Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Chính sách tiền tệ và tác động của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn 2011-2012 và Giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.19 KB, 31 trang )


1




TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN














Bài tập nhóm
PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH
Tên đề tài:
“Chính sách tiền tệ và tác động của nó đối với sự phát triển của
nền kinh tế trong giai đoạn 2011-2012 và Giải pháp hoàn thiện”.


Nhóm thực hiện : NHÓM 4
Chuyên ngành : TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Cao học khoá : 21




Hà Nội – 2013

2

MỤC LỤC
I. Tổng quan về chính sách tiền tệ. 4
1. Chính sách tiền tệ và vai trò của nó 4
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ 5
3. Nội dung của chính sách tiền tệ 7
4. Các công cụ của chính sách tiền tệ 8
4.1. Các công cụ trực tiếp. 8
4.2. Các công cụ gián tiếp 10
II. Thực trạng chính sách tiền tệ ở VN và tác động của nó tới sự phát triển của nền kinh tế giai
đoạn 2011-2012 14
1. Việc sử dụng các công cụ của CSTT năm 2011-2012 14
1.1. Mục tiêu hàng đầu của CSTT: 14
1.2. Điều hành công cụ CSTT năm 2011-2012 14
2. Đánh giá quá trình thực hiện các công cụ của CSTT những năm qua 18
2.1. Những thành tựu 18
2.2 Những tồn tại 19
III. Định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ Việt Nam 28
1. Định hướng 28
2. Giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ 29


3

LỜI MỞ ĐẦU

Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng
của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ
mô như: tốc độ tăng trưởng, lạm phát Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền
tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định.
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công
cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền
kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các công cụ nào, sử
dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề thường
xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành
chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh
nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách
tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về
chính sách tiền tệ, nhóm em quyết định chọn đề tài: “Chính sách tiền tệ và tác động
của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn 2011-2012 và Giải
pháp hoàn thiện”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 phần được bố cục như sau:
Phần I. Tổng quan về chính sách tiền tệ.
Phần II. Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn 2011-2012.
Phần III. Định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
Khi nghiên cứu đề tài này, do bản thân nhóm còn nhiều hạn chế nên chắc chắn
sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự giúp đỡ của thầy, cô giáo và sự
đóng góp của các bạn.

Hà N

i, ngày 20 tháng 6 năm 2013

Nhóm 4


CH210386

Nguyễn Phương Hà
CH210390

Đào Thu Hằng
CH210391

Đinh Minh Hằng
CH210396

Phạm Thị Hằng Hạnh
CH210398

Đoàn Thị Thu Hiền
CH210408

Đàm Thị Hoa


4

I. Tổng quan về chính sách tiền tệ.
1. Chính sách tiền tệ và vai trò của nó
Chính sách tiền tệ là một trong hai công cụ quan trọng chủ yếu trong hệ thống
các công cụ chính sách kinh tế của nhà nước để điều hành vĩ mô đối với nền kinh tế.
Theo điều 3 của luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam (06-2010) thì: “Chính
sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu

hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực
hiện mục tiêu đề ra”. Với chính sách này, Nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt
động của Ngân hàng, động viên các nguồn lực trong nước, đồng thời tranh thủ các
nguồn lực từ bên ngoài, tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó, giữ vững
chủ quyền quốc gia, mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế-xã hội.
Tại mỗi một quốc gia, với tư cách là thiết chế đầu não của toàn bộ hệ thống tài
chính & ngân hàng, NHTW là cơ quan chủ chốt, thiết kế và quyết định chính sách
tiền tệ. Dù với tên gọi khác nhau (NHTW, NHNN, Hệ thống dự trữ lên bang ),
nhưng tất cả chúng đều có chung một tính chất là cơ quan trong bộ máy quản lý Nhà
nước, độc quyền phát hành tiền, thực hiện nhiệm vụ cơ bản là ổn định giá trị tiền tệ,
thiết lập trật tự, bảo dảm sự hoạt động an toàn và ổn định và hiệu quả của toàn bộ hệ
thống ngân hàng nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của mỗi đất nước.
Hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là nhiệm vụ trung tâm của NHTW
trong lĩnh vực tiền tệ. Điều hành chính sách tiền tệ của NHTW trong nền kinh tế thị
trường mang tính chất điều tiết vĩ mô, hướng các tổ chức tín dụng vào thực hiện các
mục tiêu của chính sách tiền tệ, đồng thời vẫn đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động
kinh doanh của các tổ chức tín dụng. NHTW thường không can thiệp và không ra
lệnh trực tiếp vào các quyết định tác nghiệp của các tổ chức tín dụng mà chủ yếu sử
dụng các biện pháp tác động gián tiếp để điều chỉnh môi trường và các điều kiện kinh
doanh của các tổ chức tín dụng như: khả năng thanh toán, lãi suất chiết khấu, dự trữ,
khối lượng tiền cung ứng, tỷ giá để thông qua đó đạt tối mục tiêu của chính sách
tiền tệ.
Để điều hành chính sách tiền tệ, NHTW phải hình thành và sử dụng hệ thống
công cụ của nó. Đặc điểm của các công cụ chính sách tiền tệ là tạo cho NHTW khả
năng tác động có hiệu lực đến các yếu tố tiền đề buộc các tổ chức tín dụng phải tự
điều chỉnh hoạt động của mình theo hướng chỉ đạo của NHTW nhưng vẫn phải đảm
bảo quyền tự chủ trong kinh doanh cũng như sự bình đẳng trong môi trường cạnh
tranh giữa các ngân hàng.


5

2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Bất kỳ một chính sách kinh tế - xã hội nào cũng có những mục tiêu của nó,
chính sách tiền tệ không nằm ngoài quy luật đó. Đối với chính sách tiền tệ có 6 mục
tiêu cơ bản thường xuyên được nhắc đến, tuy nhiên trong từng hoàn cảnh cụ thể, đối
với từng quốc gia thì việc đề ra chính sách tiền tệ cũng có những điểm khác biệt.
2.1. Giải quyết việc làm
Việc làm cao là một mục tiêu có giá trị bởi thất nghiệp cao gây ra gánh nặng
tài chính cho gia đình và toàn thể xã hội và khi thất nghiệp cao, nền kinh tế không
những có nhiều lao động ngồi không mà còn có những nguồn tài nguyên để
không,gây lãng phí& không làm tăng được sản lượng tiềm năng của quốc gia.
Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm phụ thuộc chủ yếu vào tình hình tăng
trưởng kinh tế. Tuỳ theo tình hình đó mà NHTW phải vận dụng các công cụ của
mình góp phần tăng cường mở rộng đằu tư sản xuất kinh doanh, đồng thời tham gia
tích cực vào sự tăng trưởng liên tục và ổn định, khống chế tỷ lệ thất nghiệp không
tăng quá mức tự nhiên.
2.2. Tăng trưởng kinh tế.
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế quan hệ chặt chẽ với mục tiêu việc làm cao. Các
chính sách có thể tập trung vào kích thích đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu và quan trọng nhất của chính sách
tiền tệ. Với tư cách là trung tâm tiền tệ tín dụng & thanh toán trong nền kinh tế quốc
dân, NHTW có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này. NHNN Việt
Nam cần bằng mọi phương thức để có thể huy dộng được hầu hết các nguồn vốn
nhàn rỗi trong và ngoài nước để phục vụ cho mục tiêu này.
2.3. Về ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát.
Khi giá cả ổn định, lạm phát ở mức thấp thu nhập thực tế của người dân được
nâng cao, đời sống nhân dân được cải thiện, đầu tư cho nền KT cũng được đảm bảo,
tăng trưởng kinh tế thực dương.
Ngược lại, khi lạm phát ở mức cao,thu nhập của người dân bấp bênh, nguy cơ

khủng hoảng kinh tế cao. Chính vì vậy mà mục tiêu này được xem là một trong
những mục tiêu quan trọng nhất trong CSTT. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn luôn
gắn liền với mục tiêu ổn định giá cả kiềm chế lạm phát.
2.4. Mục tiêu ổn định lãi suất:
Tất cả các quốc gia đều mong muốn một sự ổ định về lãi suất. Vì lãi suất có
ảnh hưởng lớn đến đầu tư và tăng trưởng, ảnh hưởng đến các luồng vốn, ngoại tệ
Chính vì thế, ổn định lãi suất tạo ra thế ổn định cho các lĩnh vực như tín dụng, đầu tư,
sự di chuyển vốn… dẫn đến ổn định chung cho nền kinh tế.

