 đều chú trọng và nhấn mạnh việc giáo dục các giá trị đạo đức truyền thống
cho học sinh, trong chương trình hành động của mình, Chi Bộ đã chủ động xây dựng
Nghị quyết chuyên đề về tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh (Được thông qua
ngày 03/12/2019); Nghị quyết chuyên đề nâng cao đạo đức nhà giáo, phòng, chống
bạo lực học đường (Được thơng qua vào ngày 30/5/2019).
Về phía Ban giám hiệu nhà trường, đầu mỗi năm học đã chỉ đạo phân bổ nguồn
ngân sách ở mức độ phù hợp để triển khai các hoạt động, chuyên đề ngoại khóa, các
cuộc thi phục vụ cho việc giáo dục đạo đức cho học sinh (Từ 2015 đến 2020 nhà
trường đã chỉ đạo tổ Văn-Anh tổ chức được ba hoạt động ngoại khóa văn học dân
gian có quy mơ và chất lượng, đã thật sự mang lại nhiều dấu ấn và có tác dụng tích
cực đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh), có chương trình
phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường như đoàn thanh niên để triển khai
việc ký cam kết không vi phạm nội quy trường học và vi phạm pháp luật trong học
sinh, phối hợp với Cựu chiến binh để tổ chức nói chuyện chun đề vào các dịp
22/12, 19/5.
Ngồi ra, việc tăng cường cường phối hợp với Hội cha mẹ học sinh để quản lý
20



và giáo dục học sinh được thực hiện một cách thường xuyên. Đầu mỗi buổi học, sau
khi làm công tác điểm danh sỹ số ở các lớp, tất cả những học sinh vắng học sẽ được
hai giáo viên (01 giáo viên trực đoàn thanh niên và 01trực giám thị) dùng 02 máy điện
thoại bàn gọi cho phụ huynh để năm bắt tình hình và nguyên nhân học sinh vắng học.
Việc làm này được xem là một trong những điểm mới trong cách quản lý và giáo dục
học sinh tại trường THPT Quỳnh Lưu 2, được dư luận xã hội và cha mẹ học sinh đánh
giá cao.
3.2. Đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy, đa dạng hóa phương
pháp, hình thức giáo dục giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho học sinh
Thứ nhất, kết hợp giữa lý luận và thực tế, tạo môi trường thực tiễn sinh động để
giáo dục học sinh bằng cách tổ chức tham gia chiến dịch hè tình nguyện tại trường
học, tại các địa phương nơi các em cư trú bằng các việc làm cụ thể như phân cơng
giúp đỡ các gia đình chính sách, các gia đình liệt sỹ, các bà mẹ Việt Nam anh hùng,
người già neo đơn, chăm sóc nghĩa trang liệt sỹ, chương trình tiếp sức mùa thi,... qua
các hoạt động này, các em sẽ thấm thía hơn những ý nghĩa của cuộc sống, biết trân
quý những giá trị thiêng liêng của cuộc sống, đồng thời giáo dục cho các em biết lòng
biết ơn, sự sẻ chia trong cuộc sống và tinh thần tự hào về truyền thống của dân tộc.
Ngồi ra, nhà trường có kế hoạch để tổ chức các chương trình trải nghiệm thực
tế cho học sinh đến thăm các địa chỉ đỏ, các khu di tích lịch sử. Thực tế trong những
năm gần đây, trường THPT Quỳnh Lưu 2 đã tổ chức các chuyến trải nghiệm thực tế
cho học sinh đến với Truông Bồn, quê Bác, đền thờ vua Quang Trung sau đó ghé
thăm một số trường Đại Học, Cao Đẳng trên địa bàn tỉnh Nghệ An, kết thúc chuyến
trải nghiệm các em phải viết một bài thu hoạch. Nhìn chung các em rất hào hứng với
chương trình và kết quả được đánh giá là rất tốt thông qua việc chấm bài thu hoạch
của các em.
Thứ hai, thực hiện tốt Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ chính trị về
việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tại
trường THPT Quỳnh Lưu 2, nhà trường đã triển khai nội dung này bằng các việc làm

cụ thể như tổ chức thi làm các video clíp về học tập và làm theo Bác cho tất cả các lớp
Thứ ba, thực hiện sân khấu hóa hoạt động dạy học và hoạt động tuyên truyền
để thu hút học sinh tham gia. Ở nội dung này tại trường THPT Quỳnh Lưu 2, ngoài
việc tổ chức các hoạt động sân khấu ngoài trời vào các buổi sinh hoạt dưới cờ đầu
tuần thì ngay trong mỗi giờ dạy trên lớp của các bộ mơn có liên quan như lịch sử, văn
học và giáo dục công dân thì các thầy cơ giáo cũng đã triển khai giờ dạy theo hướng
sân khấu hóa bằng cách diễn các vở kịch hoặc làm các phiên tịa giả định,... chính
cách triển khai này đã tạo ra sự mới mẻ và hứng thú đối với các em học sinh trong quá
trình tiếp cận nội dung bài học.
21


