Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Phân tích người lái đò sông đà và top 15 bài phân tích hay nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.64 KB, 58 trang )

I. Khái quát về tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người
lái đị sơng Đà
1. Quan điểm sáng tác và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ơng có vị trí
to lớn và vai trị khơng nhỏ đối với nền văn học Việt Nam.
Cách mạng tháng Tám thành công, ông đến với cách mạng, tự nguyện dùng ngịi bút
của mình để phục vụ cuộc kháng chiến.
Các tác phẩm chính: Vang bóng một thời, Một chuyến đi, Thiều quê hương, Sông Đà,
Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi…
Ơng là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt,
của những phong cách tuyệt mĩ,… Kho từ vựng phong phú, tổ chức câu văn xi đầy giá
trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, có phối âm, phối thanh linh hoạt, tài ba…
Phong cách nghệ thuật: phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân có sự thay đổi trong
những sáng tác ở thời kì trước và sau cách mạng tháng Tám song có thể thấy những
điểm nhất quán sau: Phong cách của Nguyễn Tn có thể thâu tóm trong một chữ
“ngơng”, trong mỗi trang viết của mình, Nguyễn Tn ln muốn thể hiện sự tài hoa, uyên
bác của bản thân.
- Trước Cách mạng tháng Tám: ơng đắm chìm trong q khứ, đi tìm cái đẹp ở quá khứ,
những cái đẹp đã qua đi, bỏ rơi thực tại mục nát, thối rữa. Đây là thời Nguyễn Tuân sáng
tác được nhiều tác phẩm gây ấn tượng: Vang bóng một thời…
- Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945: tâm hồn ơng hịa cùng đất nước, cùng cuộc
sống con người, Nguyễn Tuân thức tỉnh khỏi những vang âm của quá khứ, ra đi tìm cái
đẹp trong chính cuộc sống đời thường, đi tìm thứ “vàng mười đã qua thử lửa” và ơng
cũng có nhiều tác phẩm gây tiếng vang ở giai đoạn này: Sông Đà, một chuyến đi…
Chất tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân được thể hiện:
- Khám phá, phát hiện sự vật ở phương diện thẩm mĩ.
- Nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
- Vận dụng tri thức, vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực khác nhau để tạo dựng hình tượng.
2. Hoàn cảnh ra đời



- Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc vừa thỏa mãn thú phiêu lãng vừa
để tìm kiếm vẻ đẹp thiên nhiên và “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn của
những con người lao động và chiến đấu trên miền sông núi hùng vĩ và thơ mộng đó.
- Người lái đị sơng Đà là bài tùy bút được in trong tập Sông Đà (1960)
3. Bố cục (3 phần)
Phần 1 (từ đầu đến “cái gậy đánh phèn”): Vẻ hung dữ của con sông Đà.
Phần 2 (tiếp đó đến “dịng nước sơng Đà”): Cuộc sống của con người trên sơng Đà và
hình ảnh người lái đị sơng Đà.
Phần 3 (cịn lại): vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà.
4. Giá trị nội dung
Người lái đị sơng Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm,
thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào
hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở
miền Tây Bắc.
Tác phẩm cịn cho thấy cơng phu lao động nghệ thuật khó nhọc cùng sự tài hoa, uyên
bác của Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì quan của tạo hóa
và những kì tích lao động của con người.
5. Giá trị nghệ thuật
Tùy bút pha bút kí, kết cấu linh hoạt, vận dụng được nhiều tri thức văn hóa và nghệ thuật
vào trong tác phẩm.
Nhân vật mang phong thái đời thường, giản dị.
Bút pháp: kết hợp hài hào giữa hiện thực và lãng mạn.
Ngôn ngữ hiện đại kết hợp với ngôn ngữ cổ xưa.
Sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật độc đáo: liên tưởng, tưởng tượng thú vị; so sánh
nhân hóa qi dị, mới lạ…
6. Tóm tắt Người lái đị sơng Đà
Dưới ngịi bút tài tình của Nguyễn Tn, con sông Đà ở vùng Tây Bắc hiện lên với vẻ
đẹp vừa hung bạo, dữ dội lại vừa thơ mộng, trữ tình. Từ thượng nguồn sơng Đà đã mang
vẻ dữ dội của đại ngàn: dựng đá vách thành, chỉ lúc đúng ngọ mới thấy mặt trời; sóng đá
dữ dội dàn thành các thạch trận xô nhau liên tiếp, dữ dội hơn trông Đà giang như sôi lên

sùng sục, tiếng thác đá ở đây thì như ngàn con trâu mộng giữa rừng vầu, rừng tre nứa


nổ lửa. Sông Đà mang vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình nhất là nhìn từ xa dịng sơng tn như
một áng tóc trữ tình, trong năm, sơng Đà có nhiều sự thay đổi theo mùa, mỗi mùa lại có
những vẻ đẹp riêng biệt và độc đáo. Dọc hai bên bờ sơng Đà có những bãi cỏ xanh non
với những đàn hươu non đang gặm cỏ. Trong kháng chiến chống Pháp, Sơng Đà là
chuyến đường thủy để các cơ lái đị Quỳnh Nhai vận chuyển lương thực cho kháng chiến.
Sông Đà hiện lên thật hung tợn và dữ dội nhưng thật nhẹ nhàng, thơ mộng. Trên nền
thiên nhiên rộng lớn hình tượng người lái đò người dân lao động đặc điểm thân hình cao
to, nước da rám nắng, thơng thạo trong nghề nghiệp của mình. Ơng nắm chắc các quy
luật dịng thác, từng vách đá, luồng nước, cửa sinh, cửa tử. Người lái đị sơng Đà trước
tiên cần sự kinh nghiệm trong nghề nghiệp và sự dũng cảm, gan dạ, những người lái đò
là những con người tài hoa, khiêm tốn trong cuộc sống, họ giúp những con thuyền vượt
qua.
7. Mở bài và kết bài Người lái đị sơng Đà
Mở bài Phân tích tác phẩm Người lái đị sơng Đà mẫu 1
Mỗi khi nhắc đến "chủ nghĩa xê dịch" thì người ta thường nghĩ ngay đến Nguyên Tuân
và ngược lại. Nguyễn Tuân đến miền Tây Bắc để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên ở
tâm hồn người lao động. Những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước dữ dội hay cảnh
thiên nhiên đẹp tuyệt đỉnh chính là những trang sách viết hay nhất của ơng. Đoạn trích
"Người lái sơng Đà" nằm trong tập Tùy bút "Sơng Đà" chính là đại biểu tiêu biểu nhất cho
phong cách của ông và phong cảnh hoang sơ mà hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc.
Mở bài Phân tích tác phẩm Người lái đị sơng Đà mẫu 2
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm
của ông là mỗi bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng, tình cảm
gắn bó với đất nước quê hương. Bằng ngòi bút độc đáo, uyên bác, tài hoa,Nguyễn Tuân
đã viết nên những trang bút ký đặc sắc, tái hiện một cách độc đáo vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng
của sông Đà cũng như thiên nhiên hùng vĩ núi rừng Tây Bắc qua tuỳ bút “Người lái đị
sơng Đà”.

Kết bài Người lái đị sơng Đà mẫu 1
Hình tượng Người lái đị được xây dựng rất thành cơng qua ngịi bút độc đáo và sáng
tạo của Nguyễn Tuân. Nhà văn đã khẳng định được tài năng và sức mạnh cường đại
của con người, cuộc chiến không cân sức giữa con người lao động và thiên nhiên kỳ bí


vốn có nhiều cam go, vất vả. Nhưng họ đã chiến thắng một cách huy hoàng, vẻ vang
nhất, trở thành người nghệ sĩ tài ba trên chính mặt trận tìm kế sinh nhai của mình.
Kết bài Người lái đị sơng Đà mẫu 2
“Người lái đị sơng Đà” là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm,
thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ hào
hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhân và nhất là con người lao động bình dị ở
miến Tây Bắc. Hình ảnh người lái đị sơng Đã là tiêu biểu cho con người lao động vùng
Tây Bắc, dũng cảm, gan dạ, quật cường, ln kiên trì và hết mình với công việc. Nổi bật
nên trên thiên nhiên bao la hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc chính là con người lao động
nơi đây.

