1
61 tnh thành Vit Nam
Mc lc
Mc lc 1
Bn đ đa hình Vit Nam 3
Bn đ v trí các tnh 4
Vài hàng tng quát 5
An Giang 14
Bà Ra - Vng Tàu 24
Bc Liêu 40
Bc Cn 46
Bc Giang 52
Bc Ninh 60
Bn Tre 72
Bình Dng 80
Bình nh 86
Bình Phc 98
Bình Thun 102
Cà Mau 110
Cao Bng 116
Cn Th 122
à Nng 129
c Lc 140
ng Nai 149
ng Tháp 159
Gia Lai 169
Hà Giang 175
Hà Nam 181
Hà Ni 188
Hà Tây 206
Hà Tnh 223
Hi Dng 234
Hi Phòng 246
Hòa Bình 256
Hng Yên 263
Khánh Hòa 271
Kiên Giang 282
Kon Tum 292
Lai Châu 298
Lng Sn 304
Lào Cai 313
Lâm ng 323
Long An 334
Nam nh 340
2
Ngh An 352
Ninh Bình 363
Ninh Thun 376
Phú Th 382
Phú Yên 389
Qung Bình 397
Qung Nam 407
Qung Ngãi 423
Qung Ninh 432
Qung Tr 455
Sài Gòn 463
Sóc Trng 493
Sn La 499
Tây Ninh 504
Thái Bình 509
Thái Nguyên 517
Thanh Hóa 525
Tha Thiên - Hu 539
Tin Giang 560
Trà Vinh 569
Tuyên Quang 575
Vnh Long 579
Vnh Phúc 588
Yên Bái 596
3
4
5
Vài hàng tng quát
Din tích : 330.991 cây s vuông.
Dân s : (2001) 78.685.800 ngi.
Th đô :
Hà Ni
V TRÍ
:
Kinh tuyn : 102° 10' - 109° 30' Ðông.
V tuyn : 8° 30' - 23° 22' Bc.
Nc Cng hoà xã hi ch ngha Vit Nam là mt di đt hình ch S, nm trung
tâm khu vc Ðông Nam Á, phía Ðông bán đo Ðông Dng, phía Bc giáp Trung
Quc, phía Tây giáp Lào, Campuchia, phía Ðông và Nam trông ra bin Ðông và
Thái Bình Dng. B bin Vit Nam dài 3260 km, biên gii đt lin dài 3730 km.
Trên đt lin, t đim cc Bc đn đim cc Nam (theo đng chim bay) dài 1650
km, t đim cc Ðông sang đim cc Tây ni rng nht 600 km (Bc b), 400 km
(Nam b), ni hp nht 50 km (Qung Bình).
Vit Nam là đu mi giao thông t n Ð Dng sang Thái Bình Dng.
KHÍ HU :
Vit Nam nm trong vùng khí hu nhit đi và á nhit đi có gió mùa, có ánh nng
chan hoà, lng ma di dào và đ m cao. Mt s ni gn chí tuyn hoc vùng
núi cao có tính cht khí hu ôn đi.
Nhit đ trung bình t 22 đn 27°C, rt thích hp vi khách du lch. Tuy nhiên
6
nhit đ trung bình tng ni có khác nhau, Hà Ni 23°C, thành ph H Chí Minh
26°C, Hu 25°C.
Khí hu Vit Nam có hai mùa rõ rt, mùa khô rét (t tháng 11 đn tháng 4 nm
sau), mùa ma nóng (t tháng 5 đn tháng 10), nhit đ thay đi theo mùa rõ rt
nht các tnh phía Bc, giao đng nhit đ gia các mùa chênh nhau đn 12°C.
các tnh phía Nam, s chênh lch nhit đ gia các mùa không đáng k, ch
khong 3°C. các tnh phía bc, khí hu thay đi bn mùa : Xuân, H, Thu,
Ðông.
A HÌNH :
Lãnh th Vit Nam bao gm 3 phn 4 là đi núi. Bn vùng núi chính là :
Vùng núi Ðông Bc (còn gi là Vit Bc).
Kéo dài t thung lng sông Hng đn vnh Bc b. Ti đây có nhiu danh lam
thng cnh ni ting nh các đng Tam Thanh, Nh Thanh (Lng Sn), hang Pc
Pó, thác Bn Gic (Cao Bng), h Ba B (Bc Cn), núi Yên T, vnh H Long
(Qung Ninh). Ðnh núi Tây Côn Lnh cao nht vùng Ðông Bc : 2431 m.
Vùng núi Tây Bc
Kéo dài t biên gii phía Bc (giáp Trung Quc) ti min Tây tnh Thanh Hoá. Ðây
là vùng núi cao hùng v, có Sa Pa (Lào Cai) đ cao 1500 m so vi mt bin, ni
ngh mát lý tng, ni tp trung đông các tc ngi H' Mông, Dao, Kinh, Tày, Giáy,
Hoa, Xá Phó
Vùng núi Tây Bc còn có di tích chin trng lng danh Ðin Biên Ph và đnh núi
Phan - Xi - Png, cao 3143 m.
Vùng núi Trng Sn Bc
7
T min Tây tnh Thanh Hoá đn vùng núi Qung Nam - Ðà Nng, có đng Phong
Nha (Qung Bình) k thú và nhng đng đèo ni ting nh đèo Ngang, đèo Hi
Vân Ðc bit có đng mòn H Chí Minh đc th gii bit đn nhiu bi nhng
k tích ca ngi Vit Nam trong cuc kháng chin v đi ln th hai.
Vùng núi Trng Sn Nam
Nm phía Tây các tnh Nam Trung b. Sau nhng khi núi đ s là mt vùng đt
rng ln đc gi là Tây Nguyên (cao nguyên phía Tây). Vùng đt đy huyn thoi
này còn cha đng nhiu điu bí n v thc vt, đng vt, nht là nn vn hóa
đc sc ca các b tc ít ngi. Thành ph Ðà Lt, ni ngh mát lý tng đc
hình thành t cui th k 19.
Vit Nam có hai đng bng ln là đng bng châu th sông Hng và đng bng
châu th sông Cu Long
Ðng bng sông Hng (đng bng Bc b).
Rng khong 15.000 km² đc bi t bi phù sa ca hai con sông ln là sông
Hng và sông Thái Bình. Ðây là đa bàn c trú ca ngi Vit c, cng là ni hình
thành nn vn minh lúa nc.
Ðng Bng sông Cu Long (đng bng Nam b).
- Rng khong 36.000km², là vùng đt phì nhiêu, khí hu thun li. Ðây là va lúa
ln nht ca Vit Nam.
Trên lãnh th Vit Nam có hàng nghìn con sông ln, nh. Dc b bin, c khong
20 km li có mt ca sông, do đó h thng giao thông thy khá thun li.
Hai h thng sông quan trng là sông Hng min Bc và sông Mê Kông (còn gi
là Cu Long) min Nam.