Thứ tư, mời các nhân vật lịch sử về trường để nói chuyện với học sinh trong
giờ sinh hoạt dười cò đầu tuần (Năm 2021, nhà trường Bác Nguyễn Bá Xuyến – anh
hùng, dũng sỹ diệt mỹ, là cựu binh thành cổ Quảng Trị về trường nói chuyện trực tiếp
với học sinh nhân kỷ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam 22/12/2021).
Cũng trong năm 2021, nhà trường đã mời diễn giả Phan Thành Hổ về trường nói
chuyện với cán bộ, giáo viên và học sinh toàn trường vào dịp kỷ niệm ngày thành lập
đồn TNCS Hồ Chí Minh 12/3/2021).
3.3. Xây dựng môi trường thuận lợi để học sinh phấn đấu vươn lên trong
học tập và rèn luyện
Đây là một trong những yếu tố cần thiết cho sự phát triển nhân cách ở trẻ. Có
mơi trường sống, làm việc và học tập tốt, học sinh sẽ ít có cơ hội trở thành người xấu,
không thể phạm tội. Hiện nay, môi trường sống xung quanh rất phức tạp, luôn diễn ra
những tệ nạn xã hội ảnh hưởng không tốt đến việc hình thành tư tưởng, đạo đức lối
sống của học sinh. Do vậy, bản thân của các bậc phụ huynh, giáo viên phải nắm được
những hoạt động văn hóa, thương mại, các trị chơi giải trí và con người xung quanh
gia đình, nhà trường. Chính mơi trường xã hội gần gũi này trực tiếp ảnh hưởng và góp
phần hình thành và hoàn thiện nhân cách của học sinh. Nếu mơi trường xung quanh
phức tạp thì chúng ta sẽ có những biện pháp phòng ngừa để ngăn chặn những hậu quả

xấu xảy ra đối với học sinh.
Để thực hiện tốt nội dung này, Nhà trường đã chỉ đạo đoàn thanh niên là tổ
chức nòng cốt đảm bảo việc triển khai có hiệu quả. Hiện tại đã triển khai được các
hoạt động thu hút được khá đông đảo học sinh tham gia mang tính thường xun
thơng qua việc tổ chức các trò chơi dân gian kéo co, nhảy bao bố, nhảy dây đồng đội
vào giờ ra chơi sau tiết thứ hai của buổi sáng. Ngoài ra, đoàn trường đã thành lập
được các câu lạc bộ trong nhà trường hoạt động khá đều đặn và hiệu quả như câu lạc
bộ thể thao (Bóng đá và bóng chuyền, mỗi năm tổ chức các giải bóng đá, bóng
chuyền cả nam và nữ); Câu lạc bộ bảng báo (tập hợp những học sinh có năng khiếu
trong việc viết, vẻ để phục vụ cho hoạt động của bảng tin); Câu lạc bộ âm nhạc (Tập
hợp những học sinh có năng khiếu về âm nhạc và ca hát để cùng sinh hoạt tại trường
sau mỗi buổi học chiều); Câu lạc bộ truyền thanh, truyền hình (Tập hợp các em học
sinh có năng khiếu và đam mê lĩnh vực MC, kỹ thuật thu âm và dựng các video clíp
để xây dựng các chương trình phát thanh, clíp ngắn tuyên truyền trên hệ thống truyền
thanh và các trang facebook của nhà trường),...
3.4. Nâng cao vai trò của các thiết chế văn hóa trong giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống cho học sinh
Thiết chế văn hóa có vai trị quan trọng trong giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc cho mọi người nói chung, thanh niên nói riêng, bởi đây là "những nơi có
22