II. Dàn ý Phân tích Người lái đị sơng Đà
Dàn ý Phân tích Người lái đị sơng Đà mẫu 1
III. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đị sơng Đà.
II. Thân bài
1. Hình tượng con sơng Đà
a. Con sơng Đà hung bạo


Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành và ở qng sơng
hẹp:

Có vách đá chẹt dịng sơng Đà như một cái yết hầu.

Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hịn đá qua bên kia vách. Có qng con nai con hổ đã
có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia.
Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.
→ Tác giả sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận.


Cảnh ở quãng mặt ghềnh Hát Lng:

Dài hàng cây số nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè
suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đị sơng Đà...
Qng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
→ Sử dụng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp
gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.




Cảnh ở qng Tà Mường Vát:

Trên sơng bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dịng
sơng để chuẩn bị làm móng cầu.
Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước ặc ặc lên
như vừa rót dầu sôi vào.
Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lơi tụt
xuống.
→ Sử dụng các biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo gợi lên cảm giác về
những mối nguy hiểm của sơng Đà.


Cuộc thủy chiến giữa con sơng Đà và người lái đị:


Một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trơng nó thành ra diện mạo và tâm địa một
thứ kẻ thù số một.
Tiếng nước nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo...rống lên như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét
với đàn trâu da cháy bùng bùng.
Sông Đà đã giao việc cho mỗi hịn, nó bày thạch trận trên sơng: Đám tảng đám hịn,
chia làm ba hàng chặng ngang trên sơng địi ăn chết cái thuyền. Hàng tiền vệ, có hai
hịn canh một cửa đá trơng như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền
đối phương đi vào sâu nữa,....
Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai
phong, lẫm liệt, thách thức chiếc thuyền.
Nước bám lấy thuyền như đơ vật túm thắt lưng ơng lái đị lật ngửa mình ra giữa trận
nước vang trời thanh la não bạt.
Dịng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá...
→ Sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, đầy sáng tạo để khắc họa sự hung bạo,
dữ dằn trong trận thủy chiến gay go, quyết liệt.
Sông Đà hiện lên qua ngịi bút của Nguyễn Tn khơng phải là con sông vô tri, vô giác
mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng, khơng chỉ hung
hãn mà nó cịn rất xảo huyệt, mưu ma để lừa người lá đò vào thế trận đã bày sẵn và
hướng người ta vào cửa tử.


Hình tượng con sơng Đà hiện lên thật kì vĩ, hiểm trở, dữ dội và rất hung bạo… Sông Đà
biểu tượng cho sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.
b. Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình
Từ trên tàu bay nhìn xuống "con sơng Đà tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc,
chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo"
"Mùa xuân xanh màu ngọc bích", khác với sơng Gâm, sơng Lơ "màu xanh canh hến".

Mùa thu nước sơng "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa"
→ Sơng Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.
Nguyễn Tn nhìn sơng Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì
gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khỏi
áng cỏ sương" Dịng sơng Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt:
Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sơng hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa.
→ Nguyễn Tn say mê miêu tả dịng sơng với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng
một tình yêu thiết tha. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dịng sơng
đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có.
2. Hình ảnh người lái đị
- Về lai lịch: một ông lão gần 70 tuổi, làm nghề lái đị nhiều năm.
- Ngoại hình: “tay lêu nghêu ... chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm
thầm cống hiến.
- Cơng việc: lái đị trên sơng Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo..
- Tài năng và tâm hồn:
Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đị: “trên sơng Đà ơng xuôi
ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ... những luồng nước”...
Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau
giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo...”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần
núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa
thác...”
Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, khơng thích lái đị
trên khúc sơng bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.
III. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.


Dàn ý Phân tích Người lái đị sơng Đà mẫu 2
I. Mở bài
- Tác giả Nguyễn Tuân: có phong cách nghệ thuật độc đáo, cái tơi đầy cá tính, một nhà

văn tài hoa uyên bác, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa thẩm mĩ.
- Tác phẩm được sáng tác trong gian đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, với
nội dung ngợi ca vẻ đẹp của con người và thiên nhiên Tây Bắc.
II. Thân bài
1. Lời đề từ
- Lời đề từ “Đẹp vậy thay ...”: thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dịng sơng và
con người gắn bó với dịng sơng, thấy được cảm hứng chủ đạo là ngợi ca.
- Lời đề từ tiếp: “Chúng thủy ...”: thể hiện cá tính độc đáo của của con sơng Đà.
2. Hình tượng dịng sơng Đà
a. Dịng sơng “hung bạo”
- “Cảnh đá bờ sơng dựng vách thành”: lịng sơng hẹp, “bờ sơng dựng vách thành”, “đúng
ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”.
- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió” một cách hỗn độn, lúc
nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.
- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và
kêu như cửa cống cái bị sặc nước”.
- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
+ Xa: từ xa âm thanh thác nước hiện lên với nhiều trạng thái: “ốn trách”, “van xin”, “khiêu
khích”, “chế nhạo”; “rống lên như một ngàn con trâu ... cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
+ Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “”hất hàm”, “oai phong”, có những hành
động như “mai phục”, “chặn ngang”, “tiêu diệt”; sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh
giáp lá cà”, “địn tỉa”.
+ Sự biến hóa linh hoạt của 3 trùng vi thạch trận:
- Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm
beo”, thứ kẻ thù số một của con người.
b. Sơng Đà trữ tình
- Từ trên cao nhìn xuống như “dây thừng ngoằn ngo”, “áng tóc trữ tình”, mùa xn có
màu xanh ngọc bích, thu lừ lừ chín đỏ.



- Khi đi rừng lâu ngày gặp lại con sông: sơng Đà như một “cố nhân”, có ánh sáng “loang
lống như trẻ con chiếu gương vào mắt”, như “nắng tháng ba Đường thi”, ...
- Khi đi thả thuyền trên sông: “bờ sông như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm
cổ tích tuổi xưa”, thiên nhiên mơn mởn: lá ngơ non, “con hươu thơ ngộ”, ...
3. Hình tượng người lái đị sơng Đà
- Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao - người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn
Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng ơng lái đị.
- Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình: “tay lêu nghêu ... chất
mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.
- Công việc: lái đị trên sơng Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo..
- Tài năng và tâm hồn:
+ Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đị: “trên sơng Đà ơng xi
ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ ... những luồng nước”, ...
+ Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau
giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo ...”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần
núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa
thác ...”
+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sơng nhiều ghềnh thác, khơng thích lái đị
trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.
- Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.
III. Kết bài
- Tổng kết nghệ thuật đặc sắc: ngôn ngữ điêu luyện, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri
thức nhiều ngành nghệ thuật, xây dựng thành cơng hình tượng sơng Đà và ơng lái đị.
- Khái qt nội dung: tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động, vẻ đẹp thiên
nhiên đất nước.


III. Văn mẫu Phân tích Người lái đị sơng Đà
Phân tích Người lái đị sơng Đà mẫu 1
Tác phẩm Người lái đị sơng Đà là bút ký đầy sáng tạo, tiêu biểu cho phong cách độc

đáo của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng tám: Uyên bác, tài hoa, không quản gian lao
vất vả để có được những dịng bút ký, đậm cảm giác chân thực, sức liên tưởng phong
phú đem đến cho người đọc người nghe cảm nhận về một tâm hồn khao khát hòa nhập
với nhịp động phát triển của đất nước của cuộc đời.
Tác phẩm là kết quả của cuộc hành trình ngược miền Tây Bắc giai đoạn năm 1958-1960
đầy trải nghiệm sâu sắc của tác giả, được in lần đầu trong tập Sông Đà (1960). Sông Đà
quanh co, uốn lượn dọc qua các triền núi, dòng nước chảy xiết với độ dốc lớn. Chính đặc
điểm đó đã tạo cho Đà giang một vẻ đẹp kỳ thú, rất hoang sơ và kỳ vĩ. Hình ảnh con sơng
Đà hung bạo mà trữ tình đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của ơng lái đị ơng lái
đò trên dòng Đà giang.
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ơng có những thành
tựu to lớn trong cả hai thời kỳ trước và sau năm 1945. Trước 1945, ơng có tập “Vang
bóng một thời” gồm mười một truyện rất đặc sắc, có giá trị vơ cùng to lớn. Hồ chung với
khơng khí thời đại trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của dân tộc, phong cách