8
Vit Nam có 3260 km b bin, nu có dp đi dc theo b bin Vit Nam bn s
đc đm mình trong làn nc xanh ca nhng bãi bin đp nh Trà C, Sm Sn,
Lng Cô, Non Nc, Nha Trang, Vng Tàu, Hà Tiên Có ni núi n lan ra bin to
thành v đp k thú nh vnh H Long, đã đc UNESCO công nhn là di sn thiên
nhiên th gii.
Vit Nam có nhiu hi cng ln nh Hi Phòng, Ðà Nng, Qui Nhn, Cam Ranh,
Vng Tàu, Sài Gòn
Gia vùng bin Vit Nam còn có h thng đo và qun đo gm hàng ngàn đo
ln nh nm ri rác t Bc đn Nam, trong đó có hai qun đo Hoàng Sa và
Trng Sa.
Rng và đt rng chim mt din tích ln trên lãnh th Vit Nam. Các khu rng
quc gia đc nhà nc bo v và có k hoch phát trin du lch sinh thái bn
vng. Nhng khu rng quí đó li đc thiên nhiên "chia" cho nhiu đa phng
trên c nc : rng Ba Vì (Hà Tây), rng Cát Bà (Hi Phòng), rng Cúc Phng
(Ninh Bình), rng Bch Mã (Hu), rng Cát Tiên (Ðng Nai), rng Côn Ðo v.v
Vit Nam là nc có ngun tài nguyên khoáng sn phong phú. Di lòng đt có
nhiu khoáng sn quí nh : thic, km, bc, vàng, angtimoan, đá quí, than đá.
thm lc đa ca Vit Nam có nhiu du m, khí đt.
Ngun sui nc khoáng cng rt phong phú : sui khoáng Quang Hanh (Qung
Ninh), sui khoáng Hi Vân (Bình Ðnh), sui khoáng Vnh Ho (Bình Thun), sui
khoáng Dc M (Nha Trang), sui khoáng Kim Bôi (Hoà Bình) v.v
*
9
Lc s
T đu thi đi đng thau, các b lc ngi Vit đã đnh c chc chn Bc B
và Bc Trung B. By gi có khong 15 b lc Lc Vit sng ch yu min trung
du và đng bng Bc B, hàng chc b lc Âu Vit sng ch yu min Vit Bc.
Ti nhiu ni, ngi Lc Vit và ngi Âu Vit sng xen k vi nhau, bên cnh các
thành phn dân c khác.
Do nhu cu tr thu, nhu cu chng ngoi xâm và do vic trao đi kinh t, vn hoá
ngày càng gia tng, các b lc sinh sng gn gi nhau có xu hng tp hp và
thng nht li. Trong s các b lc Lc Vit, b lc Vn Lang hùng mnh hn c.
Th lnh b lc này là ngi đng ra thng nht tt c các b lc Lc Vit, dng
lên nc Vn Lang, t xng là vua, mà s c gi là Hùng Vng và con cháu ông
nhiu đi v sau vn ni truyn danh hiu đó.
Cn c vào các tài liu s hc, có th tm xác đnh đa bàn nc Vn Lang tng
ng vi vùng Bc B và bc Trung B nc ta hin nay cùng vi mt phn phía
nam Qung Ðông, Qung Tây (Trung Quc). Thi gian tn ti ca nc Vn Lang
khong t đu thiên niên k I trc Công nguyên đn th k 3 trc Công nguyên.
Nm 221 trc Công Nguyên, Tn Thu Hoàng cho quân xâm lc đt ca toàn
b các nhóm ngi Vit. Thc Phán, th lnh liên minh các b lc Âu Vit, đc tôn
làm ngi lãnh đo cuc chin chng Tn. Nm 208 trc Công Nguyên, quân Tn
phi rút lui. Vi uy th ca mình, Thc Phán xng vng (An Dng Vng), liên
kt các b lc Lc Vit và Âu Vit li, dng nên nc Âu Lc.
Nm 179 trc Công Nguyên, Triu à, vua nc Nam Vit, tung quân đánh
chim Âu Lc. Cuc kháng c ca An Dng Vng tht bi. Sut 7 th k tip đó,
10
mc dù các th lc phong kin phng Bc thay nhau đô h, chia nc ta thành
nhiu châu, qun vi nhng tên gi khác l mà chúng đt ra, nhng vn không
xoá ni cái tên "Âu Lc" trong ý thc, tình cm và sinh hot thng ngày ca nhân
dân ta.
Mùa xuân nm 542, Lý Bí khi ngha đánh đui quân Lng, gii phóng lãnh th.
Tháng 2-544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đ, đt quc hiu là Vn Xuân, khng đnh
nim t tôn dân tc, tinh thn đc lp và mong mun đt nc đc bn vng
muôn đi.
Chính quyn Lý Bý tn ti không lâu ri li ri vào vòng đô h ca các triu đi
phong kin phng Trung Quc (t nm 602). Quc hiu Vn Xuân b vùi dp và
ch đc khôi phc sau khi Ngô Quyn đánh tan quân Nam Hán bng chin thng
Bch Ðng nm 938, chm dt thi k Bc thuc.
Nm
968, Ðinh B Lnh dp yên các s quân cát c, thng nht quc gia, lên
ngôi Hoàng đ và cho đi quc hiu là Ði C Vit (nc Vit ln). Quc hiu này
duy trì sut đi Ðinh (968-979), Tin Lê (980-1009) và đu thi Lý (1010-1053).
Nm 1054, nhân đim lành ln là vic xut hin mt ngôi sao sáng chói nhiu
ngày mi tt, nhà Lý lin cho đi tên nc là Ði Vit và quc hiu Ði Vit đc
gi nguyên đn ht thi Trn.
Tháng 3-1400, H Quý Ly ph Trn Thiu Ð, lp ra nhà H và cho đi tên nc
thành Ði Ngu ("ngu" ting c có ngha là "s yên vui"). Quc hiu đó tn ti đn
khi gic Minh đánh bi triu H (tháng 4-1407).
Sau 10 nm kháng chin (1418-1427), cuc khi ngha chng Minh ca Lê Li toàn
thng. Nm 1428, Lê Li lên ngôi, đt tên nc là Ði Vit (lãnh th nc ta lúc
11
này v phía Nam đã ti Hu). Quc hiu Ði Vit đc gi qua sut thi hu Lê
(1428-1787) và thi Tây Sn (1788-1810).