6

Lãi suất chính là một trong những công cụ quan trọng nhất của CSTT. Để cho
nền kinh tế được ổn định đòi hỏi CSTT phải đưa ra một hệ thống lãi suất mềm dẻo
đúng đắn,phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường.
2.5. Về ổn định thị trường tài chính:
Việc tạo ra một nền tảng tài chính ổn định để hệ thống NH & các tổ chức tín
dụng có thể hoạt động một cách có hiệu quả và hỗ trợ một cách tốt nhất cho tăng
trưởng KT cao, lạm phát thấp, cũng như hạn chế những khuyết tật của hệ thống tài
chính là mục tiêu chủ đạo của chính sách tiền tệ. NHTW phải điều hoà hoạt động của
hệ thống TC trong nước một cách gián tiếp,tăng cường hiệu quả cho nó.
Bản thân hệ thống TC cũng có những mục tiêu riêng của nó và nhiều khi
những mục tiêu này lại đối chọi với các mục tiêu chung của nền KT. Do đó vai trò
của CSTT là làm hài hoà một cách tối ưu giữa các mục tiêu trên,để phục vụ tốt nhất
cho lợi ích chung của nền KT mà không làm tổn hại hay hạn chế sự phát triển của hệ
thống TC.
2.6. Mục tiêu ổn định thị trường ngoại hối:
Nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền quốc gia, NHTW thực hiện các
nhiệm vụ giao dịch về TC và Tiền tệ đối ngoại bằng các phương diện: quản lý ngoại
hối, lập và theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế, thực hiện các nghiệp vụ
hối đoái, tổ chức và điều tiết thị trường hối đoái trong nước, xây dựng và thống nhất

quản lý dự trữ ngoại hối của đất nước, tiến hành kinh doanh ngoại hối trên thị trường
ngoại hối quốc tế. Cần thiết lập mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế
nhằm tìm kiếm các nguồn vốn có thể huy động được (viện trợ, vay nợ, vay ưu đãi,
thu hút đầu tư, thu hút kiều hối ).
2.7. Quan hệ giữa các mục tiêu.
Mặc dù đều là các mục tiêu của các chính sách tiền tệ nhưng không phải lúc
nào các mục tiêu trên cũng nhất trí với nhau, đặc biệt là trong dài hạn.
Chỉ có thể đạt được một mục tiêu khi chấp nhận sự cắt giảm nhất định đối với
mục tiêu khác. Chẳng hạn muốn kiềm chế lạm phát thì sẽ phải chấp nhận nạn thất
nghiệp tăng lên Vì vậy tuỳ theo việc hướng vào mục tiêu nào là chính mà người ta
có thể coi chính sách tiền tệ là chính sách ổn định giá cả, chính sách tạo việc làm,
chính sách cân bằng cán cân thanh toán hay chính sách tăng trưởng kinh tế.
Để đạt được những mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ, NHTW phải xác
định các mục tiêu trung gian. Bởi lẽ NHTW sử dụng các mục tiêu trung gian để có
thể xét đoán nhanh chóng được tình hình hoạt động của mình phục vụ cho các mục
tiêu cuối cùng, hơn là chờ cho đến khi thấy được kết quả cuối cùng của các mục tiêu
đó.


7

3. Nội dung của chính sách tiền tệ.
Xét cho cùng NHTW có thể thực thi hai loại chính sách tiền tệ phù hợp với
tình hình thực tiễn của nền kinh tế:
- Chính sách mở rộng tiền tệ: là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế
nhằm khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất tạo công ăn việc làm. Chính sách này
được đưa ra trong trường hợp nền kinh tế trì trệ, tăng trưởng thấp. Nó tạo ra không
khí tiêu dùng mạnh mẽ kích thích đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
- Chính sách thắt chặt tiền tệ: là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế
nhằm khuyến khích đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế và kiềm

chế lạm phát. Chính sách này được đưa ra nhằm ngăn trặn tình trạng phát triển quá
nóng của nền kinh tế. Nó tạo ra sự khan hiếm về tiền, sự đắt đỏ về chi phí, làm giảm
tốc độ tăng trưởng quá nhanh, tạo ra một sự phát triển bền vững.
Trong nền kinh tế thị trường, CSTT bao gồm 3 thành phần cơ bản gắn liền với
3 kênh dẩn nhập tiền vào lưu thông.
 Chính sách tín dụng:
Thực chất CSTD là cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc
dân, thông qua các nghiệp vụ ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay được tạo lập từ
các nguồn tiền gửi của XH và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo, phù hợp với sự vận
động của cơ chế thị trường.
 Chính sách ngoại hối:
Nhằm đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả các tài sản có giá trị thanh toán đối
ngoại phục vụ cho việc ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và gia
tăng việc làm trong xã hội, đảm bảo chủ quyền tiền tệ của đất nước.
 Chính sách đối với ngân sách nhà nước:
Nhằm đảm bảo phương tiện thanh toán cho chính phủ trong trường hợp Ngân
sách nhà nước bị thiếu hụt. Phương thức tối ưu là NHTW cho ngân sách nhà nước
vay theo kỳ hạn nhất định, dần dần tiến tới loại bỏ hoàn toàn phát hành tiền để bù đắp
thiếu hụt ngân sách.
Ngân sách nhà nước có thể ở ba trạng thái, đó là thâm hụt ngân sách, cân bằng
ngân sách & thặng dư ngân sách.
- Trong trường hợp NSNN bị thiếu hụt, chênh lệch giữa thu và chi ngân sách
sẽ có những tác dụng khác nhau đến nền KT, tuỳ theo các tác động đó mà có các cách
thức để giảm bớt sự thiếu hụt: Một là vay dân cư; Hai là vay từ hệ thống tín dụng và
thị trường tài chính trong nước; Ba là vay NHNN; Bốn là vay nước ngoài. Việc vay
của NHTW & vay nước ngoài sẽ làm tăng mạnh khối tiền tệ gây ra các áp lực tiềm
tàng về sau. Vay của dân cư & của các NHTM trong nước sẽ làm cho các nguy cơ
trên giảm đi. Hiện nay, áp lực lạm phát tại các nước đang & kém phát triển cao hơn

8


so với các nước phát triển do họ bù đắp thâm hụt ngân sách chủ yếu bằng các biện
pháp phát hành tiền & vay nợ nước ngoài.
- Trong trường hợp NSNN cân bằng, khi chính phủ thu thuế tức là đã lấy ra
khỏi lưu thông một lượng tiền và chi tiêu trở lại số tiền đó vào bộ máy kinh tế khối
lượng tiền không thay đổi vì nó được tăng giảm một lượng như nhau. Với chính sách
tiền tệ mở rộng, có thể dịch chuyển tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng
cách làm tăng mức tiêu thụ.
- Trường hợp NS thặng dư: Đây là trường hợp rất có lợi vì nó rút bớt khối tiền
tệ dư thừa, tác động có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu.
Để thực hiện tốt các mục tiêu và nội dung như đã nêu ở trên, bản thân CSTT
phải sử dụng một cách có hiệu quả nhất các công cụ mà nó có được. Các công cụ đó
bao gồm cả các ưu và nhược điểm. Vì vậy trong khi sử dụng cần hết sức lưu ý, tránh
tình trạng quá đà không kiểm soát nổi để chúng gây phản tác dụng, gây ra những hậu
quả khó lường đối với nền KT.
4. Các công cụ của chính sách tiền tệ
Công cụ chính sách tiền tệ là các hoạt động được thực hiện trực tiếp hoặc gián
tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất, từ đó mà đạt được các mục tiêu
của chính sách tiền tệ.
4.1. Các công cụ trực tiếp.
Các công cụ sau được gọi là các công cụ trực tiếp bởi vì thông qua chúng,
NHNN có thể tác động trực tiếp tới khối lượng tiền trong lưu thông mà không cần
phải thông qua các công cụ khác. Công cụ trực tiếp được áp dụng phổ biến ở các
nước trong thời kỳ hoạt động tài chính được điều tiết chặt chẽ là hạ mức tín dụng.
4.1.1 Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng trung ương buộc các tổ
chức tín dụng phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ được quy
định cho từng Ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của nó (cơ cấu khách
hàng, mức rủi ro), định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể, nhu cầu tài trợ các đối tượng
chính sách và nó phải nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ

nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định.
Công cụ này thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm khống
chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng. Trong trường hợp các công cụ
gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tiền tệ chưa phát triển hoặc do mức
cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động của lãi suất hay Ngân hàng trung ương
không có khả năng không chế và kiểm soát được sự biến động của lượng vốn khả
dụng của hệ thống Ngân hàng thương mại thì hạn mức tín dụng là cứu cánh của Ngân
hàng trung ương trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng.