Nguyễn Tuân vẫn luôn giữ được nét sáng tạo, riêng biệt. Ơng là nhà văn suốt đời đi tìm
cái đẹp, ln khám phá thế giới ở bình diện văn hố và thẩm mỹ. Nguyễn Tuân miêu tả
con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Thiên nhiên hiện lên trong văn chương của ơng
cũng trở thành những cơng trình nghệ thuật kỳ vĩ, độc đáo. Người lái đị sơng Đà là đoạn
trích được rút ra từ tập tuỳ bút Sơng Đà được ông viết năm 1960, trong một chuyến đi
gian nan nhưng đầy hứng khởi về miền Tây Bắc hiểm trở. Chuyến đi thoả mãn cái khát
khao “xê dịch” của nhà văn, trong chuyến đi ấy ông đã không quên tìm kiếm “chất vàng”
của cảnh sắc thiên nhiên nơi đây, rất hiểm trở nguy hiểm nhưng cũng mang vẻ đẹp hùng
vĩ thơ mộng say đắm lòng người. Vẻ đẹp của con người nơi đây được ơng ví như “chất
vàng mười đã qua thử lửa” họ là người dân lao động có trí tuệ, có lịng dũng cảm và sức
mạnh chế ngự thiên nhiên.
Hai hình tượng bao trùm, xuyên suốt tác phẩm là hình tượng con sơng Đà và hình tượng
người lái đị trên dịng sơng quanh năm dữ tợn thách thức với con người. Với ngịi bút
tài hoa của mình ông đã tạo nên hình tượng Đà giang mang hai sắc thái, hai bình diện

tương phản vừa hùng vĩ, hung bạo những cũng cũng khơng kém phần trữ tình, thơ mộng.
Nguyễn Tuân dẫn dụ người đọc cuốn theo cảm giác vừa sợ hãi tột cùng vừa như đam
mê, thích thú. Bằng sức tưởng tưởng phong phú của mình, lối hành văn nhạy bén độc
đáo của mình con sơng Đà hung bạo hiện lên trong lòng người đọc với niềm đam mê hãi
hùng và thích thú vơ cùng. Cái hung bạo được nhà văn miêu tả mở đầu bằng cảnh “đá
bờ sông dựng vách thành”, nghệ thuật ẩn dụ những khối đá bờ sơng được Nguyễn Tn
ví như những thành trì kiên cố, vũng chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe doạ trực
chờ. Nhà văn miêu tả, mặt sơng lúc ấy “đúng ngọ” mới có mặt trời, có vách đá “chẹt lịng
sơng như một cái yết hầu”, có quãng tưởng như con hươu, con nai nhảy từ bờ này qua
bờ kia. Các liên tưởng tưởng chừng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại chứa đựng
đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Chỗ sông phải đến tận giữa trưa, khi mặt trời lên cao
nhất mới có ánh nắng chiếu vào, động từ mạnh “chẹt” rất biểu cảm xen lẫn với nghệ thuật
so sánh “như một cái yết hầu”, hai bên bờ con hươu con nai có thể nhảy qua được.
Những hình ảnh độc đáo được tác giả khéo léo lồng vào, đã tạo cho người đọc được độ
cao của vách đá, độ hẹp của lịng sơng. Ngồi trong khoang thuyền đi qua khúc sông ấy
“mùa hè cũng thấy lạnh”, tác giả miêu tả thông qua cảm giác, mùa hè nóng nực oi bức


nhưng khi qua đây, chính cái khung cảnh chống ngợp, kỳ vĩ, chật hẹp đã làm cho ta
cảm thấy sợ hãi và nhỏ bé giữa giữa thiên nhiên.
Cảnh hung bạo của sơng Đà cịn được thể hiện ở mặt ghềnh Hát Lng. Hàng ngàn cây
số “nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió”. Một loạt thanh sắc xuất hiện tạo cho ta cảm
giác sóng gió ngày càng mạnh mẽ và cao dần. Nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc nối tiếp
nhau, động từ mạnh “xô” được lặp lại nhiều lần. Sức mạnh của thiên nhiên rất khủng
khiếp, rất lạnh lùng, nó “gùn ghè”, hầm hè như một con thú hoang hung dữ, lì lợm, sẵn
sàng thách thức với con người nơi đây.
Những cái “hút nước” khủng lồ trên quãng sơng Tà Mường Vát. Xốy nước “như những
cái giếng bê-tơng” được thả xuống làm móng cầu, nước ở đây “thở và kêu như một cái
cống bị sặc”. Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của Nguyễn Tuân làm tạo cho câu
văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết. Khúc sông này nguy hiểm đến mức

không một con thuyền nào dám tiến lại gần, nếu không sẽ bị hút vào trong, bị dìm xuống
lịng sơng và biến mất một cách đáng sợ.
Hình tượng hung bạo, dữ dội của con sông được tác giả khắc hoạ rõ nét nhất chính là ở
khúc thác sơng Đà. Tác giả miêu tả con sơng bằng những hình ảnh hết sức biểu cảm,
bằng những âm thanh dữ dội nhiều sắc thái, còn xa lắm mới tới thác mà đã nghe thấy
tiếng “réo gần mãi lên, réo to mãi lên”, tiếng nước nghe như “ốn trách”, như “van xin”,
như là “khiêu khích”, nó rống lên từng hồi ghê rợn như tiếng của “một ngàn con trâu
mộng” gầm thét, vật lộn trong lúc rừng cháy, ngọn lửa đỏ rực bốc lên ngùn ngụt.
Những hòn đá sông Đà nhiều vô kể, tất cả chúng hợp lại thành cả một “chân trời đá” rộng
lớn. Mỗi hòn đá mang một dáng vẻ khác nhau, nhưng hòn hòn nấy mặt trơng cũng rất
“ngỗ nghịch”, “nhăn nhúm”, “méo mó”, ở đây tác giả dùng nhiều tính từ chỉ con người để
miêu tả qua đó người đọc cảm nhận được sự dữ tợn, sự bất cần, bướng bỉnh của hòn
đá, chúng như những vật thể sống và là đứa con của mẹ thiên nhiên tạo ra. Sông Đà
dường như đã giao nhiệm vụ cho từng hòn đá để bày ra “thạch trận” tuyên chiến, thách
thức với con người. Vòng thứ nhất “thạch trận” có năm cửa trận, có “bốn cửa tử”, “một
cửa sinh” nằm lập lờ nơi tả ngạn con sơng. Vịng thứ hai, thác sơng Đà đã bộc lộ vẻ gian
manh cái sự háo thắng của nó, lần này có bày ra nhiều cửa tử hơn để đánh lạc hướng
con thuyền đi vào chỗ chết, một cửa sinh được bố trí lệch về phía hữa ngạn. Vịng thứ
ba, vịng quyết định thắng thua cuối cùng, thác sông Đà bày ít cửa hơn nhưng trái phải