Nm 1802, Nguyn Ánh đng quang, m đu thi Nguyn và cho đi tên nc là
Vit Nam, Quc hiu Vit Nam đc công nhn hoàn toàn v mt ngoi giao đ
tr thành chính thc vào nm 1804. Tuy nhiên, hai ting "Vit Nam" li thy xut
hin t khá sm trong lch s nc ta. Ngay t cui th k 14 đã có mt b sách
nhan đ Vit Nam th chí do trng nguyên H Tông Thc biên son. Cun D đa
chí ca Nguyn Trãi (đu th k 15) nhiu ln nhc đn hai ch "Vit Nam". Ðiu
này còn đc đ cp rõ ràng trong nhng tác phm ca trng Trình Nguyn Bnh
Khiêm (1491-1585), chng hn ngay trang m đu tp Trình tiên sinh quc ng đã
có câu : "Vit Nam khi t xây nn". Ngi ta cng tìm thy hai ch "Vit Nam"
trên mt s tm bia khc t th k 16-17 nh bia chùa Bo Lâm (1558) Hi
Phòng, bia chùa Cam L (1590) Hà Tây, bia chùa Phúc Thành (1664) Bc
Ninh Ðc bit bia Thu Môn Ðình (1670) biên gii Lng Sn có câu đu : "Vit
Nam hu thit, trn Bc i quan" (đây là ca ngõ yt hu ca nc Vit Nam và là
tin đn trn gi phng Bc). V ý ngha, phn ln các gi thuyt đu cho rng
t "Vit Nam" kin to bi hai yu t : chng tc và đa lý (ngi Vit phng
Nam).
Ðn đi vua Minh Mng (1820-1840), quc hiu đc đi thành Ði Nam. Dù vy,
hai ting "Vit Nam" vn đc s dng rng rãi trong các tác phm vn hc, trong
nhiu giao dch dân s và quan h xã hi.
Ngày 19-8-1945, Cách mng Tháng Tám thành công, lt đ hoàn toàn ách
thng tr phong kin và thc dân, m ra mt k nguyên mi. Ngày 2-9-1945, Ch
12
tch H Chí Minh đc Tuyên ngôn đc lp, khai sinh nc Vit Nam dân ch cng
hoà.
Sut 30 nm tip theo, tuy đt nc lâm vào cnh chin tranh, ri chia ct, hai
ting "Vit nam" vn đc ph bin t Bc chí Nam và tr thành thân thit, thiêng
liêng vi mi ngi.
Ngày 30-4-1975, min Nam đc gii phóng, non sông quy v mt mi. Ngày 2-
7-1976, trong k hp đu tiên ca Quc hi nc Vit Nam thng nht, toàn th
Quc hi đã nht trí ly tên nc là Cng hoà xã hi ch ngha Vit Nam. Hin
pháp nm 1980 và hin pháp nm 1992 tip tc khng đnh quc hiu đó, đa nó
tr thành chính thc c v pháp lý ln trên thc t.
Ngôn ng
Vit Nam là đt nc có 54 dân tc. Mi dân tc đu có ting nói và sc thái vn
hoá riêng nhng li có chung mt nn vn hoá thng nht. Tính thng nht ca
nn vn hoá Vit Nam biu hin ý thc cng đng, gn bó gia các dân tc vi
nhau trong quá trình dng nc và gi nc. Ting Vit đc s dng là ting ph
thông, là công c giao tip chung ca các dân tc sng trên di đt Vit Nam.
Cùng vi s phát trin ca đt nc, ngày nay đ phc v cho giao lu quc t
nhiu ngôn ng nc ngoài cng đc s dng Vit Nam nh ting Anh, Pháp,
Nga, Hoa, Ðc
Nn tng vn hoá truyn thng ca Vit Nam là vn hoá dân gian. Ðó là kho tàng
vn hoá giàu có phong phú vi nhng truyn thn thoi, truyn thuyt, c tích, ca
dao, hò vè , là nhng làn điu dân ca, các hình thc sân khu dân gian phong
phú. Nn vn hóa dân gian y đã phát trin di dng truyn ming trc khi có
13
ch vit Vit Nam.
Song song vi dòng vn hc truyn ming, nn vn hc bác hc bt đu xut hin
Vit Nam vi các tác phm vit bng ch Hán (th k th X). Trong sut mt
thi gian dài, các nn vn hoá phng Bc, vn hoá n Ð thông qua đo Pht,
đo Nho đã nh hng sâu sc đn nn vn hc và ch vit ca Vit Nam. Tuy
nhiên bn sc ca vn hoá Vit Nam vn đc bo v và phát trin vi vic xut
hin vn hc ch Nôm (ci biên ca ch Hán theo âm ting Vit) vào th k XIII.
Ðc bit vào th k XVII, mt s giáo s phng Tây đã s dng ch cái La Tinh
đ phiên âm ting Vit và nh vy đã ra đi ch Quc ng. Sau hai th k, ch
Quc ng đã ngày càng ph bin và tr thành ch vit chính thc ca Vit Nam.
T cui th k XIX, dòng vn hc bng ch quc ng đã ra đi và phát trin mnh
m (vn xuôi, vn vn, truyn, th, ). Sau Cách mng tháng Tám, nn vn hc
hin đi Vit Nam đã chuyn sang mt giai đon mi mang tính dân tc và tính
hin đi sâu sc. Vit Nam đã gii thiu nhiu thành tu vn hc ca mình, t vn
hc c đin đn vn hc hin đi ra nc ngoài và nhiu tác phm, tác gi Vit
Nam đã đc th gii bit đn.
*
14
An Giang
Diện tích : 3424 km².
Dân số : 1.592.600 người (2001).
Tỉnh lỵ :
.
Thò xã : .
Các huyện :
Chợ mới, An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Châu Phú, Tònh Biên, Tri Tôn,
Châu Thành, Thoại Sơn.
Dân tộc : Việt (Kinh), Khmer, Chăm, Hoa
An Giang là một tỉnh miền Tây Nam bộ thuộc đồng bằng sông Cửu Long, bắt đầu
từ chỗ sông Mê Kông chảy vào nước ta được chia làm đôi. Phía đông và đông bắc
An Giang giáp đồng Tháp, phía đông nam giáp Cần Thơ, phía nam và tây nam
giáp Kiên Giang, phía tây giáp Cam Pu Chia. Khác với các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long, bên cạnh vùng đồng bằng phù sa, An Giang còn có một miền núi nhỏ,
dài 30 km, rộng 13 km. Đó là đám bảy núi (Thất Sơn) ở các huyện Tònh Biên, Tri
Tôn. Phía tây tỉnh chạy song song với biên giới là kênh Vónh Tế, được đào năm
1823 nối từ Châu Đốc đến Hà Tiên.
An Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình
27°C,
cao nhất từ 35 - 36°C vào tháng 4 và tháng 5, thấp nhất từ 20 - 21°C vào tháng 12
và tháng 1. Lượng mưa trung bình 1400 - 1500 mm, có hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Hàng năm An
Giang vẫn đón nhận con nước lũ khoảng từ 2,5 tháng đến 5 tháng và hình thành
"mùa nước nổi".