chức năng lưu giữ, phát huy và sáng tạo ra các giá trị văn hóa" Tuy nhiên, khơng phải
tất cả những nơi có chức năng lưu giữ, phát huy và sáng tạo ra các giá trị văn hóa đều là
thiết chế văn hóa, mà đó phải là những nơi phải có cơ sở vật chất, bộ máy điều hành
quản lý, có kế hoạch hành động. Ở trường THPT Quỳnh Lưu 2, hệ thống thiết chế văn
hóa được khai thác một cách có hiệu quả, cụ thể như sau:
Hệ thống truyền thanh của nhà trường ngoài nhiệm vụ truyền tải các thơng tin,
thơng báo, các chủ trương chính sách của đảng và nhà nước, của nhà trường đến với
cán bộ, giáo viên và học sinh thì đây cịn là một sân chơi rất sơi nổi góp phần đắc lực

vào vào việc giáo dục các giá trị đạo đức cho học sinh như chương trình quà tặng âm
nhạc (các em học sinh đăng ký gửi các món quà tặng âm nhạc là các bài hát, các thông
điệp đến thầy/cô, bạn bè nhân ngày lễ trong năm hoặc nhân ngày sinh nhật với những
lời chúc vô cùng ý nghĩa, thân thường). Vào các ngày lễ chủ điểm trong năm, đoàn
trường đã chủ động xây dựng các kịch bản chương trình phát thanh (Thời lượng khoảng
15 phút cho mỗi chương trình) sau đó tổ chức thu âm để phát vào các giờ sinh hoạt 15
phút đầu buổi nhằm tạo khơng khí vui tươi phấn khởi đầu buổi học, rèn luyện cho các
em một số kỹ năng sống như kỹ năng MC phát thanh, kỹ năng giao tiếp,... mà cái cốt
lõi là nhằm mục đích giáo dục đạo đức cho các em học sinh. Ngoài ra, tại trường THPT
Quỳnh Lưu 2 cịn có một kênh hình (Media THPT QL2) do đồn trường phụ trách cũng
đang thực hiện tương đối tốt nội dung này bằng cách các em xây dựng các kịch bản các
chương trình như giới thiệu về truyền thống của nhà trường, tuyên truyền về tác hại của
bạo lực học đường,... sau đó ghi hình, lồng ghép nhạc để đăng tải trên trang facebook
của đoàn trường.
Thư viện nhà trường, nơi cung cấp các tài liệu học tập, các tài liệu tham khảo,
giải trí cũng được phát huy một cách rất hiệu quả bằng cách tạo không gian hợp lý để
các em đến đọc báo và truy cập internet vào các tiết nghỉ giữa buổi, tạo điều kiện cho
các em mượn sách, báo về nhà để phục vụ cho nhu cầu học tập, giải trí.
Bảng tin của nhà trường được bố trí gồm hai mặt trong đó một mặt chun dùng
chuyển tải những thơng tin, thông báo của nhà trường hay câu hỏi các cuộc thi tìm hiểu
về kiến thức các mơn học, mặt cịn lại được bố trí trang trí để tuyên truyền bằng hình
ảnh theo chủ đề các ngày lễ trong năm. Qua hoạt động của bảng tin đã phát hiện ra
nhiều em học sinh có năng khiếu về viết, kẻ vẽ để kịp thời có những tư vấn nghề
nghiệp phù hợp nhằm phát huy được năng lực sở trường của các em.
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
4.1. Về mặt nhận thức, thái độ
Sau khi triển khai áp dụng các giải pháp giáo dục như đã trình bày ở chương 3,
chúng tơi đã thu nhận được những kết quả hết sức khả quan về sự thay đổi nhận thức
23



theo chiều hướng tích cự trong học sinh. Qua điều tra về sự nhận thức, thái độ, quan
điểm và sự đánh giá của học sinh về các giá trị đạo đức truyền thống với số lượng là
500 học sinh ở ba khối lớp (10, 11, 12) kết quả tổng hợp, xử lý, phân tích số liệu cho
thấy:
Thái độ nhận thức của các em học sinh về sự cần thiết của việc giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống cho học sinh. Hầu hết các em có thái độ tích cực và đánh giá
cao sự cần thiết của việc giáo dục để các em tìm hiểu và phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc. Biểu hiện cụ thể qua kết quả điều tra như sau:
Bảng tổng hợp kết quả điều tra: Sự cần thiết của việc giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống cho học sinh
TT