đều là “luồng chết”, cửa sống duy nhất lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ đang canh gác.
Qua phong cách miêu tả độc đáo, sinh động, giàu tưởng tượng của Nguyễn Tuân con
sông Đà hiện lên thật hung bão, dữ tợn, nó như một “lồi thuỷ qi khổng lồ” tâm địa vừa
độc ác, vừa nguy hiểm, là kẻ thù số một của con người trong cuộc chiến không cân sức.
Tuy nhiên cũng có lúc con sơng Đà trở về với vẻ dịu dàng, trữ tình thơ mộng của nó. Vẻ
đẹp Đà giang được miêu tả qua nhiều điểm nhìn, nhiều góc cạnh, khơng gian và thời
gian khác nhau. Từ trên cao nhìn xuống, con sơng Đà uốn lượn, mềm mại như áng tóc
của người con gái Tây Bắc kiều diễm, xinh đẹp. Dịng sơng Đà được nhà văn bằng những
hình ảnh rất biểu cảm, gây ấn tượng sâu sắc, “tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc

chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Màu nước sông Đà biến đổi theo từng mùa khác
nhau, mỗi mùa mang một vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt: Mùa xn dịng sơng “xanh ngọc
bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Con sơng như người thiếu nữ xinh đẹp, mơ mộng đang
tuổi xuân thì tràn đầy niềm kiêu hãnh nên tính cách đơi phần khó hiểu, thay đổi thất
thường.
Sông Đà dịu dàng “như một cố nhân”, cảnh sắc bên bờ thật êm đềm tươi đẹp. Sau
chuyến đi dài ngày, ơng nhìn ngắm sơng Đà thật gợi cảm, thơ mộng như “màu nắng
tháng ba Đường thi”, bờ sông đầy những chuồn chuồn bươm bướm. Người cố nhân ấy
giờ đây yên ả lạ thường như đang lặng nghe âm thanh của thời gian, thưởng thức cảnh
sắc hai bên bờ sông. Bờ sông Đà hoang sơ như nhuộm màu cổ tích vừa trù phú tràn trề
nhựa sống của phù sa bồi đắp. Những nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”,
ngọn cỏ “đang ra những nõn búp”, xa xa là vài con hươu nhai cỏ. Sông Đà lúc này như
bờ tiền sử mang bên mình những nỗi niềm cổ tích xa xưa, hồi niệm.
Dịng sơng Đà được tác giả khắc hoạ rất rõ nét bằng nhiều vận dụng nghệ thuật độc đáo:
So sánh, ẩn dụ, nhân hoá, động từ mạnh…, cùng khả năng liên tưởng, sáng tạo mới mẻ,
ông đã viết lên những câu văn thật giàu nhịp điệu, sống động. Dưới ngòi bút tài hoa của
người nghệ sĩ, Đà giang khơng cịn là một con sơng vơ tri mà nó là một sinh thể có suy
nghĩ, có tâm hồn.
Trong tác phẩm của Nguyễn Tuân làm sao có thể thiếu đi bóng dáng con người. Thiên
nhiên càng rộng lớn, hùng vĩ, dữ dội bao nhiêu thì càng làm nổi bật lên vẻ đẹp trí tuệ tài
hoa của con người lao động. Trong bài văn, tác giả đã sáng tạo ra hình tượng “ơng lái


đị” đây là hình ảnh biểu trưng cho người lao động cần cù chăm chỉ nhưng cũng không
kém phần mạnh mẽ, cam đảm khi sẵn sàng đối đầu với thiên nhiên hung tợn trong một
cuộc chiến không cân sức. Con sông Đà bỗng chốc trở thành kẻ thù số một, người lái đò
thật nhỏ bé giữa thiên nhiên. Tuy nhiên họ vẫn bộc lộ được sự mưu trí, tài hoa nghệ sĩ
của mình.
Phẩm chất anh dũng, tài hoa, trí tuệ của người lái đò được thể hiện qua cảnh vượt thác

sông đà. Tại đây, con sông mưu mô, xảo quyệt bày ra một “thạch trận” với ba vòng thách
đấu như muốn tiêu diệt những con thuyền đi qua. Những người anh hùng vẫn không chút
sợ hãi, vẫn rất điềm tĩnh bằng trí tuệ của mình ơng lái đị đã lần lượt chinh phục từng cửa
ải. Vòng thứ nhất, với năm cửa trận, bốn cửa từ, chỉ có một cửa sinh duy nhất nằm lập
lờ bên bờ tả ngạn. Thuyền vừa tới, “phối hợp với đá, nước reo hò làm thanh viện cho đá”
những hịn đá ngỗ nghịch, bệ vệ. Có hịn đá nhìn nghiêng thì như “hất hàm” địi cái thuyền
phải “xưng tên tuổi trước khi giao chiến”, có hịn thì như thách thức ơng đị “có giỏi thì
tiến vào đây”. Ơng đị khơng chút nao núng tay vẫn “giữ lấy mái chèo cho khỏi bị hất lên”.
Mặt nước hò reo vang dội, ùa vào như bẻ gãy cán thuyền, sóng nước như “quân liều
mạng” lao vào “đá trái thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Nước bám lấy như “đơ vật”
muốn vật ngửa người lái đị ra. Sóng nước đánh đến món địn “hiểm độc nhất”, luồng
nước ấy bóp chặt lấy hạ bộ ơng đị. Ơng đị đã bị thương “mặt méo bệch đi” nhưng không
hề đầu hàng trước kẻ thù, ông “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng lái”,
tiếng chỉ huy của ông vẫn vang lên ngắn gọn, tỉnh táo. Vậy là phá xong cái “trùng vi thạch
trận thứ nhất”.
Không cần nghỉ tay, nghỉ mắt một phút giây nào phải phá ln vịng vây thứ hai, lần này
ơng đị đã đổi chiến thuật. Ơng đị đã nắm chắc “binh phát của thần sông Đà”, “thuộc quy
luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Con sông Đà đã lộc rõ sự gian trá,
độc ác của mình khi lần này nó bày ra nhiều cửa tử hơn, cửa sinh nằm lệch sang một
phía hữu ngạn con sông. Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh cưỡi lên con sông Đà phải
“cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Nắm được cái bờm sóng đúng luồn rồi, khơng phút nao
núng, ơng đị “ghì cặt cương lái”, bám chặt lấy luồng nước cố sức phóng nhanh vào phía
cửa sinh, “lái miết một đường chéo về phía cửa ấy”, bỏ lại sau lưng những cửa tử và
những hịn đá vẫn “khơng ngừng khiêu khích”.


Trùng vây thạch trận cuối rồi, lần này ít cửa ải hơn, “bên phải bên trái đều là luồng chết”,
luồng sinh nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Con sông Đà dường như chưa
từ bỏ tham vọng của nó, sự hiếu thắng, nó muốn nuốt trọn con thuyền trong lần giao
chiến quyết định cuối cùng này. Nhưng người lái đị bao lần vượt thác ghềnh, ơng đã tích

luỹ biết bao kinh nghiệm, ơng cho thuyền phóng thẳng “cứ thế chọc thủng cửa giữa đó”,
thuyền như một mũi tên tre nhọn hoắt, cứ thế lao nhanh “vừa xuyên vừa tự động lái được
lượn được”. Cuối cùng bằng sự gan dạ, tài trí, kinh nghiệm của mình ơng đị đã vượt hết
dịng thác một cách an tồn, giành chiến thắng trong cuộc chiến không khoan nhượng
với kẻ thù hung bạo.
Nguyễn Tuân xây dựng hình tượng nhân vật người lái đị sơng Đà bằng nhiều nghệ thuật
đặc sắc. Tác giả sử dụng từ ngữ của nhiều lĩnh vực: Binh pháp, võ thuật, thể thao, âm
nhạc…, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá cùng với nhịp điệu câu văn hài hồ sinh
động. Ơng đã khắc hoạ thành cơng hình ảnh người lái đị sơng Đà trí tuệ, tài hoa và bản
lĩnh, qua đó ca ngợi con người lao động Tây Bắc mang vẻ đẹp và những phẩm chất cao
quý.
Đoạn trích người lái đị Sơng Đà của Ngun Tn là một bài tuỳ bút có giá trị vơ cùng
to lớn, tác giả đã thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng, khẳng định và ngợi
ca vẻ đẹp của thiên nhiên cùng với con người miền Tây bắc xa xôi. Đồng thời thể hiện
tình cảm yêu mến, trân trọng, sự gắn bó tha thiết, sâu nặng của Nguyễn Tuân đối với
quê hương, đất nước, con người Việt Nam.