An Giang là tỉnh đứng đầu cả nước về sản lượng lúa (trên 2 triệu tấn), ngoài cây
lúa còn trồng bắp, đậu nành và nuôi trồng thủy sản nước ngọt như cá, tôm An
Giang còn nỗi tiếng với các nghề thủ công truyền thống như lụa Tân Châu, mắm
Châu Đốc, mộc chợ Thủ, bánh phồng Phú Tân, khô bò và các mặt hàng tiêu dùng.
Đặc biệt là nghề dệt vải thủ công lâu đời của đồng bào Chăm và nghề nuôi cá bè
đặc trưng của vùng sông nước.
Thành phố Long Xuyên trên hữu ngạn sông Hậu, cách Sài Gòn 189 km , được
hình thành vào đầu thế kỷ 19.
15
An Giang được nhiều du khách biết đến với các danh lam thắng cảnh : Núi Sam,
Chùa Bà Chúa Xứ, núi Cấm, hệ thống hang động Thủy Đài Sơn, Anh Vũ Sơn, Sơn
Viên Cô Tô.
Sinh hot, kinh t
Dân chúng sinh sống trong tỉnh An Giang phần lớn là người Kinh, kế đến là người
Việt gốc Khmer, gốc Chàm và gốc Trung Hoa. Các tôn giáo là đạo Phật, Hòa Hảo,
Cao Đài và Thiên Chúa.
Nông nghiệp là nghề căn bản của đồng bào ta tại An Giang. Ngoài hoa màu chính
là lúa gạo, còn có các loại nông sản phụ đáng kể là ngô, đậu xanh, các loại rau,
các loại dưa, cầu (na), chuối, dừa, thuốc lá, dâu, thốt nốt Đường thốt nốt rất
ngon.
Núi Ba Thê có mỏ vỏ sò rất lớn. Vỏ sò tiện dùng trong nông nghiệp và chế biến
thức ăn trong nuôi gia súc. Núi Sập có mỏ đá hoa cương dùng cho xây cất và tráng
thạch dùng làm đồ trang sức.
Những vùng gần sông ngòi, kinh rạch, dân ta hành nghề đánh cá, tôm , nuôi vòt và
làm nước mắm, cá khô. Trước năm 1975, hai nghành đánh cá và nuôi gia súc phát
triển mạnh trong tỉnh. Việc nuôi cá ở ao hồ rất phát đạt, nhất là nuôi cá tra. Đặc
biệt, vùng cù lao Ông Chưởng có rất nhiều cá, tôm, nên miền Nam có câu ca dao :
"Ba phen quạ nói với diều.
Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm".
"Ông Chưởng" là tiếng gọi tắt chức "Chưởng dinh" của ông Nguyễn Hữu Cảnh khi
đem quân đi dẹp giặc ở biên giới Việt - Miên, sau Miên Chúa phải đi cầu hòa.
Đây là cù lao lớn và trù phú nhất Long Xuyên, huyện Chợ Mới sầm uất như một
tỉnh lỵ ở miền Tây. Ngoài ra nghề mộc làm bàn ghế, đóng ghe tàu và dệt vải cũng
rất thònh hành.
Rừng núi Châu Đốc mang lại nhiều lợi ích cho tỉnh, đặt biệt là gỗ quý như : giáng
hương, cao, gõ, mù u. Núi Sam và núi Trá Sư có đá tràng thạch, đá hoa cương và
các loạïi đá dùng trong công nghiệp. Núi Dài, núi Cô Tô có mỏ đá hạt lóng lánh
dùng làm trang sức. Đá đem lại nguồn lợi rất lớn cho tỉnh. Châu Đốc còn có ong
mật, ong ruồi đem lại số lượng sáp ong, mật ong khá nhiều. Dân ta dùng lá ở các
16
rừng tràm chế biến dầu nóng. Vùng rừng Thất Sơn có trên 150 loại cây làm thuốc
nam.
Hai sông Tiền, sông Hậu Giang có nhiều cá và dân chúng cũng nuôi thêm cá nước
ngọt ở ao hồ. Rừng tràm có cá đồng, cá linh làm nước mắm ngon. Ai về Châu Đốc
cũng phải thưởng thức thổ sản là mắm Châu Đốc ngon nổi tiếng.
Trong các ngành nuôi gia súc, nghề nuôi bò thònh hành nhất. Dân chúng hợp "chợ
trâu bò" rất đông dưới chân núi Sam mỗi tháng ba lần. Tục ngữ có câu :
"mắm Châu Đốc, dốc Nam Vang, bò Châu Giang, kinh Vónh Tế".
Châu Đốc có nhiều ao hồ thiên nhiên. Đặt biệt là hồ "Bủng Bình Thiên" ở giữa
Khánh Bình và Nhơn Hội, rộng trên 300 mẫu, có nhiều tôm cá.
Ngoài ra dân chúng còn trồng thuốc lá, dâu tằm, dệt lụa, nhuộm hàng và các
nghành nghề tiểu thủ công nghiệp khác. Nghề trồng dâu nuôi tằm ỡ quận Tân
Châu khá phổ biến. Việc nuôi tằm rất cực khi tầm ăn "ăn ba, ăn rỗi". Tục ngữ có
câu "làm ruộng ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng" là vậy. Tơ lụa lãnh Tân
Châu nổi tiếng khắp nơi.
Lc s
An Giang thuộc Thủy Chân Lạp, được vua Nặc Tôn dâng cho chúa Nguyễn Phúc
Khoát (1738 - 1765) để đền ơn lập mình lên vua và giúp dẹp nội loạn.
Năm Đinh Sửu 1757, đất An Giang thuộc ba đạo : Đạo Đông Khẩu (xứ Sa Đéc),
đạo Tân Châu (xứ Cù Lao ở Hậu Giang) và đạo Châu Đốc (xứ Châu Đốc ở Hậu
Giang). Tất cả ba đạo đều thuộc dinh Long Hồ. Nam Kỳ, thời các chúa Nguyễn
được chia làm bốn dinh, ba dinh kia là Trấn Biên tức Biên Hòa, Phiên Trấn tức
Gia Đònh và Trấn Đònh tức Đònh Tường. Năm 1805, Gia Long chia Nam Kỳ làm
năm trấn, lúc đó đất An Giang và Vónh Long họp thành trấn Vónh Thanh.
Năm 1832, Minh Mạng đổi các trấn thành tỉnh và Nam Kỳ gọi là Gia Đònh. An
Giang trở thành tỉnh riêng gồm hai phủ Tuy Biên, Tân Thành và bốn huyện Tây
Xuyên, Phong Phú, Đông Xuyên và Vónh An dưới quyền cai trò của tổâng đốc An -
Hà (An Giang - Hà Tiên).
Thời Pháp thuộc, đất An Giang bò chia ra thuộc sáu tỉnh mới : Long Xuyên, Châu
Đốc, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cần Thơ và Sa Đéc.