9

Tuy nhiên, hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao bởi nó thiếu tính linh
hoạt và đôi khi đi ngược lại chiều hướng biến động của thị trường tín dụng do đó đẩy
lãi suất lên cao hoặc làm suy giảm khả năng cạnh tranh của Ngân hàng thương mại.
4.1.2. Lãi suất tiền gửi và cho vay.
Lãi suất là con át chủ bài tác động đến đầu tư và tiêu dùng là hành lang mà từ
đó những sự thay đổi trong cung ứng tiền dẫn đến sự thay đổi trong kinh tế vĩ mô.
NHTW có thể qui định khung lãi suất tiền gửi và cho vay trên thị trường nhưng thông
qua cơ chế điều chỉnh cung cầu tiền tệ. Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ thu hút được
nhiều tiền gửi làm tăng nguồn vốn vay, ngược lại sẽ làm giảm khả năng mở rộng kinh
doanh tín dụng. Khi muốn tăng khối lượng cho vay, NHTW giảm mức lãi suất cho
vay để kich thích các nhà đầu tư vay vốn, khi cần hạn chế đầu tư NHTW sẽ ấn định
mức lãi suất cao.
Tuy nhiên, biện pháp này làm cho các NHTM mất tính chủ động, linh hoạt
trong kinh doanh. Mặt khác, nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở Ngân hàng,
nhưng lại thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền để dự trữ vàng, ngoại
tệ, bất động sản trong khi ngân hàng bị thiếu hụt về tiền mặt cũng như nguồn cho
vay.
Biện pháp này có ưu điểm là giúp Ngân hàng lựa chọn những dự án kinh tế tối
ưu để cho vay, loạI bỏ các dự án kém hiệu quả nhưng nó cũng làm cho tính linh hoạt

của thị trường tiền tệ bị suy giảm, các NHTM bị động trong kinh doanh. Ngày nay
biện pháp này ít được sử dụng ở các nước theo cơ chế thị trường bởi trong cơ chế thị
trường lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nó phải được vận động theo quan hệ cung
cầu vốn trên thị trường.
4.1.3. Phát hành tiền trực tiếp cho ngân sách và đầu tư, phát hành trái phiếu:
Như đã xét ở trên, khi NSNN bị thiếu hụt thì một trong các biện pháp giải
quyết đó là phát hành tiền. Rõ ràng là biện pháp này làm tăng lượng tiền trong lưu
thông, trong khi lượng hàng hoá không tăng hoặc tăng không kịp dãn đến hậu quả tất
yếu là lạm phát. Chính vì vậy mà công cụ nay hoàn toàn không nên sử dụng.
Phát hành trực tiếp cho đầu tư có thể thông qua con đường NSNN hoặc là
bằng con đường tín dụng ngân hàng. Biện pháp này còn được gọi là biện pháp ứng
trước cho sản xuất, là một biện pháp tốt trong trường hợp nền kinh tế suy thoái, dư
thừa tiềm năng. Nó sẽ mang lại hiệu quả tích cực, khơi dậy các tiềm năng về tài
nguyên và con người.
Trong điều kiện các biện pháp khác không thuận lợi, Nhà nước muốn làm
giảm lượng tiền trong lưu thông, có htể phát hành một lượng nhất định trái phiếu CP
để thu hút khối lượng tiền trong lưu thông.

10

Bên cạnh các công cụ trực tiếp trên, CSTT còn bao gồm các công cụ gián tiếp
tác động đến cung cầu tiền tệ thông qua các tác động của thị trường tiền tệ.
4.2. Các công cụ gián tiếp
Đây là nhóm công cụ tác đông trước hết vào mục tiêu hoạt động của chính
sách tiền tệ, thông qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các mục
tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Thuộc về nhóm công cụ này
bao gồm:
4.2.1.Dự trữ bắt buộc
Khái niệm và nội dung:
Dự trữ bắt buộc là số tiền các ngân hàng thương mại buộc phải duy trì trên

một tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại Ngân hàng trung ương. Nó được xác định
bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng thời gian
nào đó. Mức dự trữ bắt buộc được quy định khác nhau căn cứ vào thời hạn tiền gửi,
vào quy mô và tính chất hoạt động của ngân hàng thương mại. Cơ chế tác động của
dự trữ bắt buộc:
Việc thay đổi dự trữ bắt buộc và do đó mức dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến
lượng tiền cung ứng theo ba cách:
Thứ nhất: Giả sử Ngân hàng trung ương quyết định tăng tỷ lệ bắt buộc từ 10%
đến 12%, bộ phận dự trữ dư thừa trước đây giờ trở thành bắt buộc, làm giảm khả
năng cho vay của hệ thông Ngân hàng thương mại.
Thứ hai: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một thành phần trong mẫu số của công thức
tạo tiền. Vì thế sự tăng lên của tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hệ số tạo tiền và do
đó khả năng mở rộng tiền gửi của hệ thống Ngân hàng giảm.
Thứ ba: tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên làm giảm mức cung vốn Ngân hàng
trung ương trên thị trường liên Ngân hàng. Trong điều kiên nhu cầu vốn khả dụng
không thay đổi, sự sút giảm này làm tăng lãi suất liên Ngân hàng, từ đó mà tác động
đến các mức lãi suất dài hạn và khối lượng tiền cung ứng. Quyết định giảm tỷ lệ dự
trữ bắt buộc sẽ gây lên những ảnh hưởng ngược lại.
Ưu điểm và nhược điểm của dự trữ bắt buộc:
Điểm lợi chính của công cụ này là nó tác động đến tất cả các ngân hàng như
nhau và có tác dụng đâỳ quyền lực đến cung ứng tiền tệ. Tuy nhiên khi dự trữ bắt
buộc không được trả lại, chúng tương đương với một khoản thuế và có thể dẫn đến
hiện tượng phi trung gian hoá. Mặt khác bự trữ bắt buộc thiếu tính mềm dẻo bởi sẽ
rất vất vả để thực hiện được những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ bằng cách
thay đổi dự trữ bắt buộc. Một điểm bất lợi khác nữa của việc sử dụng dự trữ bắt buộc
để kiểm soát việc cung ứng tiền tệ là việc tăng dự trữ bắt buộc cói thể gây ảnh hưởng
xấu đến khả năng thanh khoản của các NHTM, gây ra tình trạng không ổn định cho

11


các ngân hành. Chính vì vậy công cụ dự trữ bắt buộc thường không được khuyến
khích và ít được sử dụng.
4.2.2 Chính sách chiết khấu.
Nội dung của chính sách chiết khấu:
Chính sách chiết khấu là công cụ của chính sách tiền tệ, theo đó NHTW cho
các NHTM vay dưới nhiều hình thức tái chiét khấu tức là hình thức NHTW tái cấp
vốn cho các NHTM. Khi NHTW nâng lãi suất chiết khấu tức là hạn chế cho vay đối
với các NHTM, khả năng cho vay của các ngân hàng giảm lượng tiền gửi giảm đồng
nghĩa với việc lượng tiền cung ứng giảm. Ngược lại, khi lãi suất tái chiết khấu giảm,
các ngân hàng kinh doanh sẽ có khả năng bành trướng tín dụng do được lợi trong
việc vay vốn của NHTW, bởi vậy NHTM sẵn sàng hạ lãi suất khi cho các doanh
nghiệp vay, kích thích đầu tư và sản lượng.
Hoạt động của cửa sổ chiết khấu:
Ngân hàng trung ương có thể tác động đến khối lượng vay chiết khấu bằng hai
cách: bằng cách tác động đến giá cả của khoản vay (lãi suất chiết khấu) hoặc bằng
cách tác động đến số lượng vay thông qua việc Ngân hàng trung ương quản lý cửa sổ
chiết khấu.
Thực tế cho thấy, lãi suất chiết khấu thường thấp hơn lãi suất thị trường, do
vậy nên đã khuyến khích rất nhiều Ngân hàng vay của Ngân hàng trung ương với lãi
suất thấp và dùng tiền vay đó cho vay lại hoặc mua chứng khoán với lãi suất cao hơn.
Các Ngân hàng được coi là không được phép kiếm lợi từ các khoản vay chiết khấu và
Ngân hàng trung ương cố gắng ngăn chặn tình hình này bằng cách quy định các thể lệ
cho từng Ngân hàng một tỉ lệ đó giới hạn các ngân hàng này có thể được vay chiết
khấu thường xuyên đến mức nào. Giới hạn đó gọi là cửa sổ chiết khấu.
Nếu một ngân hàng thường vay đến cửa sổ chiết khấu quá nhiều, thì Ngân
hàng trung ương sau này sẽ không cấp các khoản vay đó nữa. Việc các ngân hàng
được đến các cửa sổ chiết khấu là một đặc ân chứ không phải là một quyền hạn.
Ngân hàng phải chịu ba loại phí khi đến vay tại cửa sổ chiết khấu:
- Phí lãi biểu thị bằng lãi suất chiết khấu.
- Phí về việc phải làm đúng theo các điều tra của Ngân hàng trung ương về