Phân tích Người lái đị sơng Đà mẫu 2
Tây Bắc là một mảnh đất có nhiều duyên nợ với nhiều nhà văn, nhà thơ. Mỗi nhà văn,
nhà thơ lại tái hiện và khắc họa hình ảnh Tây Bắc ở những góc độ khác nhau. Trong đó,
Nguyễn Tuân đã khám phá được vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây, nhận thấy được “chất vàng
10” trong tâm hồn con người nơi đây. Tùy bút “Người lái đị sơng Đà” chính là món q
đầy ý nghĩa mà ông dành cho mảnh đất Tây Bắc.
Qua tài năng của Nguyễn Tn, con sơng Đà hiện lên khơng cịn là một con sông vô tri
vô giác nữa mà trở thành một sinh thể có hồn, một nhân vật có tính cách, tâm trạng và
là tuyệt mĩ của tạo hóa.
Trước hết, con sông Đà hiện lên là một con sông hung bạo đáng sợ. Đá bờ sơng “dựng
vách thành”, “có chỗ vách đá chẹt lịng sơng Đà như một cái yết hầu”, “ngồi trong khoang



đò quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Bờ sơng Đà thật hùng vĩ, hiểm trở, lịng
sơng hẹp kéo theo dịng nước chảy xiết. Những ghềnh sóng hiện lên với sự dữ dội, hung
hãn “nước xô đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió”. Tác giả sử dụng câu văn có sự trùng điệp
nhịp văn ngắn để diễn tả sự hung dữ của ghềnh sơng. Nó giống như một mụ phù thủy
quái ác “gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào qua
quãng ấy”. Đáng sợ hơn là những cái hút nước của sơng Đà. Những hút nước này có độ
xốy rất sâu và lớn như cái giếng bê tông thả xuống sơng để làm móng cầu “xốy tít đáy”.
Nơi đây tiềm ẩn sự nguy hiểm và là nơi trú ngụ của tử thần. Có những chiếc thuyền bị
lơi xuống, ”thuyền đi ngâm dưới lịng sơng đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu
sông dưới”. Tác giả đã sử dụng những tri thức điện ảnh để đem đến cho người đọc sự
hình dung rõ hơn về những cái hút nước.
Sự hung bạo của sơng Đà cịn được thể hiện ở thác nước và trận địa danh của Đà giang.
Thác nước ở đây nó thật khủng khiếp “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa…. da cháy bùng bùng”. Câu vă của
Nguyễn Tuân đã tác động mạnh mẽ vào thị giác và thính giác của người đọc, lột tả sự
giận dữ, ghê gớm của những con thác ở sông Đà. Tác giả tiếp tục chi tiết của những trận
địa con sông Đà. Đặc biệt là cuộc chiến với ơng lái đị. Đà giang hiện lên khơng khác gì
một con thủy quái dữ tợn và khát máu. Nó đưa ra mọi thủ đoạn sử dụng mọi chiêu thức
sử dụng mọi địn đánh để hạ gục ơng lái đị. Thơng qua sự khắc họa của Nguyễn Tuân,
người đọc có dịp chứng kiến được sự hung bạo, nghỗ nghịch bất trị của bà mẹ thiên
nhiên.
Trái với vẻ hung bạo và dữ tợn thì cũng có lúc con sơng sơng Đà hiện lên thật trữ tình.
Con thủy quái ấy đã rũ mình và vứt bỏ sự gớm ghiếc để trở thành một thiếu nữ kiều diễm.
Nét trữ tình của con sơng Đà được thể hiện ở hình dáng con sơng. Dịng sơng Đà mềm
mại “từng nét trải ra trên đại dương đá lờ đờ bóng mây”. Dịng sơng Đà được Nguyễn
Tn ví với mái tóc thướt tha của người con gái đang độ thanh xuân. “Con sông Đa tuôn
dài, tuôn dài…đốt nương xuân”. Đó là một vẻ đẹp đầy sức sống và mang nét nên thơ,
mờ ảo giữ mây trời khói núi. Màu sắc sông Đà thay đổi theo mùa và mỗi mùa mang một
vẻ đẹp riêng.
Vẻ đẹp con sơng Đà cịn được tô điểm bởi cảnh ven sông và cảnh trên sông. Khung cảnh

thiên nhiên ven sông Đà thật giàu chất thơ. “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ”, “một lương


ngô…”, Thật là một bức tranh dạt dào nguồn nhựa sống, lam mê đắm hồn người.” Bờ
sơng hoang dại…cỏ tích tuổi xưa”. Với hình ảnh so sánh tài hoa, độc đáo của Nguyễn
Tuân đã kéo người đọc trở về thuở bình n của sơng Đà từ ngàn năm trước.
Nói tóm lại, Nguyễn Tn đã khắc họa rất thành cơng hình tượng con sơng Đà với hai
tính cách: hung bạo đến đáng sợ và trữ tình đến tuyệt mĩ. Nhà văn đã cho chúng ta thấy
được sự tài hoa trong trí tưởng tượng phong phú, trong những liên tưởng táo bạo, bất
ngờ, những so sánh mang dấu ấn cá nhân của Nguyễn Tn trên những trang văn.

Phân tích Người lái đị sông Đà mẫu 3
Đến với tác phẩm của Nguyễn Tuân mỗi người sẽ tìm cho bản thân mình những xúc cảm
riêng, là sự ngưỡng mộ, khám phá chờ mong. Dường như dưới đôi bàn tay tài hoa nghệ
sĩ, ông đã khiến người đọc như chìm đắm, như được sống những phút giây thực sự với
thiên nhiên khung cảnh nơi đó. Đây chính là cái tài sử dụng ngơn ngữ của ơng. Đặc biệt
qua đoạn trích “Người lái đị sơng Đà” tài năng đó càng được bộc lộ rõ nét hơn.
Cả cuộc đời của Nguyễn Tuân có chăng được gói gọn trong chữ “độc đáo”. Bản thân là
người độc đáo, khác thường nên đối tượng nghệ thuật của ông cũng phải là có một
khơng hai. Dưới bút lực dồi dào của mình Nguyễn Tn đã phơ diễn cho bạn đọc thấy
hình ảnh của một dịng sơng Đà vừa hung bạo, nhưng cũng rất đỗi trữ tình. Bên cạnh đó
là vẻ đẹp nổi bật của người lao động, chinh phục và làm chủ thiên nhiên.
Trước hết cái độc đáo của sông Đà được Nguyễn Tuân khai thác trên hai phương diện:
hung bạo và trữ tình. Chất hung bạo chính là điểm nổi bật đầu tiên của Nguyễn Tuân đề
cập đến. Vẻ đẹp hung dữ, bạo tàn của con sông ở những đoạn thác dốc như một sức
mạnh vơ hình thu hút ơng. Đây cũng là lãnh địa tạo cho ông cơ hội thỏa sức tung hồnh
trí tưởng tượng của bản thân. Ơng cực kì phấn khích khi chuẩn bị đến thác cuối, khi
chuẩn bị được tận mắt chứng kiến sự hung bạo của sơng Đà: “… Cịn xa lắm mới đến
cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại ró to mãi lên. Tiếng nước thác
nghe như là ốn trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà

chế nhạo. Thể rồi nó giống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa
rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đáng phá tuông rừng mửa, rừng lửa cùng gầm thét với
đàn trâu da đen cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi”. Có thể thấy trong đoạn văn giọng điệu
hào hứng, hồ hởi cũng như giác quan vơ cùng thính nhạy của Nguyễn Tuân. Ông nắm
bắt từng chuyển động của thiên nhiên để có thể cảm nhận được vẻ đẹp hung bạo của


nó từ phía xa. Đặc biệt hình ảnh so sánh thác nước như những con trâu lồng lộn, rống
lên cũng cực kì đặc sắc, diễn tả tiếng thác nước ầm ào chảy, vừa hứng thú, kích thích
nhưng cũng đầy lo lắng, sợ hãi.
Và đến đoạn thác nước, bút lực của ông mới thực sự được phát lộ hết. Bao nhiêu hào
hứng ông dồn cả vào đoạn văn miêu tả sự hung bạo của sông Đà. Những thạch trận liên
tiếp được bày ra, dụ con thuyền đến để nuốt gọn vào lịng: “Thạch trận dàn bày vừa xong
thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những
hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt. Mỗi hịn ấy trơng nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi
cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách
thức cái thuyền có giỏi thì tiến gán vào”. Với thủ pháp nhân hóa, cùng trí tưởng tượng
phong phú Nguyễn Tn đã khiến cho những hịn đá vơ tri có gương mặt, tâm trạng và
thân phận riêng. Nhưng tựu chung lại có thể thấy ở chúng sự ngơng ngạo, tự phụ, ỷ thế
mà chèn ép người khác, đặc biệt là ỷ vào thế hiểm của thằng đá tướng.
Nhưng sự tự phụ của chúng chẳng được bao lâu, bới dưới sự uy dũng, kinh nghiệm của
người lái đị ơng đã nhanh chóng vượt qua chúng. Đoạn này ngịi bút lãng mạn của ông
càng được phát huy cao độ hơn nữa. Con sông ương bướng, bày ra thạch trận ba vịng,
với những lắt léo khác nhau cũng khơng thể cản bước ơng lão đị. Ơng cưỡi lên từng con
sóng, từng đọt nước mà vượt qua: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên
sông Đà. Nắm chặt lấy được cái bườm song đúng luồng rồi, ơng đị ghì cương lái, bám
chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, là lái miết một đường chéo về
phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xơ ra định níu thuyền
lơi vào tập đồn cửa tử. Ơng đị vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ơng tránh mà rảo bởi chèo
lên, đứa thì ơng đè sấn lên mà chặt đơi mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sâu