17
Khi quân Pháp tiến chiếm các tỉnh miền Tây thì người dân An Giang đã theo hai
anh hùng Võ Duy Dương và Trần Văn Thành kháng chiến. Các đồn bót của giặc
quanh vùng Long Xuyên không bao giờ yên ổn với các cuộc tấn công của nghóa
quân.
Năm 1910 một số nhà cách mạng Đông Kinh Nghóa Thục bò Pháp đày an trí tại
miền Nam, trong số này có hai ông Lê Đại, Dương Bá Trạc bò đưa về Long Xuyên.
Nhưng sau đó hai ông vẫn bí mật hoạt động, mở trường dạy học, truyền bá tinh
thần yêu nước đến thanh niên.
Năm 1914, anh hùng Lương Ngọc Quyến xuống miền Nam để liên lạc với những
người yêu nước, ông vào Sài Gòn rồi xuống Long Xuyên tiếp xúc với bạn cũ là
Dương Bá Trạc và gặp cả tên Nguyễn Bá Trác, bạn học ở Nhật. Lúc bấy giờ, tên
này đã lén lút làm điềm chỉ cho quân Pháp; sau đó, hắn đã bảo cho Pháp chận
đường Lương Ngọc Quyến ở biên giới Lào - Campuchia nhưng không thành.
Tháng 8-1862, triều đình Tự Đức nhu nhược muốn hàng quân Pháp nên ra lệnh
Chánh Quản Cơ Trần Văn Thành (người làng Bình Thạnh Đông, quận Châu Phú)
mang quân đi bắt anh hùng Võ Duy Dương. Thay vì mở cuộc hành quân, ông đến
bản dinh Thiên Hộ Dương một mình cho xem chiếu chỉ và giúp ý kiến chiêu mộ
thêm nghóa quân đợi ngàøy khởi nghóa. Năm 1863, anh hùng Nguyễn Hữu Huân lui
quân từ Đònh Tường về Châu Đốc, tiếp tục hoạt động, kêu gọi mọi người tham gia
kháng chiến.
Tháng 6 năm 1867, đại quân thủy bộ của De la Grandière kéo đến tỉnh. Tổng đốc
Châu Đốc lập kế hoạch bắt cóc bọn quan Pháp nhưng thất bại. Thành Châu Đốc
lọt vào tay giặc. Anh hùng Trần Văn Thành và đề đốc Văn đưa nghóa quân chiếm
giữ vùng Lăng Linh làm căn cứ "đoàn binh Gia Nghò", rồi tiến đánh các đồn trại
của giặc quanh vùng Châu Đốc và Long Xuyên. Năm 1872, ông chiếm khu rừng
"Bảy Thưa" (thuộc làng Tú Tề), đánh Pháp quyết liệt ở Tri Tôn, Tònh Biên, Chắc
Cà Đao. Ngày 20 tháng 2 năm 1873, nhờ Trần Bá Lộc hướng dẫn, đại binh Pháp
tấn công rừng "Bảy Thưa", anh hùng Trần Văn Thành và đề đốc Văn tử trận.
Trên bước đường đấu tranh cứu nước, nhiều nhà cách mạng đã xuống các tỉnh
miền Nam và đến Châu Đốc để liên lạc với những người yêu nước. Năm 1904,
18
anh hùng Phan Bội Châu ghé quận Châu Phú; năm 1909, ông Cường Để từ Mỹ
Tho đến quận Tân Châu, rồi sang Cao Lãnh
Năêm 1940, ảnh hưởng giáo lý Phật giáo Hòa Hảo lan rộng khắp nơi ở miền Nam,
trở thành một phong trào quốc gia dân tộc khiến quân Pháp nao núng. Chúng liền
bắt đức thầy Huỳnh Phú Sổ mang về Sài Gòn, sau đó đem về quản thúc tại Bạc
Liêu. Ở bất cứ đâu, đức thầy vẫn tiếp tục truyền rộng trong quần chúng. Đầu năm
1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, đức thầy thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng
Minh Hội để tranh thủ nền độc lập cho Việt Nam.
Phong cnh, di tích
(Huyện Tònh Biên) : Cách thò xã Châu Đốc 30 km, là một
ngọn trong dãy "Thất Sơn" hùng vó của An Giang, trong đó có núi Cấm cao 710 m.
Đường đi lên dốc núi thoải mái dễ đi, trên sườn núi có nhiều cảnh đẹp như suối
Thanh Lang, động Thủy Liêm, hang Vồ Bồ Hong, vườn cây ăn quả, đặc biệt khí
hậu ở núi Cấm rất mát mẻ. Đến khu du lòch núi Cấm, du khách sẽ được tham quan
thắng cảnh núi non, hồ chứa nước Otuka Sa, thảm cỏ xanh tươi.
: Di tích núi Sam thuộc xã Vónh Tế, phía tây thò xã Châu
Đốc. Từ thò xã Long Xuyên đến thò xã Châu Đốc 56 km theo đường liên tỉnh 10 đi
5 km nữa thì đến núi Sam. Núi Sam cao 284 m nằm giữa cánh đồng, có đường đá
trải nhựa dài 5 km cho xe chạy vòng quanh lên tận đỉnh núi. Núi Sam cùng núi
Bảy là những cao điểm án ngữ biên giới Campuchia. Núi thấp có nhiều đường
mòn, nhiều ngã lên xuống, ít cây cổ thụ.
Theo truyền thuyết, núi có nhiều linh hiển, nên có nhiều chùa thờ Phật đã dựng
lên tại đây gần 2 thế kỷ. Đồng bào khắp nơi về đây cúng lễ rất đông. Có đến 200
ngôi đền, chùa, am, và miếu nằm rải rác ở chân núi, sườn núi và cả trên đỉnh.
Trên đỉnh có một pháo đài cũ do Pháp xây dựng. Đặc biệt dưới chân núi còn có
lăng Thoại Ngọc Hầu tức Nguyễn Văn Thoại, một tướng triều Nguyễn có nhiều
công đức đối với nhân dân đòa phương trong việc tổ chức đào các con kênh quan
trọng trong tỉnh An Giang : kinh Vónh Tế dài 90 km nối sông Hậu đến Hương
Thành (Hà Tiên) đổ ra biển Thái Lan; kinh Chỉnh An nối sông Hậu qua sông Tiền.
Tất cả những công trình quan trọng ấy đều hoàn tất trước khi quân Pháp xâm lược
19
Nam Kỳ (1858).
Núi Sam không chỉ là cảnh đẹp thiên nhiên mà còn gắn liền với nhiều di tích lòch
sử đã khắc sâu vào tâm linh người dân đồng bằng Nam bộ. Nơi đây còn có miếu
thờ bà Chúa Xứ, chùa Tây An, lăng Thoại Ngọc Hầu, vườn Tao Ngộ, đồi Bạch
Vân Đây là khu du lòch nổi tiếng cả vùng Nam bộ.
