TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Tên đề tài:
“Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và sự vận dụng quy luật này
ở nước ta từ khi đổi mới (1986) đến nay”
HÀ NỘI, 2022
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử lồi người đã trải qua quá trình phát triển lâu dài, từ trình độ thấp lên
trình độ cao, với nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Mỗi hình thái kinh tế xã hội đều được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất riêng của nó.
Sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn tuân theo quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đây
chính là hịn đá tảng trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác Lênin và cũng là quy luật cơ bản, phổ biến của xã hội loài người.
Quy luật này chỉ ra rằng khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất, đó sẽ là động lực để kinh tế - xã hội phát triển, cịn khi quan hệ sản
xuất khơng phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, dù là lạc hậu
hơn hay đi trước sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì đều là lực cản đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Việc hiểu rõ và nhận thức đúng nội dung của quy
luật này là rất quan trọng đối với việc đề ra các chủ trương, đường lối và xây dựng
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Việc nhận thức, vận dụng
đúng quy luật này vào thực tiễn sẽ tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát
triển mạnh mẽ, nâng cao đời sống cho người dân; ngược lại có thể gây ra sự đình
trệ, thậm chí khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Những năm qua Đảng và Nhà nước Việt Nam đã sớm xác định các đột phá
chiến lược: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và cải cách
hành chính; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại. Các đột phá chiến lược đó như
những điểm nhấn trong phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hồn thiện quan
hệ sản xuất. Chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao mới có thể bảo đảm làm chủ
3
khoa học, công nghệ trong thời đại cách mạng 4.0, bảo đảm tăng năng suất lao
động. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quy luật
và cũng là vấn đề cơ bản trong nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam.
Với ý nghĩa trên em đã chọn câu 5: “Quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng quy luật
này ở nước ta từ khi đổi mới (1986) đến nay” để làm tiểu luận kết thúc môn để
nhằm làm rõ những vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nghiên cứu đã được nhiều nhà nghiên cứu, học giả quan tâm tìm hiểu
đưới những khía cạnh khác nhau cũng như đã luận giải, tiếp cận ở những nội dung
cụ thể. Trong đó có thể kể đến nhiều sách chuyên khảo, bài tạp chí chun ngành
đề cập đến các nội dung có liên quan đến đề tài. Đây là những tài liệu tham khảo
hữu ích đối với tác giả khi thực hiện đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khái quát chung về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất đề tài làm rõ quan điểm của chủ nghĩa MácLênin và quá trình nhận thức và vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tại Việt Nam từ đó phân
tích thực trạng, giải pháp trong vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tại Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát chung về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất;
4
- Làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và quá trình nhận thức và vận
dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất tại Việt Nam;
- Phân tích thực trạng, giải pháp trong vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tại Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: từ 1986 đến nay.
5. Cơ sở luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Cơ sở luận
Đề tài dựa trên cơ sở luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng
và chính sách, pháp luật của nhà nước về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học như duy vật biện
chứng và phương pháp duy vật lịch sử. Đồng thời đề tài sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu chuyên ngành như phương pháp thống kê, phân tích - tổng hợp;
phương pháp so sánh và phương pháp quy nạp-diễn dịch.
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của đề tài
5
Đề tài được thực hiện góp phần làm rõ hơn quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng thực tiễn ở Việt
Nam. Đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích đối với sinh viên khi nghiên cứu các vấn
đề có liên quan.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo đề tài bao gồm 3
chương và 7 tiết.
6
NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP
VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1.1. Một số vấn đề lý luận về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
1.1.1. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là phạm trù triết học chỉ quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao
gồm quan hệ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, quan hệ về tổ chức và quản lý
sản xuất và quan hệ về phân phối các sản phẩm làm ra… Quan hệ sản xuất do con
người tạo ra nhưng sự hình thành và phát triển một cách khách quan khơng phụ
thuộc vào ý chí con người.Nếu như quan niệm lực lượng sản xuất là mặt tự nhiên
của sản xuất thì quan hệ sản xuất lại là mặt xã hội của sản xuất.