thuyền”. Những câu văn kia miêu tả ơng lái đị mới sảng khoái và sung sướng biết bao
khi con người đã vươn lên làm chủ thiên nhiên. Đồng thời những lời miêu tả chân thực,
sinh động đó cũng cho thấy tài nghệ lái thuyền tài ba, sự dày dặn kinh nghiệm, và dũng
cảm là những yếu tố giúp ơng lái đị của thể vượt qua mọi cửa tử để đi đến được một
cửa sinh duy nhất.
Khơng chỉ có niềm say mê, hứng thú đặc biệt với những nơi đầy nguy hiểm mà đơi mắt
tinh tế của Nguyễn Tuần cịn đầy tình tứ, phát hiện vẻ đẹp mơ mộng, trữ tình của con
sơng Đà. Vẻ đẹp trữ tình của sơng Đà quả như là đối cực với sự hung bạo của chúng.


Nếu như bên trên con sông Đà bạo liệt, hung hãn bao nhiêu, thì đến đây lại mơ mộng,
hiền hịa bấy nhiều. Đoạn văn thấm đẫm màu sắc văn chương và hội họa.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hay qua thực cảnh sắc sơng Đà, chẳng ai có thể biết
được, nhưng nó tốt lên vẻ đẹp của sự trữ tình, mơ mộng q đỗi. Sơng Đà giờ đây
khơng cịn hoang dại, mà tựa như một cô gái sơn cước miền Tây Bắc vơ cùng yểu điệu,
thục nữ, lại có đơi nét mờ màng: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc và chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng
hai và cuồn cuộn mù khói mèo đất nương xuân”. Đọc câu văn mà ngỡ như ta đang đọc
một câu thơ của Nguyễn Tuân vậy. Chất trữ tình thẫm trong cảnh vật, ngập đầy trong
từng câu chữ. Chỉ trong một đoạn văn không quá dài, nhưng trước vẻ đẹp trữ tình của
con sơng mà Nguyễn Tn đã hai lần phải thốt lên “chao ơi”. Vì được chiêm ngưỡng
cảnh đẹp, vì được gặp lại người bạn có nhân bao ngày xa cách. Đó là sự vui mừng,
cuống quýt thấp thỏm, đầy hạnh phúc. Sơng Đà chính là cố nhân của Nguyễn Tuần.
Chính tâm trạng vui sướng đó đã khiến cơng có một đoạn văn đầy xúc cảm: “Bờ sông
Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sống Đà. Chao ơi trơng con sơng, vui
như thấy nắng giịn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng
dài ngày rồi lại bắt ra sơng Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”. Không
chỉ cảm nhận sông Đà là người bạn, người cố nhận gặp lại sau nhiều ngày xa cách mà
ơng cịn cảm nhận được cái khơng khí cổ xưa, như bờ tiền sử hoang dại ở sông Đà. Quả
thực, có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân với những xúc cảm tinh tế của mình mới có thể cảm nhận

trọn vẹn được vẻ đẹp của sông Đà ở mọi chiều kích khơng gian và thời gian như vậy.
Với bài bút kí Sơng Đà nói chung và Người lái đị sơng Đà nói riêng ta khơng chỉ thấy
được vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài năng, với bút lực dồi dào. Mà bên cạnh đó cịn
thấy được tấm long của một con người yêu nước, dành trọn cuộc đời mình khám phá,
tơn vinh vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp của con người lao động trong cuộc sống mới.

Phân tích Người lái đị sơng Đà mẫu 4
Người lái đị sơng Đà của Nguyễn Tuân là bút ký đặc sắc, là kết quả của chuyến thâm
nhập thực tế vùng sông Đà 1958 - 1960 của nhà văn, in trong tập bút ký Sơng Đà. Cảm
hứng gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc đã in đậm trong hình ảnh người lái đị
nghệ sĩ và con sơng Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.


Khi lịng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.”
(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)
Trong những ngày tháng cả nước rộn ràng lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây
Bắc” để xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc, có biết bao nhà văn, nhà thơ đã thực
hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Một trong những nhà nghệ sĩ yêu nước ấy
là Nguyễn Tuân - cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam, người đã mang lại
những tờ hoa thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua tùy bút Người lái
đị sơng Đà - một tác phẩm thể hiện rõ nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo
của ông.
Đến với nghệ thuật, đối với Nguyễn Tn là đến với sự tìm tịi và sáng tạo, bởi vì “nhà
văn là người sáng tạo lại thế giới”. Nguyễn Tn sợ mình của ngày hơm nay giống với
mình của ngày hơm qua, sợ sự trùng lặp tầm thường. Chính vì thế, ơng đã lấy “chủ nghĩa”
xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm, làm mục đích cho cuộc đời mình. Sống là để đi, để tìm
hiểu những điều mới lạ.
Trước cách mạng, một mình với chiếc vali, Nguyễn Tuân đã bôn ba trên nhiều miền quê

đất nước nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu quê hương”, bất mãn với cuộc đời. Đó cũng
là tâm trạng chung của thời đại. Sau cách mạng, ông cũng xuôi ngược nhiều nơi nhưng
với tinh thần của người yêu quê hương xứ sở, muốn góp phần vào cơng cuộc xây dựng
Tổ quốc. Chính nhà văn đã từng nói đến Tây Bắc là để “đi tìm cái thứ vàng mười của
màu sắc sông núi Tây Bắc, và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả
những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với cơng cuộc xây dựng cho Tây Bắc
thêm sáng sủa tươi vui và bền vững”. Với tình yêu quê hương sâu nặng và bầu nhiệt
huyết sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn ngôn ngữ phong phú
của mình để viết nên những tờ hoa thơm thảo về con người và thiên nhiên của miền
sông núi này…
Tác giả hay đi tìm cảm giác mạnh cho các giác quan. Vì vậy, những trang văn của ơng
thường mang theo âm điệu của những trận cuồng phong, bão tố. Nhưng không vì thế mà
chúng mất đi nét dịu hiền, thơ mộng. Qua ngịi bút Nguyễn Tn, sơng Đà hiện lên vừa
hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình. Nó mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một,


có thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…”Nước sông
Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lịng
sơng” và khi thấy chiếc thuyền nào nhơ vào thì chúng “nhỏm cả dậy để vồ lấy”… Nhưng
cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn khơng làm mất đi được nét trữ tình ở sơng Đà. Miêu tả con
sơng ở những đoạn xi dịng, ngịi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, uyển
chuyển, mang đậm chất thơ. “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc,
chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…
Trên con sơng ấy, ơng lái đị xuất hiện, dữ dội và phi thường. Trong cuộc chiến đấu “một
mất, một còn” với thác nước, tác giả cho ta thấy được cái tài hoa, trí dũng tuyệt vời của
ơng lái. Người lái đị sơng Đà là hiện thân của tác giả, chỉ thích lao vào những cuộc chiến
đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà khơng ưa xi thuyền trên dịng sông êm ả…
Giọng văn Nguyễn Tuân thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của
cùng một sự vật. Sơng Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, vừa là “kẻ thù, vừa là “cố nhân”.