khả năng thanh toán của Ngân hàng khi đến vay tại cửa sổ chiết khấu.
- Phí về việc rất có thể bị từ chối cho vay chiết khấu bởi vì đến cửa sổ chiết
khấu quá thường xuyên.
Ưu và nhược điểm của chính sách chiết khấu.
Chính sách chiết khấu là một công cụ rất quan trọng trong việc thực thi chính
sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Nó không chỉ điều tiết lượng tiền cung ứng,

12

mà còn thể hiện vai trò người cho vay cuối cùng đối với các tổ chức tín dụng và tác
động đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế.
Biện pháp này có ưu điểm là việc vay mượn được thực hiện trên những giấy tờ
có giá nên thời hạn vay mượn tương đối rõ ràng, việc hoàn trả nợ tương đối chắc
chắn, tiền vay vận động phù hợp với sự vận động của qui luật cung cầu thị trường.
Nó cũng giúp NHTW thực hiện vai trò là người vay cuối cùng nhằm tránh khỏi
những cuộc sụp đổ tài chính. Chiết khấu là một cách có hiệu quả đặc biệt để cung cấp
dự trữ cho hệ thống ngân hàng trong quá trình xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân
hàng bởi vì dự trữ lập tức được điều đến các ngân hàng nào cần thêm dự trữ hơn cả.
Chính sách chiết khấu có tác dụng thông báo ý định của NHTW về chính sách tiền tệ
trong tương lai.
Việc sử dụng biện pháp này đôi khi cũng không đạt hiệu quả bởi vì nó có hai
nhược điểm chính sau: thứ nhất, ở vào nghiệp vụ này NHTW ở vào thế bị động,
NHTW có thể thay đổi lãi suất tái chiết khấu nhưng không thể bắt các NHTM phải đi
vay; thứ hai khi NHTW ấn định mức lãi suất chiết khấu tại một mức đặc biệt nào đấy
sẽ xảy ra những biến động lớn trong khoảng cách giữa lãi suất chiết khấu và lãi suất
thị trường vì lãi suất vay thay đổi, dẫn đến những thay đổi ngoài ý định trong khối
lượng cho vay chiết khấu và do đó trong cung ứng tiền tệ, NHTW khó có thể đảo
ngược những thay đổi trong lãi suất chiết khấu.
2.2.3.Nghiệp vụ thị trường mở
Khái niệm và nội dung:

Nghiệp vụ thị trường mở là việc Ngân hàng trung ương mua và bán các chứng
khoán có giá, mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc Nhà nước, nhằm làm thay đổi lượng
tiền cung ứng. Sở dĩ Ngân hàng trung ương tiến hành đại bộ phận nghiệp vụ thị
trường mở của mình với tín phiếu kho bạc là vì, thị trường tín phiếu kho bạc có dung
lượng lớn, tính lỏng cao, rủi ro thấp.
Bằng việc bán các giấy tờ có giá cho các NHTM với lãi suất hấp dẫn, NHTW
thu hồi tiền từ lưu thông làm giảm lượng tiền cung ứng, đồng thời khả năng cho vay
của các NHTM cũng giảm và già trị tín dụng tăng lên. Ngược lại, bằng việc mua các
giấy tờ có giá, NHTW cung cấp tiền cho các NHTM để cho vay, làm gia tăng lượng
tiền cung ứng trên thị trường. Điều quan trọng ở đây là thời hạn cuả các giấy tờ có
giá. Việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn chủ yếu nhằm mục đích cân bằng giao
động của tỷ lệ lãi suất trên thị trường tiền tệ, trong khi đó mua bán các giấy tờ có giá
dài hạn có ảnh hưởng rõ rệt tới khả năng thanh toán của các NHTM.




13

Ưu và nhược điểm:
Nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ quan trọng nhất của Ngân hàng
trung ương trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng, đặc biệt là ở các thị trường tài
chính phát triển cao, bởiưu thế vốn có của nó:
- NHNN hoàn toàn kiểm soát được khối lượng giao dịch trên thị trường mở.
- Là công cụ linh hoạt và có tính chính xác cao, có thể sử dụng ở bất cứ mức
độ nào, điều chỉnh một lượng tiền cung ứng lớn hay nhỏ
- Ngân hàng trung ương với công cụ nghiệp vụ thị trường mở có thể đảo
ngược lại tình thế của chính mình.
- Nghiệp vụ thị trường mở có thể tiến nhanh chóng không gây những chậm trễ
về mặt hành chính và ít tốn kém về mặt chi phí.

Tuy nhiên, khi NHTW mua bán chứng khoán trên thị trường thì vẫn phải phụ
thuộc vào người mua bán (các NHTM). Và để sử dụng được nghiệp vụ này thì phải
có sự phát triển khá cao của của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt, tiền trong
lưu thông phần lớn nằm trong tài khoản của ngân hàng, đòi hỏi thị trường tài chính
phải tương đối phát triển. Hay nói cách khác, nghiệp vụ thi trường mở chỉ đạt được
hiệu quả trong điều kiện có một thị trường chứng khoán thứ cấp sôi động, một thị
trường liên NH, thị trường tiền tệ hoạt động sôi động.

14

II. Thực trạng chính sách tiền tệ ở VN và tác động của nó tới sự phát
triển của nền kinh tế giai đoạn 2011-2012
1. Việc sử dụng các công cụ của CSTT năm 2011-2012
1.1. Mục tiêu hàng đầu của CSTT:
Thời kỳ 1997-2010, theo quy định của Luật NHNN 1997, quy định rõ quan
điểm CSTT đa mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc
đẩy kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống xã hội.
Thời kỳ 2011-2012, Luật NHNN 2010, có hiệu lực từ 1/1/2011, chỉ quy định
một mục tiêu của CSTT, đó là:ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm
phát. Theo luật NHNN 2010, thì mục tiêu cao nhất, mục tiêu cuối cùng của CSTT
của Việt Nam hiện nay là: Ổn định giá trị đồng tiền. Đây là sự đổi mới, hoàn thiện
đúng hướng của CSTT ở VN, theo hướng CSTT đơn mục tiêu, phù hợp với các
chuẩn mực quốc tế.
1.2. Điều hành công cụ CSTT năm 2011-2012
Công cụ của CSTT là hệ thống các biện pháp mà NHNN có thể sử dụng để
điều chỉnh, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới mức cung cầu tiền tệ, nhằm đạt
được mục tiêu cao nhất của CSTT đã đề ra. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ
đã được NHNN sử dụng chủ yếu trong thời gian qua bao gồm: lãi suất, tái cấp vốn,
tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, kiểm soát hạn mức tín
dụng,

a. Công cụ lãi suất
Lãi suất là một trong những công cụ gián tiếp để điều hành CSTT, NHNN
thông qua công cụ này để điều khiển mức cung tiền cho nền kinh tế, nhằm đạt được
mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền của quốc gia. Chính sách, cơ
chế điều hành lãi suất của NHNN được định hướng theo nguyên tắc đảm bảo các mục
tiêu của CSTT: kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ
mô.
Theo cơ chế điều hành lãi suất hiện nay, NHNN trực tiếp quyết định các mức
lãi suất như: Lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất
OMO, trần lãi suất huy động ngắn hạn và trần lãi suất cho vay ngắn hạn thuộc4 đối
tượng ưu tiên đối với nền kinh tế của các TCTD. Các TCTD được quy định lãi suất
thỏa thuận đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên; lãi suất cho vay ngắn hạn
đối với các đối tượng khác ngoài 4 đối tượng ưu tiên; lãi suất cho vay trung dài hạn
cho tất cả các đối tượng khách hàng, cụ thể:

15

- Cơ chế điều hành các loại lãi suất năm 2012 được điều chỉnh linh hoạt:
Từ tháng 6/2011 đến nay, các lãi suất chủ chốt của NHNN được điều hành
theo cơ chế: “
trần
” là lãi suất tái cấp vốn, “
sàn
” là lãi suất chiết khấu, biên độ giao
động +/- 2% để điều tiết thị trường, lãi suất cơ bản và lãi suất thị trường mở được ấn
định biến động trong biên độ giữa lãi suất tái cấp vốn(trần) và lãi suất chiết
khấu(sàn).
Các lãi suất điều hành của NHNN và lãi suất huy động vốn của NHTM được
điều chỉnh giảm xuống theo xu hướng giảm thấp của CPI (3/2012-10/2012), đảm bảo
nguyên tắc thực dương, nguồn vốn huy động 10 tháng tăng +14.2%, thanh khoản

của hệ thống Ngân hành được cải thiện bằng nguồn vốn hút vào từ nền kinh tế chứ
không phải từ nguồn tái cấp vốn như năm 2011.
Từ tháng 6/2011-10/2012: Mối quan hệ giữa các loại lãi suất được điều chỉnh
hợp lý hơn thời kỳ trước đó, theo nguyên tắc: Lãi suất tái chiết khấu< lãi suất huy
động vốn dưới 12 tháng < lãi suất tái cấp vốn; “sàn” là lãi suất tái chiết khấu; “Trần”
là lãi suất tái cấp vốn; Biên độ 1-2%, lãi suất huy động vốn của TCTD biến động
trong biên độ nói trên.
Sự đổi mới cơ chế lãi suất lãi suất nói trên đã khuyến khích các TCTD huy
động vốn từ nền kinh tế, hạn chế vay vốn từ NHNN, không còn cơ hội cho các
TCTD lợi dụng vay tái cấp vốn của NHNN để cho vay lại trên thị trường liên ngân
hàng với lãi suất cao để hưởng chênh lệch lãi suất lớn.
- Lãi suất huy động và cho vay của TCTD 2012 giảm hơn nhiều so với 2011:
So với cuối năm 2011, lãi suất tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng giảm được
6%/năm(14%/năm xuống 8%/năm), lãi suất cho vay 4 đối tương ưu đãi giảm được
4%-5%/năm (16-17%/năm xuống 12%/năm). Hiện nay, lãi suất cho vay phổ biến
đối với 4 lĩnh vực ưu tiên: nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ
và vừa, công nghiệp hỗ trợ ở mức 11-12%/năm; cho vay lĩnh vực sản xuất kinh
doanh khác ở mức 14-17%/năm. Đặc biệt, lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh 8-
9%/năm so với đầu năm 2012, thị trường tiền tệ đã có sự cải thiện tích cực hơn
nhiều so với năm 2011
- Cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với lãi suất huy động vốn trên 12 tháng và lãi
suất cho vay trung dài hạn
Cơ chế lãi suất huy động lãi suất thỏa thuận được thực hiện theo Thông tư
19/2012/TT-NHNN ngày 8/6/2012: “Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở lên do
TCTD ấn định trên cơ sở cung cầu vốn thị trường”.

16

Lãi suất cho vay thỏa thuận được thực hiện từ 14/4/2010 theo Thông tư số
12/2010/TT-NHNN vàthông tư 14/2012/TT-NHNN từ ngày 4/5/2012. Đối với các

khoản cho vay ngoài 4 lĩnh vực ưu tiên TCTD cho vay theo lãi suất thỏa thuận.
b. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Theo quy định của Luật NHNN 2010, dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín
dụng phải gửi tại Ngân hàng Nhà nước để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.Ngân
hàng Nhà nước quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín dụng
và từng loại tiền gửi tại tổ chức tín dụng nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Cơ chế điều hành tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo Quyết định số 379/QĐ-NHNN áp
dụng từ ngày 24/2/2009 (đối với VND) và Quyết định 79/QĐ-NHNN áp dụng từ
01/2/2010 (đối với ngoại tệ), thông tư 20/2010/TT-NHNN ngày 29/9/2010.
Theo cơ chế nói trên, chính sách dự trữ bắt buộc được căn cứ vào tính chất kỳ
hạn tiền gửi (ngắn, trung, dài hạn), loại tiền gửi (VND và ngoại tệ) và ưu tiên đối
tượng cho vay nông nghiệp, nông thôn.
Đối với TCTD có tỷ trọng dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn
trên tổng dư nợ bình quân cuối các quý trong năm tài chính liền kề từ 40% đến dưới
70% và trên 70%: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam bằng
1/5 (một phần năm) và 1/20 so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường tương ứng với
từng kỳ hạn tiền gửi.
Từ năm 2009 -2012, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các TCTD đối với tiền gửi VND
cố định 3% và không thay đổi.
c. Tái cấp vốn
Theo quy định hiện hành, NHNN sử dụng công cụ Tái cấp vốn để cấp tín dụng
cho các TCTD theo các hình thức: cho vay có đảm bảo bằng giấy tờ có giá, chiết
khấu giấy tờ có giá và cho vay lại hồ sơ tín dụng, nhằm mục đích: cung ứng vốn
ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước đã ban hành được hệ thống các văn bản pháp lý đầy đủ
và đồng bộ về chính sách, cơ chế nghiệp vụ tái cấp vốn phù hợp với các quy định của
pháp luật hiện hành, làm cơ sở để điều hành của NHNN và thực hiện đối với các
TCTD.
Thông qua các hình thức tái cấp vốn:cho vay đảm bảo giấy tờ có giá, chiết
khấu giấy tờ có giá và cho vay lại hồ sơ tín dụng, công cụ tái cấp vốn của NHNN đã

phát huy được vai trò chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề rủi ro thanh khoản cho các
NHTM trong thời gian qua.

17

d. Nghiệp vụ thị trường mở (OMO)
Trong thời gian 2011-2012, NHNN điều hành công cụ Nghiệp vụ Thị trường
mở theo Quy chế nghiệp vụ thị trường mở ban hành kèm theo Quyết định số
01/2007/QĐ- NHNN và Quyết định 27/2008/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung QĐ
01/2007/QĐ-NHNN.
Theo quy chế trên, Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ thị trường mở
thông qua việc mua, bán giấy tờ có giá đối với tổ chức tín dụng. Các loại giấy tờ có
giá được phép giao dịch thông qua nghiệp vụ thị trường mở hiện nay là:Tín phiếu
NHNN, tín phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu địa phương do
UBND thành phố Hà nội, UBNN thành phố Hồ Chí Minh phát hành.
Trong thời gian qua, nghiệp vụ thị trường mở phát triển nhanh, quy mô ngày
càng được mở rộng, góp phần giải quyết khó khăn về nguồn vốn thanh toán và kinh
doanh cho các TCTD, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến
tổng lượng tiền cung ứng (M2) trong nền kinh tế, theo mục tiêu của chính sách tiền
tệ.
Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá, NHNN tác động trực tiếp đến
nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng tiền tệ cung ứng
và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường theo mục tiêu giảm lãi suất huy động và
cho vay của TCTD, giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp.
e. Kiểm soát hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là công cụ can thiệp trực tiếp, mang tính hành chínhcủa
NHNN, được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó khống chế tổng
khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế.
Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán trong
nền kinh tế tăng cao và các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực.