Phương án lựa chọn

Số phiếu

Tỷ lệ %

1

Rất cần thiết

450/500

90

2

Cần thiết


42/500

8,4

3

Bình thường

08/500

1,6

4

Khơng cần thiết

0/500

0

Từ kết quả trên có thể thấy rằng, hầu hết học sinh nhận thức được sự cần thiết
của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống (90%) và đặc biệt khơng học sinh nào
phủ nhận vai trị của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống. Đây là một thông điệp
đáng mừng bởi lẽ trong sự phát triển và tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường
và sự xâm nhập của các yếu tố văn hóa ngoại lai nhưng ý thức về việc gìn giữ và phát
huy những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc vẫn được các em đặt lên hàng đầu.
Từ thái độ nhận thức đúng đắn này chắc chắn các em sẽ có động cơ hành động học
tập và rèn luyện đúng đắn.
Thông qua việc lựa chọn các giá trị sống cho thấy các em có những nhận thức

đúng đắn về các giá trị sống, trong đó giá trị mà các em đề cao là sống có lí tưởng
(71,6%). Học sinh trường THPT Quỳnh Lưu 2 nhận thức rõ được vai trị của học tập
tu dưỡng rèn luyện đạo đức vì ngày mai lập thân, lập nghiệp. Các em hiểu được cần
đấu tranh với cái ác, cái xấu và các tệ nạn xã hội, đồng thời xây dựng lối sống lành
mạnh, sống có trách nhiệm với chính mình và mọi người. Lý tưởng sống của học sinh
trường THPT Quỳnh Lưu 2 trong sáng, đẹp đẽ, tiến bộ, đó là lý tưởng sống cách
mạng. Những giá trị về tiền bạc, quyền lực, sự hưởng thụ không được các em đề cao
(7,6%; 4,6%). Sự lựa chọn đó cho thấy, các em sống có mục đích, có hồi bão, biết
sống vì người khác, vì cộng đồng, không thờ ơ với các giá trị tốt đẹp và ln hướng
tới những giá trị chân chính.
24


Bảng tổng hợp: Kết quả lựa chọn các giá trị sống
TT

Phương án

Số phiếu

Tỷ lệ%

1

Sống để hưởng thụ

24/500

4,8


2

Nhiều tiền bạc

38/500

7,6

3

Trở thành người nổi tiếng

57/500

11,4

4

Có quyền lực

23/500

4,6

5

Sống có lý tưởng

358/500


71,6

Kết quả điều tra trên cho thấy, mặc dù sống trong thời đại hịa bình nhưng các
em ln có tinh thần tự giác tìm hiểu, học tập và phát huy những giá trị tốt đẹp của
dân tộc. Sự tiếp thu và phát huy các giá trị đó trong điều kiện mới cho phép chúng ta
tin tưởng vào thế hệ tương lai của đất nước - lực lượng kế thừa sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
4.2. Về hành động
Từ thái độ và nhận thức đúng đấn đã giúp cho các em học sinh có sự lựa chọn
để hành động đúng tạo nên một sự thay đổi lớn trong nội tại bản thân các em.
Đánh giá, nhận xét của Đoàn trường và ban giám thị cho thấy kết quả rất đáng
khích lệ, cụ thể như sau:
- Khoảng 98% học sinh chấp hành nghiêm túc việc mặc đồng phục, đeo phù hiệu
khi đến trường tham gia học tập.
- Số vụ mâu thuẫn dẫn đến xô xát, đánh nhau trong học sinh giảm hẳn, không có
các vụ việc phức tạp, nghiêm trọng xảy ra đến mức phải bị xử kỷ luật.
- Khơng cịn tồn tại các hiện tượng nói tục chưởi thề
- Tình trạng học sinh sinh vi phạm an tồn giao thơng với các lỗi như điều khiển
xe máy phân khối lớn đi học, không đội mũ bảo hiểm bắt buộc, chở quá số người quy
định đã giảm nhiều (trong năm học 2020-2021 và học kỳ 1 của năm học 2021-2022 chỉ
có 02 lượt học sinh vi phạm so với giai đoạn 2015-2020 trung bình mỗi năm có khoảng
20 lượt vi phạm bị cơng cảnh sát giao thông xử lý và thông báo về trường).
- Tình trạng các em mang điện thoại đến trường khi đi học cũng giảm hẳn.
- Khoảng 99% học sinh mang theo đầy đủ sách vở và đồ dùng dạy học khi đến
25


×