Dưới ngịi bút tác giả, con sơng khơng chết cứng mà vận động một cách mạnh mẽ, sôi
nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tác động mạnh vào giác quan người đọc. Ơng lái
đị cũng thế cũng xuất hiện một cách sinh động, rõ nét và sắc sảo… Đối với Nguyễn
Tuân, “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cái đẹp ấy đã
chi phối cách nhìn của tác giả trên tồn bộ tác phẩm. Con người và sự vật, qua ngòi bút
Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ.
Nét đẹp sông Đà là một công trình dày cơng sáng tạo của tạo hóa. Nó vừa hùng vĩ vừa
nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp đến màu sắc. Cái áng tóc trữ tình của người thiếu nữ ấy là
nguồn cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn. Nước sơng Đà cũng thế. “Mùa xn
dịng xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sơng Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì
rượi bữa”. Con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên
mà nó thật gợi cảm. Nó gây nên nỗi nhớ da diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi
lại đi xa. Gặp lại sông Đà, tác giả cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố
nhân. “Chao ôi, trông con sơng, vui như thấy nắng giịn tan sau kì mưa dầm, vui như nối
lại chiêm bao đứt quãng”.

Phân tích Người lái đị sơng Đà mẫu 5


Nguyễn Tuân - người được mệnh danh là “Người đi tìm cái đẹp, cái thật trong đời” khơng
chỉ là một trí thức u nước mà ơng cịn là một nhà văn tài hoa, uyên bác. Ông đã để lại
nhiều tác phẩm lớn, nổi bật hơn cả là tùy bút “ Người lái đị sơng Đà” (1960). Tác phẩm
là thành quả của nhà văn trong chuyến ông đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất vàng thử lửa
của thiên nhiên Tây Bắc. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn
sau Cách mạng tháng 8.
Tùy bút “Người lái đò sơng Đà” lấy ơng lái đị làm nhân vật trung tâm nhưng thực chất là
mượn hình ảnh ơng lái đị để miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ, dữ dội và thơ mộng của
con sông Đà. Tất cả hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân vừa chân thực, vừa sống
động.
Trước hết, Nguyễn Tuân khắc họa vẻ đẹp của con sơng Đà được nhân hóa như con

người, nó mang linh hồn độc đáo vừa có nguồn gốc, lai lịch rõ ràng, lại vừa mang tính
cách hung bạo, trữ tình. Con sông được giới thiệu:
“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu”
Ý nói mọi con sơng đều chảy theo hướng Đơng, chỉ có sơng Đà chảy theo hướng Bắc.
Đây là một cách giới thiệu ấn tượng, đập thẳng vào nhãn quan người đọc sông Đà hiện
lên như một cá thể rất có hồn. Sơng Đà khai sinh ở huyện Cảnh Đơng, tỉnh Vân Nam. Nó
mang hai tính cách. Đầu tiên là tính cách hung bạo và trữ tình, được thể hiện ở khía
cạnh: Nguyễn Tuân miêu tả cảnh đá ở bờ sơng “đá dựng vách thành lịng sơng hẹp, có
qng con hươu con nai cịn nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia, nhìn từ dưới lên
như nhìn lên cái tịa nhà cao vừa tắt phụt đèn điện”. Đặc biệt ở đoạn mặt ghềnh dài hàng
ngàn cây số thì “nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt
năm như địi nợ suýt bất cứ ai đi qua quãng ấy”. Thật nguy hiểm, rung rợn. Đâu chỉ có
vậy, Cái hút nước giống như cái giếng bê tông, nước thở và kêu như cái cống cái bị sặc,
tưởng tượng một anh quay phim táo bạo ngồi thuyền thúng mà cầm máy quay cùng chìm
xuống cái xốy ấy”. Hay đến thác nước với những âm thanh dữ dội như càng xốy vào
lịng người nhiều hiểm ngay đang rình rập chỉ chờ chực sẵn con mồi “tiếng nước “ réo”,
“tiếng nước thác nghe như là ốn trách… van xin … khiêu khích, giọng gằn mà chế
nhạo… nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng…”. Nước như một đội quân hùng
mạnh, dữ tợn. Đáng sợ hơn tất cả hình ảnh đá ở lịng như như đang bày binh bố trận địa


thác đá với 3 trùng vi. Trùng vi thạch trận thứ 1: “mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một
cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn”. Sang đến trùng vi thách trân thứ 2 đã tăng
thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí qua phía bờ hữu
ngạn. Và trùng vi trạch trận thứ 3 cả bên trái lẫn bên phải đều là luồng chết cả. Cái luồng
sống ở chặng ba này lại ngay giữa bọn đá hậu vệ.. Việc bày binh bố trận vừa theo một
quy luật trật tự nhất định để ngăn cản những ứng viên rắn chắc chèo chống về phía đích.
Họ như những cầu thủ chuyên nghiệp trên sân cỏ đang lao mình ra để bảo vệ cầu môn,
không cho quân địch hay kẻ ngồi này le lói gần khung thành. Bằng lối viết tài hoa, một

kiến thức sâu rộng uyên bác, Nguyễn Tuân đã viết nên những câu văn theo kiểu móc
xích, cấu trúc câu trùng điệp, sử dụng xen kẽ biện pháp tư từ nhân hóa, so sánh rõ rệt
để làm nổi bật hình ảnh con sơng Đà cuồng nộ, như muốn mình là vua của cả thế giới.
Con sơng ấy hung bạo, hiểm trở, là kẻ thù số 1 của con người.
Trái với vẻ ngồi dữ tợn ấy, sơng Đà cịn hiện lên một vẻ trữ tình đằm thắm dưới ngịi
bút bậc thầy lão luyện của Nguyễn Tuân. Đi từ thượng nguồn đến hạ nguồn, ta đều bắt
gặp hình dáng con sông rất thơ mộng như một cô thiếu nữ đôi mươi kiều diễm, trẻ trung,
duyên dáng: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình”, “Sơng Đà như một áng tóc mun,
dài ngàn ngàn vạn vạn sải”. Màu nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa rất đẹp và quyến
rũ, mùa xn, dịng xanh ngọc bích, mùa thu nước sơng Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt
người bầm đi vì rượu bữa. Sự thay đổi sắc màu tạo cho sơng Đà mang một vẻ đẹp huyền
bí, q phái. Nhà văn cịn miêu tả hai bên bờ sơng Đà cũng tươi mới không kém. “Bờ
sông hoang dại như một bờ tiền sử”. Sông Đà, con sông chứng kiến biết bao nhiêu thăng
trầm của lịch sử, nó là chứng nhân lịch sử vĩ đại cũng là một con sông đẹp kiều diễm mà
nên thơ. Con sơng ấy gợi trong lịng nhà văn nhiều cảm xúc, như một “cố nhân”.
Bằng tài năng của mình, Nguyễn Tuân đưa người đọc khám phá một con sông Đà mang
nhiều trạng thái cung bậc, khi thì dữ dội, khi lại nên thơ trữ tình. Con sơng ấy dưới ngịi
bút điêu luyện của ơng được coi như là một khám phá lớn, một cơng trình nghệ thuật vĩ
đại mà tạo hóa ban tặng cho Tây Bắc.
Song song với hình tượng con sơng Đà là hình ảnh người lái đị sơng Đà - một tay lái ra
hoa với trí dũng song tồn. Nguyễn Tn đã miêu tả ngoại hình của ơng rất độc đáo: “tay
lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh”. Ông quê ở ngã tư sơng, là người từng trải,
ơng làm nghề lái đị đã được mười năm liền. Ơng với con sơng Đà gắn bó mật thiết với


nhau, như người bạn tri kỉ của mình. Với kinh nghiệm chinh chiến trên con sông ấy đã
nhiều năm, ông nắm chắc từng luông lạch, từng ngọn thác và đặc biệt, ông nắm rất vững
quy luật của “thần sông thần đá” trên con sơng Đà. Vì ơng am hiểu con sông ấy một cách
tường tận, thấu đáo nên ông rất thích vượt thác, đối mặt với con sơng ấy. Chỉ với vài nét
khắc họa đơn giản, Nguyễn Tuân đã phác họa được một người lái đò yêu nghề, yêu thiên