Quan hệ sản xuất gồm có 3 mặt: Quan hệ giữa người với người trong việc
chiếm hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu (gọi tắt là quan hệ sở hữu). Quan hệ giữa
người với người trong việc tổ chức, quản lý xã hội và trao đổi hoạt động cho nhau
(gọi tắt là quan hệ tổ chức, quản lý). Quan hệ giữa người với người trong phân
phối, lưu thông sản phẩm làm ra (gọi tắt là quan hệ phân phối lưu thông). Trong ba
mặt của quan hệ sản xuất thì quan hệ sử hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu là quan
hệ cơ bản và đặc trưng cho từng xã hội. Quan hệ về sở hữu quyết định quan hệ về
tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối các sản phẩm làm ra.
Trong cải tạo và củng cố quan hệ sản xuất vấn đề quan trọng mà Đại hội VI
nhấn mạnh là phải tiến hành cả ba mặt đồng bộ: chế độ sở hữu, chế độ quản lý và
7
chế độ phân phối không nên coi trọng một mặt nào cả về mặt lý luận, khơng nghi
ngờ gì rằng: chế độ sở hữu là nền tảng quan hệ sản xuất. Nó là đặc trưng để phân
biệt chẳng những các quan hệ sản xuất khác nhau mà còn các thời đại kinh tế khác
nhau trong lịch sử như mức đã nói.
Thực tế lịch sử cho thấy rõ bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào đều mang
một mục đích kinh tế là nhằm bảo đảm cho lực lượng sản xuất có điều kiện tiếp tục
phát triển thuận lợi và đời sống vật chất của con người cũng được cải thiện. Đó là
tính lịch sử tự nhiên của các q trình chuyển biến giữa các hình thái kinh tế – xã
hội trong quá khứ và cũng là tính lịch sử tự nhiên của thời kỳ quá độ từ hình thái
kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
Và xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính chất của
sở hữu cũng quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong mỗi
hình thái kinh tế – xã hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai
trò chi phối các quan hệ sản xuất khác ít nhiều cải biến chúng để chẳng những
chúng khong đối lập mà còn phục vụ đắc lực cho sự tồn tại và phát triển của chế độ
kinh tế – xã hội mới. Nếu suốt trong q khứ, đã khơng có một cuộc chuyển biến
nào từ hình thái kinh tế – xã hội sang hình thái kinh tế – xã hội khác hồn tồn là
một q trình tiến hóa êm ả, thì thời kỳ quá độ từ hình thái kinh tế – xã hội tư bản
chủ nghĩa hoặc trước tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa
(CSCN) trong thời đại ngày nay càng không thể là một quá trình êm ả. Chủ nghĩa
Mác – Lênin chưa bao giờ coi hình thái kinh tế – xã hội nào đã tồn tại kể từ trước
đến nay là chuẩn nhất.
Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội cùng với một quan hệ sản xuất thống
trị, điển hình cịn tồn tại những quan hệ sản xuất phụ thuộc, lỗi thời như là tàn dư
của xã hội cũ. Ngay ở cả các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất cũng không chỉ
8
có một quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thuần nhất. Tất cả các tình hình trên đều
bắt nguồn từ phát triển không đều về lực lượng sản xuất khơng những giữa các
nước khác nhau mà cịn giữa các vùng và các ngành khác nhau của một nước. Việc
chuyển từ quan hệ sản xuất lỗi thời lên cao hơn như C.Mác nhận xét: “Không bao
giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa
chín muồi…” phải có một thời kỳ lịch sử tương đối lâu dài mới có thể tạo ra điều
kiện vật chất trên.
1.1.2. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ của con người với tự nhiên hình thành
trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ khống
chế tự nhiên của con người. Đó là kết quả năng lực thực tiễn của con người tác
động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
loài người.
Trong cấu thành của lực lượng sản xuất, có thể có một vài ý kiến nào đó khác nhau
về một số yếu tố khác của lực lượng sản xuất, song suy cho cùng thì chúng đều vật
chất hóa thành hai phần chủ yếu là tư liệu sản xuất và lực lượng con người. Trong
đó tư liệu sản xuất đóng vai trị là khách thể, còn con người là chủ thể.
Tư liệu sản xuất được cấu thành từ hai bộ phận đó là đối tượng lao động và
tư liệu lao động. Thông thường trong quá trình sản xuất phương tiện lao động cịn
được gọi là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Trong bất kỳ một nền sản xuất nào công
cụ sản xuất bao giờ cũng đóng vai trị là then chốt và là chỉ tiêu quan trọng nhất.