: Đền thờ quản cơ Trần Văn Thành
thuộc xã Thạch Mỹ Tây, huyện Châu Phú, nằm giữa đồng lúa Lạng Vinh, bên bờ
kinh Xáng Vinh Tre (kinh Tri Tôn), cách thành phố Long Xuyên khoảng 50 km.
Đền thờ do ông Trần Văn Nhu, con trai cả ông Trần Văn Thành đứng ra xây dựng
năm 1897, sau 20 năm từ ngày ông Trần Văn Thành hy sinh trong một trận chiến
đấu chống quân Pháp. Đền thờ là nơi tưởng nhớ người lãnh đạo cuộc khởi nghóa
Láng Linh - Bảy Thưa vào năm 1867 - 1873 và còn là nơi tập hợp nhân dân và tín
hữu đạo Bửu Sơn Kỳ Hương để chờ thời cơ đánh Pháp.
: Là công trình đồ sộ nhất ở chân núi Sam (Châu Đốc - An
Giang). Khu lăng có đền thờ ông Thoại Ngọc Hầu, mộ ông cùng hai phu nhân.
Thoại Ngọc Hầu tên thật là Nguyễn Văn Thoại (1761 - 1829), một danh tướng nổi
danh của triều Nguyễn. Ông sinh ngày 25-11-1761 tại Diên Phước, Tỉnh Quảng
Nam, được phong tước Ngọc Hầu và mất ngày 06-06-1829. Ông là người đã chỉ
huy đào kênh Vónh Tế, kênh Thoại Hà để phát triển nông nghiệp và mở đường
từ Châu Đốc đi núi Sam, Châu Đốc đi Lò Gò và Sóc Trăng. Ông có công lớn trong
việc mở mang khai phá nhiều vùng đất phía Tây Nam tổ quốc.
Toàn bộ khu lăng tẩm kết thành một khối kiến trúc hài hòa, bao bọc xung quanh
là bức tường dày đều đặn các bậc xây bằng đá ong. Khu chính giữa gồm lăng mộ
của hai bà vợ. Bên phải khu mộ là những ngôi mộ vô danh của dân công khi theo
ông khai hoang, lập ấp, đào kênh Vónh Tế.
Ngoài ra, sau phần mộ của Thoại Ngọc Hầu có tấm bia "Vónh Tế Sơn" bằng đá sa
thạch, khắc 730 chữ được dựng từ năm 1828, 4 năm sau khi đào kênh Vónh Tế.
Lăng Thoại Ngọc Hầu được hoàn thành vào cuối những năm 20 của thế kỷ 19.
Trải qua bao năm tháng, lăng vẫn còn nét uy nghi diễm lệ, là một công trình kiến
trúc nghệ thuật mang nhiều ý nghóa lòch sử. Để ghi công ơn Thoại Ngọc Hầu,
20
hàng năm đến ngày 6-6 âm lòch, nhân dân quanh vùng đến làm lễ tưởng niệm ông.
: Từ thò xã Châu Đốc nhìn về hướng tây thấy một ngọn núi cao
khoảng 248 m gọi là núi Sam cách thò xã 5 km. Đến chân núi Sam, nhìn lên chân
núi là thấy một ngôi chùa mang dáng dấp của những ngôi chùa Ấn Độ có kiến
trúc hài hòa với cảnh chí thiên nhiên, tạo một vẻ đẹp lộng lẫy đó là chùa Tây An.
Chùa Tây An cổ tự do một vò quan triều Nguyễn đời Minh Mạng (1820) là tổng
đốc Nguyễn Nhật An xây dựng theo lời nguyện của ông khi được triều đình phái
đi Cao Miên. Theo lời nguyện này, nếu ông đi thành công, khi về sẽ dựng một
ngôi chùa thờ Phật tại chân núi Sam. Cất chùa xong, ông thỉnh vò hòa thượng đầu
tiên là Nguyễn Văn Giác, pháp hiệu là Hải Tònh đến trụ trì. Năm Thiệu Trò thứ 7
(1847), chùa lại thỉnh thêm một vò hòa thượng nữa tên là Đoàn Minh Huyền, pháp
hiệu là Pháp Tang đến trụ trì. Vò hòa thượng sau này ngoài việc tu hành còn có tài
làm thuốc trò bệnh cho nhân dân rất hiệu quả nên sau khi ông mất, đồng bào suy
tôn hòa thượng với danh hiệu là Phật thầy Tây An và danh hiệu này vẫn được gọi
đến ngày nay.
Chùa sửa chữa nhiều lần theo thời gian trụ trì của các vò hòa thượng. Chùa kiến
trúc theo kiểu Ấn Độ với các vật liệu bền chắc như gạch ngói, xi măng. Chính
diện là ngôi chùa, cao 18 m thờ tượng Phật Thích Ca, còn hai bên là lầu chiêng và
lầu trống. Trước chùa có ba vọng cửa : cửa giữa tam quan thờ tượng Phật Quan
Âm, 2 cửa hai bên có hai bảng đề "Tây An cổ tự", bên trong cửa tam quan là sân
chùa có một cột phướn cao 16 m. Dưới bậc thang chùa có đúc bạch tượng và hắc
tượng, vai có đắp hai vò thần tiên ngồi trên mặt trăng lưỡi liềm, 2 bên là hai hành
lang phân biệt cho tín đồ nam nữ. Chùa theo phái Đại Thừa, có tới 11.270 tượng
lớn nhỏ làm bằng gỗ. Ngày rằm tháng giêng, tháng 7 và tháng 10 âm lòch là ngày
nhân dân đến cúng lễ đông nhất.
(Long Hương Tự) : Thuộc xã Long Sơn, huyện Phú Tân. Chùa
được khởi công xây dựng vào năm 1875 do hòa thượng Trần Minh Lý đứng ra
trông coi. Sở dó gọi là chùa Giồng Thành vì chùa này được xây dựng trên nền hào
thành trước đây của nhà Nguyễn. Từ năm 1875 đến nay, chùa đã trải qua 4 lần
xây dựng tu bổ lại. Năm 1970 là lần sửa chữa lớn nhất gần đây và hòa thượng
21
Chôn Nhơ cho sửa lại chùa theo kiến trúc kiểu Ấn Độ. Xung quanh chùa cây cối
xanh tốt làm tăng thêm vẻ cổ kính, trang nghiêm.