Năm 2011, NHNN đưa ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng chung cho toàn hệ
thống các TCTD, không phân bổ hạn mức theo từng TCTD. Năm 2012 là lần đầu tiên
NHNN quyết định phân bổ hạn mức tín dụng cho từng NHTM theo các tiêu chí: chất
lượng tài sản nợ, tài sản có, quy mô vốn, năng lực quản trị điều hành, quản trị rủi
ro, chất lượng nhân lực và tuân thủ các quy định.Theo đó, các nhóm được phân loại
bởi NHNN được áp dụng các hạn mức như sau: Nhóm thứ 1tăng trưởng tín dụng ở
mức tối đa 17%; nhóm thứ 2 tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 15%; nhóm 3 được
tăng trưởng 8%; nhóm 4 thuộc diện phải cơ cấu lại, không được tăng trưởng tín
dụng.

18

Đến tháng 6/2012, tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống ngân hàng tăng 1, 51%
so với cuối năm 2011 (kế hoach năm 2012 là 12%), trong đó 69 TCTD có mức tăng
trưởng âm. Có 23 TCTD đề nghị mức tăng trưởng tín dụng vượt chỉ tiêu, có 29
TCTD xây dựng kế hoạch tăng trưởng bằng mức chỉ tiêu thông báo, có 10 TCTD
xây dựng kế hoạch tăng trưởng tín dụng thấp hơn.
Tính đến thời điểm hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép tăng chỉ tiêu
đối với 10 TCTD có tính hình tài chính lành mạnh, đã có tăng trưởng tín dụng đạt
trên 50% chỉ tiêu thông báo của Ngân hàng Nhà nước từ đầu năm.
2. Đánh giá quá trình thực hiện các công cụ của CSTT những năm qua
2.1. Những thành tựu
- Công cụ lãi suất
Cơ chế điều hành các loại lãi suất năm 2012 được điều chỉnh linh hoạt, hợp lý
và đồng bộ hơn so với 2011, phát huy được vai trò NHNN là người cho vay cuối
cùng. Sự đổi mới cơ chế lãi suất nói trên đã khuyến khích các TCTD huy động vốn từ
nền kinh tế, hạn chế vay vốn từ NHNN, không còn cơ hội cho các TCTD lợi dụng
vay tái cấp vốn của NHNN để cho vay lại trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất
cao để hưởng chênh lệch lãi suất lớn.
Lãi suất huy động và cho vay của TCTD 2012 giảm hơn nhiều so với 2011,

đặc biệt là chính sách cho vay lãi suất thấp hơn các đối tượng khác đối với 4 đối
tượng sản xuất kinh doanh được ưu tiên, là quyết định đúng đắn, kịp thời; tác động
tích cực đến giảm chi phí vay vốn cho doanh nghiệp, hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng. So
với cuối năm 2011, lãi suất tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng giảm được 6%/năm, lãi
suất cho vay 4 đối tượng ưu đãi giảm được 4%-5%/năm. Đặc biệt, lãi suất liên ngân
hàng giảm mạnh 8-9%/năm so với đầu năm 2012, thị trường tiền tệ đã có sự cải
thiện tích cực hơn nhiều so với năm 2011
Cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với lãi suất huy động vốn trên 12 tháng và lãi
suất cho vay trung dài hạn là bước đi phù hợp, tạo điều kiện cho các NHTM hoạt
động kinh doanh theo nguyên tắc thương mại và thị trường.
Cơ chế lãi suất huy động lãi suất thỏa thuận được thực hiện theo thông tư
19/2012/TT-NHNN ngày 8/6/2012: “Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở lên do
TCTD ấn định trên cơ sở cung cầu vốn thị trường”.
- Tái cấp vốn
Thông qua các hình thức tái cấp vốn: cho vay đảm bảo giấy tờ có giá, chiết
khấu giấy tờ có giá và cho vay lại hồ sơ tín dụng, công cụ tái cấp vốn của NHNN đã

19

phát huy được vai trò chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề rủi ro thanh khoản cho các
NHTM trong thời gian qua.
- Nghiệp vụ thị trường mở (OMO)
Nghiệp vụ thị trường mở phát triển nhanh, quy mô ngày càng được mở rộng,
góp phần giải quyết khó khăn về nguồn vốn thanh toán và kinh doanh cho các
TCTD, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tác động đến tổng lượng tiền
cung ứng (M2) trong nền kinh tế, theo mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá, NHNN tác động trực tiếp đến
nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng tiền tệ cung ứng
và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường theo mục tiêu giảm lãi suất huy động và
cho vay của TCTD, giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp.

Đánh giá một cách khách quan, trong năm 2012, NHNN điều hành nghiệp vụ
thị trường mở OMO chủ động, linh hoạt và hiệu quả hơn thời gian trước đó.
- Kiểm soát hạn mức tín dụng
Công cụ hạn mức tăng trưởng tín dụng mà NHNN đưa ra trong 2012 đã phát
huy tác động tích cực thúc đẩy các TCTD đổi mới và tái cơ cấu hoạt động theo quan
điểm và mục tiêu của chính sách tiền tệ của Chính phủ trên các mặt sau:
- Thúc đẩy các NHTM phấn đấu nâng cao chất lượng, hiệu quả và các chỉ số
an toàn hoạt động để được xếp hạng tín nhiệm cao và có được hạn mức tăng trưởng
cao.
- Điều chỉnh, hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn tăng trưởng huy
động vốn, góp phần cải thiện tính thanh khoản của từng ngân hang và cả hệ thống hệ
thống, giảm áp lực lạm phát.
- Tác động mạnh mẽ và có hiệu quả đến mục tiêu tái cơ cấu, sát nhập các
NHTM yếu kém, tăng vốn chủ sở hữu, nâng cao năng lực cạnh tranh.
2.2. Những tồn tại
-
Cơ chế lãi suất

Duy trì quá lâu cơ chế điều hành trực tiếp lãi suất lãi suất huy động vốn và cho
vay của các TCTD, làm cho các mức lãi suất kinh doanh của TCTD không phù hợp
với cung cầu vốn tín dụng trên thị trường và giảm tác dụng của các công cụ lãi suất
tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất OMO, công cụ dự trữ bắt buộc.
NHNN có nhiều giải pháp và công cụ gián tiếp để tác động điều chỉnh lãi suất
kinh doanh của các TCTD. Cụ thể, khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của các

20

TCTD đối với nền kinh tế, NHNN sẽ thực hiện thông qua việc điều chỉnh các mức lãi
suất tái cấp vốn, tái chiết khấu đối với TCTD. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường
liên ngân hàng. Cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh của các TCTD đối với

khách hàng. Nếu NHNN trực tiếp quyết định cả mức lãi suất cho vay và huy động
vốn của các TCTD thì công cụ lãi suất điều hành của NHNN sẽ không phát huy hết
tác dụng.
Trên thực tế, trong suốt thời kỳ 2011-2012, NHNN quyết định trực tiếp các
mức lãi suất huy động cho vay của TCTD đối với khách hàng đối với từng kỳ hạn và
đối tượng khách hàng (trừ lãi suất huy động trên 12 tháng theo Thông tư 19/2012/TT-
NHNN ngày 8/6/2012 và lãi suất cho vay thỏa thuận theo Thông tư số 12/2010/TT-
NHNN và Thông tư 14/2012/TT-NHNN ngày 4/5/2012); Cơ chế điều hành trực tiếp
quyết các mức lãi suất kinh doanh của các TCTD đã làm vô hiệu hóa các mức lãi suất
điều hành chủ chốt của NHNN (lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu)
Lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam theo quy định pháp luật hiện hành là lãi
suất thực hiện vai trò định hướng thị trường tiền tệ, nhưng hiện nay chỉ mang tính
hình thức, chưa trở thành lãi suất cơ sở, chuẩn mực để định hướng cho các loại lãi
suất khác trên thị trường.Vì thế làm tăng rủi ro pháp lý trong hoạt động kinh doanh
tiền tệ tín dụng và các quan hệ dân sự khi có phát sinh tố tụng.
Luật dân sự 2005 quy định các TCTD không được phép huy động và cho vay
với lãi suất cao hơn 150% mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Luật NHNN số
46/2010/QH12 “Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và
các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi”.
Trên thực tế, lãi suất cơ bản hiện nay là lãi suất mang tính hình thức, không
có cơ sở kinh tế và không liên quan đến bất kỳ quan hệ cung cầu vốn trên các thị
trường.
Vai trò định hướng và tác động của các loại lãi suất điều hành của NHNN (lãi
suất tái cấp vốn, tái chiết khấu, OMO) đến lãi suất thị trường rất hạn chế. Một trong
những nguyên nhân chủ yều là phương pháp xác định các loại lãi suất trên còn bất
cập, không dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản là lãi suất chuẩn; cơ chế điều hành cụ thể
các loại lãi suất chưa được ban hành rõ ràng.
Thực tế trong thời gian qua, NHNN chưa ban hành được cơ chế điều hành và
phương pháp xác định cụ thể từng loại lãi suất trên. Khi quyết định các loại lãi suất
chủ yếu dựa vào diễn biến số liệu báo cáo thực hiện chỉ số CPI, các chỉ số kinh tế vĩ

mô tháng trước và quan điểm chỉ đạo điều hành mục tiêu CSTT của Chính phủ, thiếu
các thông tin, phân tích dự báo thị trường về cung cầu, số lượng giao dịch, lãi suất,