Hiện nay công cụ sản xuất của con người không ngừng được cải thiện và dẫn đến
hoàn thiện, nhờ thành tựu của khoa học kỹ thuật đã tạo ra cơng cụ lao động cơng
nghiệp máy móc hiện đại thay thế dần lao động của con người. Do đó cơng cụ lao
động ln là độc nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất. Bất kỳ một thời đại
lịch sử nào, công cụ sản xuất bao giờ cũng là sản phẩm tổng hợp, đa dạng của toàn
9
bộ những phức hợp kỹ thuật được hình thành và gắn liền với quá trình sản xuất và
phát triển của nền kinh tế. Nó là sự kết hợp của nhiều yếu tố trong đó quan trọng
nhất và trực tiếp nhất là trí tuệ con người được nhân lên trên cơ sở kế thừa nền văn
minh vật chất trước đó.
Nước ta là một nước giàu tài nguyên thiên nhiên, có nhiều nơi mà con người
chưa từng đặt chân đến nhưng nhờ vào tiến bộ của KHKT và q trình cơng nghệ
tiên tiến con người có thể tạo ra được sản phẩm mới có ý nghĩa quyết định tới chất
lượng cuộc sống và giá trị của nền văn minh nhân loại. Chính việc tìm kiếm ra các
đối tượng lao động mới sẽ trở thành động lực cuốn hút mọi hoạt động của con
người. Tư liệu lao động dù có tinh sảo và hiện đại đến đâu nhưng tách khỏi con
người thì nó cũng khơng phát huy tác dụng của chính bản thân. Chính vậy mà Lê
Nin đã viết: “lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là cơng nhân, là
người lao động “. Người lao động với những kinh nghiệm, thói quen lao động, sử
dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Tư liệu sản xuất với tư cách là
khách thể của lực lượng sản xuất, và nó chỉ phát huy tác dụng khi nó được kết hợp
với lao động sống của con người. Đại hội VII của Đảng đã khẳng định: “Sự nghiệp
phát triển kinh tế đặt con người lên vị trí hàng đầu, vị trí trung tâm thống nhất tăng
trưởng kinh tế với công bằng khoa học và tiến bộ xã hội”.
Người lao động với tư cách là một bộ phận của lực lượng sản xuất xã hội
phải là người có thể lực, có tri thức văn hóa, có trình độ chun mơn nghiệp vụ
cao, có kinh nghiệm và thói quen tốt, phẩm chất tư cách lành mạnh, lương tâm
nghề nghiệp và trách nhiệm cao trong công việc. Trước đây do chưa chú trọng
đúng mức đến vị trí của người lao động, chúng ta chưa biết khai thác phát huy mọi
sức mạnh của nhân tố con người. Đành rằng năng lực và kinh nghiệm sản xuất của
con người còn phụ thuộc vào những tư liệu sản xuất hiện có mà họ đang sử dụng.
Nhưng tích cực sáng tạo của họ đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
10
1.2. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất,
chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng,
tạo thành quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội. Khuynh
hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét
đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết
là cơng cụ lao động.
Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng
sản xuất biểu hiện ở trình độ của cơng cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kĩ
năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân cơng lao động xã hội, trình
độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất.
Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân
lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao
động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản
xuất đạt đến trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực
lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.
Sự vận động, phát triển quá trình sản xuất quyết định và làm thay đổi quan
hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một
trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản
xuất.
11
Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đề tạo địa bàn đầy
đủ cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và
kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động và tư liệu sản xuất và do đó lực lượng
sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho
quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở nên khơng phù hợp. Khi đó quan hệ sản xuất
trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kiềm hãm lực lượng sản xuất phát
triển. Lực lượng sản xuất quyết định quan hẹ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất
cũng có tính độc lập tương đối với tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất, tác động đến thái độ con người
trong lao động sản xuất, đến tổ chức phản công lao động xã hội, đến phát triển và
ứng dụng khoa học và công nghệ.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật phổ biến tác động trong tồn bộ q trình lịch sử nhân loại. Sự
thay thế phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ
chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng
sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật
cơ bản nhất.