Chùa Giồng Thành được cất theo chữ "Song Hỉ" có 3 gian : chánh điện, nhà giảng,
hậu tổ. Giữa chánh điện và hậu tổ có 2 nhà cầu và song hành. Chùa lợp ngói, trên
cột chánh điện có vẽ rồng. Trên nóc chùa có tháp 2 tầng hình phễu. Gian chánh
điện thờ Phật Thích Ca, Ngọc Hoàng và 2 ông Nam Tào, Bắc Đẩu. Nhà giảng thờ
Phật Mẫu : gian hậu tổ thờ hòa thượng Trần Minh Lý, Chôn Nhơ và hòa thượng
Nguyễn Văn Điền. Hàng năm, vào dòp rằm tháng Giêng, rằm tháng 7, rằm tháng
10 âm lòch có nhiều lượt người đến tham quan và lễ chùa. Hiện nay chùa vẫn giữ
được vẻ đẹp như xưa do không bò chiến tranh tàn phá.
(Chùa Chăm, Châu Giang) : Tỉnh An Giang
có trên 12.000 đồng bào thuộc dân tộc Chăm ở Thuật Hải, người Chăm ở An
Giang đều theo đạo Hồi. Trong khu vực họ cư trú có rất nhiều chùa lớn nhỏ -
thường gọi là thánh đường. Thánh đường Ma Bu Rát thuộc xã Phú Hiệp, huyện
Phú Tân, cách thò xã Châu Đốc khoảng 2 km và được xem là một thánh đường
tiêu biểu của người Chăm ở An Giang. Thánh đường có lối kiến trúc độc đáo.
Hàng năm có tổ chức 3 lần lễ lớn :
Lễ Haji vào ngày 10-12 hồi lòch (3-7 dương lòch).
Lễ ra chay vào tháng 9 hồi lòch (27-4 dương lòch).
Lễ sinh nhật của Mahamet (người sáng lập đạo Hồi).
Trong những dòp lễ lớn này, cả đồng bào Việt (Kinh) cùng đồng bào Chăm quanh
vùng về đây hành lễ rất đông vui.
Các dp l hi
(Lễ Vía Bà) : Đây là lễ hội dân gian lớn nhất của Nam bộ,
được tổ chức hàng năm bắt đầu từ đêm 23 đến 27 tháng 4 âm lòch. Khách hành
hương đến lễ hội có thể đi theo tỉnh lộ số 10 từ Long xuyên lên Châu Đốc, rẽ vào
7 km rồi tới núi Sam, hoặc đi bằng đường thủy từ Cần Thơ, Sóc Trăng lên hay từ
Sài Gòn xuống. Trong ngày lễ còn có múa bóng hát bội Từ đêm 23 mọi người
đã tập về chùa để xem lễ tắm Bà. Tượng Bà được đưa xuống cởi áo ra, lấy nước
mưa pha với nước hoa để tắm. Phong tục này đã tồn tại hàng trăm năm nay.
22
Lễ Vía Bà hàng năm thu hút rất đông khách thập phương đến, vừa để tham dự lễ
hội dân gian, xin cầu tài cầu lộc, đồng thời còn để du ngoạn, chiêm ngưỡng cảnh
trí thiên nhiên tuyệt đẹp của núi Sam, của các di tích như lăng Thoại Ngọc Hầu,
chùa Tây An.
: Đền Nguyễn Trung Trực ở xã Long Kiên, huyện
Chợ Mới. Ông là thủ lónh nghóa quân chống Pháp ở Nam bộ, với chiến thắng vang
dội là đã đánh chìm một tàu của Pháp trên sông Nhật Tảo (thế kỷ 19). Lễ hội mở
ra vào ngày 18, ngày 19 tháng 10 âm lòch hàng năm để tưởng niệm và ghi nhớ
công lao của ông. Sau lễ cúng và lễ tưởng niệm là đến mục diễn lại trận đánh con
tàu trên. Hội thường tổ chức chơi cờ tướng, bơi thuyền và nhiều trò vui khác.
: Là lễ năm mới, lễ Tết lớn nhất của người Khmer
Nam bộ (tương tự như Tết Nguyên Đán của người Việt), được tổ chức vào ngày 12,
13, 14 tháng 4 âm lòch tại chùa và ở gia đình. Lễ hội có ý nghóa tống tiễn mùa
nắng hạn, bước sang thời kỳ có mưa để làm mùa. Bà con làm lễ tiễn đưa Têvêda
(Thần coi sóc) cũ, đón Têvêda mới. Trong dòp này, ngoài cúng lễ bà con thăm hỏi
còn chúc mừng lẫn nhau. Buổi tối có đốt pháo thăng thiên, tham dự các trò chơi
như thả diều, đánh quay lửa Trai gái trong làng múa Roam Vông, hát Dù Kê
(Lễ Cúng Ông Bà) : Lễ Đôn Ta được tổ chức từ ngày 1 đến 15 tháng
10 âm lòch tại vùng đồng bào Khmer Nam Bộ sinh sống. Đây là ngày lễ ông bà
(như Tết Thanh Minh của người Việt). Trong những ngày lễ này, nhân dân mang
bánh tét, hoa quả, cơm canh đến lễ chùa. Sau đó tổ chức ăn uống tại gia đình.
(Haji hay còn gọi Roya Hadji) : Là lễ hội của cộng đồng người
Chăm theo đạo Hồi, ở các tỉnh An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai, thờ thượng đế
Allah. Lễ được tổ chức từ ngày 7 đến 10 tháng 12 (hồi lòch) tại các thánh đường
Hồi giáo. Hàng năm ở An Giang lễ hội Hát Gi diễn ra tại chùa Chăm Châu Giang
xã Phú Hiệp, huyện Phú Tân.
Vào ngày lễ, toàn thể tín đồ phải lắng nghe ông Khojip nói lại sự tích ngày thánh
Lbrôhim. Buổi tối, tổ chức cuộc thi đọc kinh Coran và chấm giải nhất cho ai đọc
hay và thông suốt. Sau phần hành lễ, người Chăm thường tổ chức các cuộc vui
chơi, sinh hoạt văn hóa thể thao như ca hát, đua ghe Giống như Tết của người
23
Việt, đây là dòp để mọi người thăm viếng, vui chơi và chúc mừng, cầu nguyện
điều lành cho nhau.
: Lễ hội đua bò kéo bừa truyền thống là nét
sinh hoạt văn hóa độc đáo của người Khmer ở 2 huyện Tònh Biên và Tri Tôn, nơi
nuôi nhiều bò làm sức kéo nhất ở tỉnh An Giang. Sân đua bò thường là một khu
đất rộng khoảng 60 m và dài khoảng 170 m, được bao bởi bờ đất cao, đồng thời là
nơi dành cho khán giả ngồi hay đứng. Phía dưới là đường đua dài khoảng 90 m,
rộng khoảng 4 m, hai đầu đặt điểm xuất phát và đích đến.