nhiên, thích hịa mình rượt đuổi cùng thiên nhiên.
Vẻ đẹp của ông lái đò được nhà văn miêu tả rất chi tiết qua những lần ông vượt thác.
Tay lái ra hoa ấy càng khiến người đọc thêm khâm phục phần nào về tài năng, bản lĩnh
dám đương đầu với thử thách. Trên con sông hùng vĩ nguy hiểm ấy, ông lái đò hiện lên
với tư thế hiên ngang của một dũng tướng chỉ huy chiến trận. Ơng chỉ huy con thuyền
mình luồn lách tới đích vượt qua các chướng ngại vật với phong thái của một nghệ sĩ tài
hoa. Ở vòng vây thứ nhất, ông hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa
phóng thẳng vào mình. Hai chân ông vẫn kẹp chặt lấy cuống lái. Đến vịng vây thứ hai,
khơng một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá ln vịng vây thứ hai và đổi ln chiến thuật.
Ơng cưỡi lên thác sơng Đà, nắm bờm sóng, ghì cương lái, bám lấy luồng nước đúng mà
phịng nhanh vào cửa sinh. Và ở vịng cuối, ơng phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa
giữa. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động
lái được lượn được. Cuộc vượt thác thành công. Mặc dù có lúc ơng gặp khó khăn bị
thương nhưng ơng vẫn bình tình, dũng cảm đối mặt sau cùng nếm vị ngọt thành quả:
“đốt lửa trong hang đá, bàn tán về cá anh vũ”. Cuộc chiến khốc liệt kết thúc thắng lợi vẻ
vang.
Qua đây, ta mới thấy được ơng lái đị là người rất am hiểu binh pháp của thần sông, thần
đá, là một hình tượng nhân vật mới mà Nguyễn Tuân đang hướng tới - một bức chân
dung người lao động vừa hiên ngang, khí phách, ngang tàng lại rất giản dị.
Tóm lại, “Người lái đị sơng Đà” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Tuân. Bằng tài năng, ngòi bút uyên thâm cùng kiến thức tổng hợp phong
phú, ông đã rất thành công khi xây dựng được nhân vật người lái đò hùng dũng, hiên
ngang và hình ảnh con sơng Đà với hai tính cách trái ngược nhưng rất đỗi đẹp đẽ. Tùy
bút” Người lái đị sơng Đà” ln sống mãi trong lịng người đọc và trường tồn theo thời
gian.

Phân tích Người lái đị sông Đà mẫu 6


Nguyễn Tuân người nghệ sĩ suốt một đời đi tìm cái đẹp và trăn trở về cái đẹp. Nếu như

trước cách mạng ơng thốt li thực tại, tìm cái đẹp ở thời cịn vang bóng, thì sau cách
mạng cốt cách ấy vẫn duy trì nhưng ơng tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống này, ở những
con người lao động hết sức bình dị. Người lái đị sơng Đà được trích từ tập bút kí Sơng
Đà là những nét vẽ chân thực về vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc, và vẻ đẹp hào
hùng của con người trong lao động.
Tập tùy bút Sơng Đà nói chung là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân
lên mảnh đất Tây Bắc vào những năm 1958-1960. Đây là thời kỳ miền Bắc sau ngày giải
phóng đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo tiếng gọi của Đảng miền Bắc đang đấy lên
phong trào tình nguyện đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế và hàn
gắn vết thương chiến tranh.
Như chúng ta biết rằng, mỗi lời đề từ xuất hiện, thường sẽ tập trung tư tưởng của tác
phẩm, là chìa khóa mở cánh cửa vào tác phẩm, hé lộ tư tưởng, chủ đề, cảm hứng chủ
đạo. Người lái đị sơng Đà sử dụng hai lời đề từ: Lời đề từ thứ nhất: “Đẹp vậy thay, tiếng
hát trên dịng sơng”, đây là câu thơ nổi tiếng của nhà thơ cách mạng Ba Lan mang cấu
trúc cảm thán. Câu thơ có thể là câu hát của những người chèo đò, kéo thuyền vượt thác
với tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu lao động, cũng có thể là sự ngơi ca của chính
nhà văn trước tư thế làm chủ thiên nhiên của con người trong cuộc sống mới. Câu thơ
thứ hai, Nguyễn Tuân mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đơng
tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”. Câu thơ đã hé mở cho người đọc thấy, mọi dịng sơng đều
chảy về hướng đơng, duy có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Câu thơ đã khẳng định sự
độc đáo của Đà giang đồng thời hé lộ cá tính nghệ thuật của Nguyễn Tuân - nhà văn của
những phong cảnh tuyệt mĩ, cảm giác mãnh liệt.
Trước hết về hình tượng con sơng Đà được Nguyễn Tn miêu tả trên nhiều phương
diện, vừa mang vẻ đẹp hung bạo nhưng đồng thời cũng hết sức nên thơ, trữ tình. Vẻ đẹp
hung bạo của dịng sơng được Nguyễn Tn thể hiện ở cảnh đá bờ sông dựng vách
thành. Lúc ấy “mặt sơng chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” đã gợi ra được độ cao
và diễn tả được cái lạnh lẽo, âm u của khúc sông. Không chỉ vậy “vách đá thành chẹt
lịng Sơng Đà như một cái yết hầu” đã diễn tả sự nhỏ hẹp của dòng chảy gợi ra lưu tốc
rất lớn nhất là vào mùa nước lũ với bao nhiêu nguy hiểm rình rập. Với trường liên tưởng
độc đáo, Nguyễn Tuân tiếp tục khắc họa đậm nét hơn nữa về những vách đá lạnh lẽo,



tăm tối, ở khúc sông nhỏ và hẹp: “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà
cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung
cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Khơng chỉ vậy sự hung bạo cịn thể hiện ở “quãng mặt ghềnh Hát Loóng”, ở đoạn này,
Nguyễn Tuân đã nhân hóa dịng sơng như một sinh thể người, đó là kẻ đi đòi nợ thuê,
với gương mặt dữ dằn, tàn bạo. Câu văn với nhịp điệu dồn dập, điệp từ, điệp cấu trúc
được vận dụng liên tiếp (nước xô đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió) kết hợp với các thanh trắc
liên tiếp đã tạo nên âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy,
vừa hợp sức của sóng, gió và đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ
dằn, tạo nên một mối đe dọa thực sự đối với bất kì người lái đị nào “qng này mà khinh
suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
Sự hung bạo còn được thể hiện ở những cái hút nước tàn độc, được giăng mắc trên
khắp khúc sông, như trực lấy mạng của con người bất cứ lúc nào. Để tái hiện sự khủng
khiếp của những cái hút nước, Nguyễn Tuân đã lia máy quay ở nhiều chiều kích khác
nhau, cho người đọc một cái nhìn tồn diện, đầy đủ nhất. Khi nhìn từ trên xuống mặt
nước sơng “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”; từ
dưới lịng sơng nhìn ngược lên “thành giếng xây tồn bằng nước sơng xanh ve một áng
thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào…”. Và để giúp người đọc
cảm nhận được rõ hơn, tác giả còn đưa ra những vị thế cảm nhận khác nhau, với người
quay phim thì như “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình
cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…” ; với người xem phim lại thấy “thấy mình đang
lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha
lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn…”. Với những trải nghiệm và góc nhìn
phong phú Nguyễn Tuân đã cho người đọc cảm nhận đầy đủ mức độ nguy hiểm tột cùng
của dịng sơng Đà mà ở đây là những cái hút nước.
Cuối cùng sự hung bạo của sông Đà được khắc họa ở các trùng vi thạch trận khác nhau.
Với trùng vi thách trận thứ nhật là “cả một chân trời đá”, “mặt hòn đá nào trơng cũng ngỗ
ngược, hịn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Đá cịn bày

binh bố trận, như cố tình nhấn chìm con thuyền. Trùng vi thạch trận thứ hai tiếp tục tăng
thêm thử thách, cửa tử nhiều hơn để đánh lừa con thuyền và chỉ có duy nhất một cửa
sinh. Cửa sinh ấy lại không kém phần nguy hiểm khi “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa


×