12
Chương 2
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ QUÁ TRÌNH NHẬN
THỨC, VẬN DỤNG LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT TẠI VIỆT NAM
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Trong lịch sử loài người, tất yếu diễn ra hoạt động lao động sản xuất, làm ra
của cải vật chất để duy trì cuộc sống con người và thúc đẩy xã hội phát triển. Đó là
hoạt động căn bản bảo đảm cho sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa định
hình các hình thái kinh tế-xã hội. Xét về phương diện sản xuất, lịch sử đã trải qua
các phương thức sản xuất xã hội khác nhau như những nấc thang phát triển văn
minh: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp. Thế giới cũng chứng kiến các
cuộc cách mạng công nghiệp: Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (chế tạo máy
cơ khí); Cách mạng cơng nghiệp lần thứ hai (điện khí hóa); Cách mạng công nghệ
thông tin và hiện nay là Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển trí tuệ
nhân tạo (4.0). Trong q trình lao động sản xuất địi hỏi không ngừng phát triển
lực lượng sản xuất (trước hết là công cụ lao động), phát triển khoa học, kỹ thuật,
trình độ người lao động. Cũng trong quá trình ấy hình thành quan hệ con người với
nhau trong lao động sản xuất trên các vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, cách thức
quản lý và trao đổi, phân phối sản phẩm, đó là quan hệ sản xuất.
Thực tiễn cũng đã làm rõ mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất từ đó khẳng định sự tồn tại của quy luật: quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tạo động lực cho kinh tế phát triển. Lực
lượng sản xuất phát triển địi hỏi có quan hệ sản xuất phù hợp. Chủ nghĩa tư bản ra
đời trên cơ sở phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và chính sản xuất hàng hóa
13
với quy mô lớn và quan hệ thị trường đã phá vỡ quan hệ sản xuất phong kiến hình
thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
(2-1948), C.Mác và Ph.Ăngghen nêu rõ: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị
giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ
sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”.
Chính sự phát triển của đại cơng nghiệp tức lực lượng sản xuất hiện đại và
mở rộng thị trường “đã đem lại một sự phát triển mau chóng cho yếu tố cách mạng
trong xã hội phong kiến đang tan rã” tức là thay thế quan hệ sản xuất phong kiến
bằng quan hệ sản xuất tư bản. C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “Tổ chức công
nghiệp theo lối phong kiến hay phường hội trước kia khơng cịn có thể thỏa mãn
những nhu cầu luôn luôn tăng theo sự mở mang những thị trường mới. Công
trường thủ công thay cho tổ chức cũ ấy. Tầng lớp kinh doanh công nghiệp trung
đẳng thay cho thợ cả phường hội; sự phân công lao động giữa các phường hội khác
nhau đã nhường chỗ cho sự phân công lao động bên trong từng xưởng thợ”.
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa từng bước định hình cả về sở hữu, quản
lý, phân công lao động và phân phối lợi ích và phát triển theo sự lớn mạnh của lực
lượng sản xuất của đại công nghiệp. Rõ ràng có sự hiện hữu của quy luật về quan
hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật
đó vẫn đúng khi giai cấp vô sản lớn mạnh tiến hành cuộc cách mạng vô sản đánh
đổ chủ nghĩa tư bản để xây dựng chế độ xã hội mới là chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Cách mạng tư sản xóa bỏ chế độ phong kiến khởi đầu bằng luồn
sâu quan hệ sản xuất vào trong lòng xã hội phong kiến làm tan rã quan hệ kinh tế
phong kiến và cuối cùng bằng cuộc cách mạng chính trị đánh đổ sự thống trị của
giai cấp phong kiến. Cách mạng vô sản, do đặc điểm riêng là quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa khơng hình thành trong lịng xã hội tư bản, nên phải trước hết làm
cuộc cách mạng về chính trị “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy
14
chính quyền”. Tiếp đó, sử dụng bộ máy chính quyền nhà nước để tổ chức xây dựng
nền kinh tế với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ
sản xuất mới phù hợp. C.Mác và Ph.Ăngghen nêu rõ: “Giai cấp vô sản sẽ dùng sự
thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai
cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức
là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị và để tăng thật
nhanh số lượng những lực lượng sản xuất”.