Vào ngày hội, từng đôi bò được ách vào một chiếc bừa đặt biệt, gọng bừa là bàn
đạp gồm 1 tấm gỗ rộng 30 cm, dài 90 cm, bên dưới là răng bừa. Mỗi đôi bò được
đều khiển bằng 2 nài : nài chính và nài phụ. Nài chính đều khiển đua bò đứng
trên bàn đạp, cầm cương và gậy thúc bò chạy nhanh. Trước và sau mỗi lượt đua
bò, bò được săn sóc cẩn thận. Lễ hội đua bò được tổ chức vào lễ Đôn Ta (lễ cúng
ông bà), ngày cuối cùng của tháng 10 âm lòch của Khmer (năm 1998 tương ứng
với ngày chủ nhật 20-09-1998 dương lòch,trước chùa Khmer Cốt Rômiết thuộc xã
Lương Phi, huyện Tri Tôn).
24
Bà Ra Vng Tàu
Diện tích : 1965 km².
Dân số : 839.000 người (2001).
Tỉnh lỵ :
.
Thò xã :
.
Các huyện :
Châu Đức, Xuyên Mộc, Tân Thành, Long Đất, Côn Đảo.
Dân tộc : Việt (Kinh), Hoa, Khmer.
Bà Ròa -Vũng Tàu giáp tỉnh Đồng Nai ở phía Bắc, giáp tỉnh Bình Thuận ở phía
Đông, giáp huyện Cần Giờ của Sài Gòn ở phía Tây, còn lại phía Nam và Đông
Nam giáp biển. Đòa hình của tỉnh bao gồm núi, đồi, đồng bằng nhỏ và các đồi cát,
dải cát chạy vòng theo bờ biển. Đất Châu Thành là vùng phù sa cũ, ít dốc. Hai
huyện Long Đất, Xuyên Mộc là vùng đồng bằng và đồi núi ven biển.
Bà Ròa -Vũng Tàu thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình
hàng năm
27°C, ít gió bão, giàu ánh nắng. Bà Ròa -Vũng Tàu có chiều dài bờ biển
phần đất liền 100 km, trong đó 72 km là bãi cát có thể sử dụng làm bãi tắm).
Thềm lục đòa tỉnh tiếp giáp với quần đảo Trường Sa, nơi đây chứa đựng hai loại
tài nguyên cực kỳ quan trọng là dầu mỏ và hải sản.
Bà Ròa - Vũng Tàu có nhiều hồ chứa nước loại lớn như Kim Long, Đá Đen, Đá
Bàn, Châu Pha, Sông Soài, Lồ Ô, Suối Giàu Nhiều sông như sông Ray, sông Bà
Đáp, sông Đông , và có trên 200 con suối, đặc biệt suối nước nóng Bình Châu
nóng 80°C là một tài nguyên nước khoáng q. Thành phố Vũng Tàu có bốn ngọn
núi chính : Núi Hòn Sụp cao 250 thước, núi Tương Kỳ (còn gọi là núi Lớn) cao
249 thước, núi Vũng Mây cao 240 thước và núi Tao Phùng (còn gọi là núi Nhỏ)
cao 170 thước. Ngoài hai ngọn núi kể trên cấu tạo bởi 521 mẫu đá, phần đất còn
lại của Vũng Tàu được cấu tạo bởi một lớp cát thật sâu, dù đào giếng sâu tới đâu
cũng chỉ thấy toàn là cát. Phần nhiều nước giếng đều có chất phèn, muốn uống
phải qua hệ thống lọc.
Thành phố Vũng Tàu có một dãy đồi cát nằm song song với bãi biển ở hướng
Đông - Nam (tức bãi Thùy Vân), chạy từ chân núi Tao Phùng đến cửa Lấp với
chiều dài khoảng 10 cây số. Đồi cát cao nhất là 32 thước nằm trong phường
25
Thắng Nhứt, đồi thấp nhất cao bốn thước ở phường Thắng Tam. Những hàng
dương liễu được trồng dọc theo các dãy đồi cát theo bờ biển vừa làm tăng vẻ đẹp
thiên nhiên vừa để cản bớt các trận gió biển từ hướng Đông Nam thổi cát lấn vào
đồng bằng, giúp cho hoa màu trồng trọt trên đất liền đỡ bò thiệt hại. Ngoài ra, còn
vài đồi cát nằm rải rác giữa khu phố Thắng Nhứt và Phước Thắng.
Sông lớn nhất của thành phố là sông Dinh, dài 11 cây số, nằm về phía Tây Bắc.
Phía Đông Bắc có rạch Cây Khế dài sáu cây số. Rạch bà nằm chính giữa thành
phố, làm ranh giới của hai khu phố Thắng Nhứt và Phước Thắng, dài gần 8 cây số.
Tại khu phố Thắng Nhì, phía Nam cù lao Bến Đình có rạch Bến Đình. Về phía
Đông khu phố Phước Thắng, nơi cửa Lấp, có ba con rạch dẫn nước vào thành phố
là rạch Suối Nước, rạch Sông Cái và rạch Ông Năm.
Thành phố có nhiều bưng sen khá lớn (bưng là vùng đầm lầy nước đọng, đất ít cát
hoặc không có cát), rộng 406 mẫu, chạy dài từ chân núi Tao Phùng thuộc khu phố
Thắng Tam đến trung tâm khu phố Thắng Nhứt và kể từ đó, các bưng sen này
được nối tiếp bởi rừng bần chạy đến rạch Cây Khế.
Bờ biển Vũng Tàu có các núi Nghình Phong, mũi Đá và nhiều bãi biển nổi tiếng
như : bãi Thùy Vân (bãi Sau), bãi Thùy Dương (bãi hàng Dừa, bãi Trước), bãi
Phương Thảo (bãi Dâu), bãi Hương Phong (bãi Dứa), bãi Vọng Nguyệt (bãi Ô
Quắn ở mũi Nghinh Phong) và bãi Lăng Du. Từ bãi Vọng Nguyệt nhìn ra bờ biển
có hòn Bồng Đảo (hòn Bà). Vũng Tàu là cửa ngõ trước khi vào vũng Gành Rai.
Vũng Tàu là một trung tâm du lòch lớn. Sự kết hợp hài hòa giữa quần thể thiên
nhiên biển, núi cùng kiến trúc đô thò và các công trình văn hóa như tượng đài,
chùa chiền, nhà thờ v.v tạo cho Vũng Tàu có ưu thế của thành phố du lòch biển
tuyệt đẹp, đầy quyến rũ. Vũng Tàu không có mùa đông, do vậy các khu nghỉ mát
có thể hoạt động quanh năm.
Vũng Tàu có nhiều bãi biển đẹp như bãi sau (Thùy Vân), bãi trước (Tầm Dương),
bãi dâu (Phương Thảo), bãi dứa (Hương Phong), và nhiều di tích, thắng cảnh
như Hải Đăng trên núi Nhỏ, núi Lớn, Bạch Dinh, Niết Bàn Tònh Xá, Thích Ca
Phật Đài, nhà lớn Long Sơn đã thu hút nhiều khách. Tỉnh Bà Ròa Vũng Tàu có 4
khu vực có tiềm năng lớn trong sự nghiệp phát triển du lòch :