21

Do đó các lãi suất được điều hành không sát với cung cầu tiền tệ và lãi suất thực
trên thị trường, hạn chế tác dụng điều tiết của các công cụ lãi suất.
Duy trì quá lâu cơ chế cố định “trần” lãi suất huy động và “thả nổi” lãi suất
cho vay thỏa thuận, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho các TCTD đẩy lãi suất cho vay
lên tối đa, làm tăng rủi ro tài sản có và nợ xấu của cả hệ thống NHTM và các TCTD
khác.
Từ tháng 1/2011-4/2012, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động cố định
theo xu hướng giảm dần (14%/năm, 13%/năm, 12%/năm, 11%/năm) và lãi suất cho
vay thỏa thuận ở tất cả các đối tượng và kỳ hạn vay vốn của khách hàng.
Tháng 5/2012, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động (11%/năm) và “trần”
lãi suất cho vay ngắn hạn theo biên độ (lãi suất cho vay = lãi suất huy động +
3%/năm) với 4 đối tượng cho vay ưu tiên, còn các đối tượng cho vay khác và cho vay
trung dài hạn đều lãi suất thỏa thuận.
Từ tháng 6/2012- nay, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động cố định
(9%/năm) và “trần” lãi suất cho vay cố định (13%/năm) với 4 đối tượng sản xuất kinh
doanh ưu tiên còn các đối tượng khác đều cho vay theo lãi suất thỏa thuận
Trong điều kiện kinh tế khó khăn, lợi nhuận của hầu hết các doanh nghiệp rất
có thể cao hơn lãi suất cho vay thỏa thuận của các TCTD. Với cơ chế lãi suất cho vay
thỏa thuận các khách hàng tốt không dám vay vốn, còn các khách hàng chấp nhận
được lãi suất cao là những khách hàng đang thực sự khó khăn về tài chính, hoặc có
nhu cầu tài trợ cho những dự án có rủi ro rất cao.Vì vậy cơ chế lãi suất thỏa thuận chỉ
mang lại lợi ích trước mắt cho TCTD, nhưng lại tăng thêm các rủi ro do lựa chọn
khách hàng, rủi ro tín dụng, tăng nguy cơ tiềm ẩn nợ xấu, tạo ra một danh mục tài sản
có rủi ro cao.
Cố định mức lãi suất trần huy động vốn trong thời gian quá dài (trong suốt 12

tháng từ 3/2011-2/2012) trong khi CPI đã giảm mạnh và liên tục từ tháng 6/2011-
12/2011, làm tăng áp lực thanh khoản của hệ thống, tăng thêm các rủi ro kỳ hạn, rủi
ro thanh khoản, rủi ro đạo đức trong hệ thống Tài chính - Ngân hàng.
Hậu quả của cơ chế điều hành này đã gây thiệt hại cho người gửi tiền(7 tháng
liên tục lãi suất tiền gửi ở mức thực âm); các NHTM phá rào trần lãi suất huy động
vốn bằng mọi cách (hoa hồng, chi tiền mặt ngoài sổ sách, nhận ủy thác đầu tư trá
hình, ) thanh khoản căng thẳng, thị trường tiền tệ, thị trường liên Ngân hang đua
nhau cạnh tranh lãi suất “ngầm”.

22

Trong suốt 12 tháng liên tục từ tháng 3/2011-2/2012, mức lãi suất “trần” huy
động vốn của các TCTD vẫn cố định 1, 17%/tháng(14%/năm).Trong khi CPI biến
động liên tục hàng tháng với biên độ lớn và xu thế giảm rõ rệt lần lượt
là:2.25%;3.53%;2.43%;1.22%;1.32%;1.07%;0.95%;0.42%;0.45%;0.63%;1.00%;
1.37%. Kết quả là rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản của các TCTD tăng lên do tiền
gửi huy động được của các NHTM chủ yếu là không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn 1-2
tháng, tiền gửi từ 3 -12 tháng chiểm tỷ lệ rất ít;tiền gửi trung dài hạn trên 12 tháng
không thể huy động được.

- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
NHNN cố định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND trong suốt thời gian
dài từ 2009-2012 trong cả quá trình lạm phát cao năm 2011 và xu hướng thiểu phát 6
tháng 2012.Công cụ tỷ lệ DTBB không phát huy tác dụng điều chỉnh nguồn vốn
thanh toán và cho vay của TCTD.Vì vậyhạn chế vai trò, tác dụng của tỷ lệ dự trữ bắt
buộc trong việc điều chỉnh lãi suất cho vay, lượng tiền cung ứng và hệ số tạo tiền của
hệ thống TCTD.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là công cụ có tác động rất mạnh đến khối lương tiền
cung ứng trong lưu thông theo cấp số nhân, là công cụ kiểm soát lạm phát có hiệu
quả nhất, nhưng NHNN không tăng hoặc giảm tỷ lệ trong suốt thời gian dài, trong

bối cảnh lạm phát cao (2011) và xu hướng thiểu phát (6 tháng đấu năm 2012), nên
không phát huy được vai trò và tác dụng của công cụ này để thực hiện mục tiêu chính
sách tiền tệ.
Để phát huy được vai trò và tác dụng của công cụ dự trữ bắt buộc phải điều
chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB) để tác động đến cả khối lượng và lãi suất cho vay
tín dụng của các NHTM, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng và khả năng
tạo tiền của hệ thống NHTM theo mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Trong giai đoạn lãi suất cho vay còn ở mức cao như thời gian vừa qua, nếu
tăng tỷ lệ DTBB sẽ tăng chi phí đầu vào của nguồn vốn cho vay làm tăng lãi suất cho
vay của các TCTD, nhưng NHNN có thể tăng lãi suất tiền gửi DTBB lên một mức
hợp lý để bù đắp chi phí huy động vốn cho các TCTD, giảm áp lực tăng lãi suất cho
vay.
Chính sách dự trữ bắt buộc áp dụng một mức chung cho tất cả các NHTM,
không căn cứ vào quy mô vốn và tài sản, chất lượng hoạt động và mức độ an toàn của
từng ngân hàng, chưa phù hợp với quy mô và trình độ phát triển không đồng đều của
các NHTM VN, làm cho công cụ dự trữ bắt buộc hoàn toàn trở thành vô tác dụng.

23

Đặc điểm quan trọng của hệ thống NHTM của VN là trình độ phát triển không
đồng đều về lịch sử phát triển, quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô tài sản, chất lượng
hoạt động và mức độ an toàn . Trong đó nhóm 4 NHTM cổ phần Nhà nước và Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank) có kinh nghiệm hoạt động kinh
doanh 24 năm và chiếm khoảng gần 50% thị phần trên mọi lĩnh vực hoạt động,
nhóm G12 (12 ngân hàng TMCP lớn nhất) chiếm thị phần khoảng 80-85%, nhóm 13
NHTMCP tư nhân, quy mô vốn rất nhỏ bé, mức độ an toàn hoạt động rất thấp, mới
chuyển đổi từ hợp tác xã tín dụng và Ngân hàng nông thôn lên từ những năm 2002-
2006.
Theo quan điểm của một số chuyên gia và NHNN, thời gian qua, do hệ thống
ngân hàng thiếu thanh khoản nên nếu Ngân hàng Nhà nước tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc

thì sẽ gây khó khăn cho nền kinh tế.
Quan điểm trên rất đúng với nhóm 13 NHTM cổ phần nông thôn mới chuyển
đổi thành NHTM triền miên khó khăn thanh khoản. Nhưng đối với nhóm G12, gồm
12 NHTM chiếm gần 80-85% thị phần không phải là các NHTM thiếu thanh khoản,
thậm nhiều NHTM thừa tiền đi gửi vào các TCTD khác. Mặt khác, trong suốt thời
gian quá dài 2009- 2012, hệ thống NHTM không phải thiếu thanh khoản liên tục. Vì
vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu bổ sung hoàn thiện cơ chế điều hành công cụ dự trữ
bắt buộc, để phát huy hiệu quả cao hơn.
- Tái cấp vốn
Trong thời gian qua, công cụ tái cấp vốn chưa đủ tiềm lực vốn và điều kiện để
phát huy hiệu quả, vai trò cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các
TCTD, chưa tác động được nhiều đến cung cầu vốn và các loại lãi suất trên thị
trường.
Nguyên nhân chủ yếu do nguồn vốn cho vay hạn hẹp, NHNN chỉ được cho
vay tái cấp vốn trong một giới hạn nhất định, nằm trong hạn mức tăng tổng phương
tiện thanh toán M2 đã được Chính phủ duyệt hàng năm;nhiều TCTD cần vay nhưng
không điều kiện được vay tái cấp vốn; một số TCTD đủ điều kiện vay vốn nhưng
không có nhu cầu vay. Do đó, doanh số cho vay và dư nợ tái cấp vốn đối với các
TCTD không lớn;mức độ tác động tới lãi suất và cung cầu vốn trên thị trường hạn
chế.
Trong điều kiện lạm phát đang bùng phát cao từ 1/2011- 2/2012, việc lựa
chọn sử dụng công cụ tái cấp vốn tuy giải quyết được khó khăn thanh khoản cho một
số TCTD, nhưng làm tăng thêm tiền cung ứng trong lưu thông, gây áp lực thêm cho
mục tiêu kiểm soát lạm phát.

24

Công cụ tái cấp vốn chỉ phát huy hiệu quả cao trong điều kiện lạm phát bình
thường và mục đích cho vay nhằm giải quyết khó khăn chi trả có tính chất tạm thời.
Đối với các trường hợp mất thanh khoản có nguyên nhân từ rủi ro cơ cấu kỳ hạn

nguồn vốn và sử dụng, chất lượng tài sản sản thấp, nợ xấu cao như các TCTD nông
thôn mới chuyển đổi thành NHTM không phải là sự mất thanh khoản có tính tạm thời
và phải giải quyết bằng biện pháp tái cơ cấu tài chính, tái cơ cấu tài sản nợ, tài sản có
mới đúng bản chất.
Trong điều kiện lạm phát cao và thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, nếu sử
dụng công cụ tái cấp vốn để bơm vốn một cách thường xuyên nhằm giải quyết khó
khăn thanh khoản triền miên cho các NHTM sẽ không phải là sự lựa chọn hợp lý .
Mức lãi suất tái cấp vốn giai đoạn 1/2011-3/2012 thấp hơn nhiều so với lãi
suất cho vay thỏa thuận của các TCTD và lãi suất thị trường, tạo cơ hội cho một số
TCTD có điều kiện vay được nguồn vốn giá rẻ từ nguồn tái cấp vốn có hiệu quả hơn
huy động vốn từ dân cư và làm gia tăng rủi ro đầu tư tiền gửi trên thị trường tiền tệ.
Giai đoạn từ tháng 1/2011-3/2012, các lãi suất tái cấp vốn giao động từ 7-
15%/năm, có những thời điểm
1
lãi suất cho vay thỏa thuận các ngân hàng vay nhau
trên thị trường liên ngân hàng 25-30%/năm, NHTM cho doanh nghiệp vay vốn với
lãi suất thỏa thuận 22-25% năm.Chênh lệch 2 loại lãi suất quá lớn sẽ tạo ra cơ hội
phát triển các hoạt động kinh doanh chênh lệch lãi suất trên thị trường tiền tệ dưới
nhiều hình thức đầu tư tiền gửi khác nhau, làm bất ổn thêm thị trường tiền tệ.
Với mức chênh lệch cao giữa lãi suất cho vay thỏa thuận của các TCTD với
khách hàng và lãi suất cho vay thỏa thuận giữa các TCTD với nhau so với lãi suất tái
cấp vốn như trên, sẽ tạo ra những cơ hội cho một số TCTD tìm mọi cách để vay tái
chiết khấu có lợi hơn huy động vốn từ nền kinh tế, hoặc để cho vay lại trên thị
trường với lãi suất cao để hưởng chênh lệch lãi suất.
-
Nghiệp vụ thị trường mở

Quy chế nghiệp vụ thị trường mở chậm được điều chỉnh, sửa đổi theo sự đổi
mới của môi trường pháp lý, tạo ra những rủi ro về pháp lý và kinh tế cho các TCTD.
Quy chế nghiệp vụ thị trường mở ban hành theo 01/2007/QĐ- NHNN và

Quyết định 27/2008/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung QĐ 01/2007/QĐ-NHNN chưa được
điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi của các quy định pháp luật khác có liên quan
như: Nghị định 01/2011/NĐ-CP ngày 5/1/2011 về phát hành trái phiếu Chính phủ,
trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu của chính quyền địa phương; Luật sửa



25

đổi, bổ sung Luật Chứng khoán(Luật 62/2010/QH 12); Luật NHNN Việt Nam (luật
46/2010/QH12) và Luật Các TCTD (Luật 47/2010/QH12),
Nhiều vấn đề cần phải bổ sung sửa đổi để đồng bộ với các văn bản pháp luật
mới (đặc biệt là các quy định mới về phát hành giấy tờ có giá, tiêu chuẩn giấy tờ có
giá, định giá giấy tờ có giá, ) nếu không sớm điều chỉnh sẽ phát sinh các rủi ro về
pháp lý, rủi ro về kinh tế cho các TCTD và làm giảm hiệu quả của công cụ Thị
trường mở.
Cơ chế mua bán giấy tờ có giá trên thị trường mở hiện hành chủ yếu là đấu
thầu khối lượng, các mức lãi suất giao dịch thực tế phản ánh chưa chính xác quan hệ
cung cầu vốn, không khuyến khích cạnh tranh thực sự giữa các TCTD với mục tiêu
hạ lãi suất thị trường.
Phương thức mua bán trong thời gian qua chủ yếu là đấu thầu khối lượng: là
việc xét thầu trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng, khối lượng giấy
tờ có giá Ngân hàng Nhà nước cần mua hoặc bán và lãi suất do Ngân hàng Nhà nước
thông báo.
Trong giai đoạn lạm phát rất thấp (từ tháng 3/2012-8/2012), lãi suất cho vay
đối với nền kinh tế còn quá cao so với CPI, các thành viên đủ điều kiện tham gia thị
trường mở là các NHTM lớn, thanh khoản đảm bảo, dư vốn khả dụng không cho
vay được, phương thức xét thầu khối lượng chưa phù hợp, không tạo ra được sự
cạnh tranh về lãi suất của các TCTD, để hạ lãi suất thị trường.
Phương thức xét thầu khối lượng nhằm mục đích hỗ trợ thanh khoản, tạo điều

kiện cho các thành viên tham gia dự thầu đều trúng thầu, chỉ phù hợp với các TCTD
nhỏ, khó khăn về thanh khoản. Tuy nhiên đối với các NHTM nhỏ, yếu kém, thanh
khoản khó khăn, không sở hữu nhiều các giấy tờ có giá, không đủ điều kiện thành
viên để tham gia thị trường mở.
Khối lượng giao dịch bị hạn chế trong mức cung tiền mục tiêu hàng năm và
khả năng, điều kiện tham gia thị trường mở của các TCTD, làm giảm hiệu quả điều
tiết, tác dụng của công cụ thị trường mở.
Trong năm 2011, lạm phát cao và NHNN thực hiện, chính sách tiền tệ thắt
chặt, do đó, các công cụ thị trường mở phải nhằm mục đích hút tiền về. Tuy nhiên,
các TCTD đang khó khăn thanh khoản và thiếu vốn để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng
tín dụng, nên biện pháp hút tiền về qua OMO không thực hiện được.
Trong 2012, lạm phát giảm xuống nhanh dưới một con số, tăng trưởng tín
dụng quá thấp so với mục tiêu, công cụ thị trường mở phải nhằm mục tiêu bơm tiền

×