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi (7-11-1917) mở ra thời đại của cách
mạng XHCN và xây dựng CNXH. Nước Nga khi đó cịn ở tình trạng lạc hậu so với
các nước tư bản châu Âu. Muốn bảo đảm cho thắng lợi của CNXH, V.I.Lênin và
Đảng Bơnsêvích nhận thức rõ vai trị của Nhà nước Xơ viết trong việc thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển để tạo ra năng suất lao động cao. Trong tác phẩm Sáng
kiến vĩ đại (6-1919), V.I.Lênin nêu rõ: “Xét đến cùng, thì năng suất lao động là cái
quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới. Chủ nghĩa tư
bản đã tạo ra một năng suất lao động chưa từng thấy dưới chế độ nông nô. Chủ
nghĩa tư bản có thể bị đánh bại hẳn, và sẽ bị đánh bại hẳn, vì chủ nghĩa xã hội tạo
ra một năng suất lao động mới, cao hơn nhiều. Đó là sự nghiệp rất khó khăn và rất
lâu dài, nhưng sự nghiệp đó đã bắt đầu và đây là điều chủ yếu”.
Lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga và từ 30-121922 ở Liên Xô, V.I.Lênin đặc biệt chú trọng vai trò của lực lượng sản xuất, phát
triển đại cơng nghiệp. Đó là thời kỳ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ hai
với vai trò của điện năng. V.I.Lênin từng nêu khẩu hiệu: Chủ nghĩa cộng sản bằng
chính quyền Xơ viết cộng với điện khí hóa tồn quốc. Trong lực lượng sản xuất
phải đặc biệt chú ý vai trị của con người. Vì vậy, phải không ngừng học tập, đào
tạo con người mà ngày nay ta gọi là xây dựng nguồn nhân lực. Xây dựng CNXH,
theo V.I.Lênin phải dựa trên học vấn cao. Những người đang tạo dựng xã hội mới
15
“Họ phải hiểu rằng điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn
hiện đại và nếu họ khơng có nền học vấn đó, thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là một
nguyện vọng mà thôi”.
Lực lượng xây dựng CNXH là những người lao động, cơng nhân, nơng dân,
trí thức phải được giáo dục, đào tạo trở thành những người có học vấn tạo ra năng
suất lao động và hiệu quả công việc. Đảng tiền phong lãnh đạo tức những người
cộng sản, theo V.I.Lênin, phải biết làm giàu trí tuệ của mình bằng tổng số những tri
thức mà nhân loại đã tạo ra. Quá trình xây dựng CNXH ở Liên Xô hơn 70 năm
(1917-1991) với đường lối cơng nghiệp hóa và phát triển khoa học, kỹ thuật của
Đảng Cộng sản đã tạo ra được lực lượng sản xuất rất phát triển không thua kém
nhiều so với các nước tư bản đã trải qua mấy thế kỷ xây dựng. Liên Xô cùng với
Mỹ là hai siêu cường của thế giới, không chỉ ở sức mạnh quân sự mà cịn ở trình
độ phát triển của khoa học, công nghệ. Ở các nước XHCN khác cũng đã coi trọng
phát triển lực lượng sản xuất bao gồm cả khoa học, cơng nghệ và đào tạo nguồn
nhân lực.
2.2. Q trình nhận thức và vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tại Việt
Nam
Ở Việt Nam, sau khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH (1954),
Đại hội III của Đảng (9-1960) đã đề ra đường lối cách mạng XHCN mà nội dung
chủ yếu là tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất;
cách mạng khoa học, kỹ thuật; cách mạng tư tưởng, văn hóa; trong đó cách mạng
khoa học, kỹ thuật là then chốt; coi công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời kỳ quá độ.
Việt Nam và các nước XHCN trước đây khi bắt đầu nhiệm vụ của thời kỳ
quá độ lên CNXH đều tập trung vào xây dựng quan hệ sản xuất XHCN mà vấn đề
16
hàng đầu là xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, thiết lập chế độ công hữu
dưới hai hình thức quốc doanh (nhà nước) và tập thể. Tiếp đó là xác lập cơ chế kế
hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, quản lý tập trung trong tay Nhà nước, hạn chế yếu
tố thị trường tự do; thực hiện chế độ phân phối theo lao động mà thực chất là phân
phối bình quân, bao cấp. Các yếu tố (nội dung) đó của quan hệ sản xuất dần dần
bộc lộ sự hạn chế, nhất là không tạo ra động lực cho sự phát triển, khơng có sự
sáng tạo. Có thể thấy rõ điểm nghẽn của sự phát triển ở chính quan hệ sản xuất với
nhiều yếu tố khơng hợp lý. Vấn đề xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đã
không được nhận thức đúng. Các nước XHCN đều xóa bỏ ngay lập tức chế độ sở
hữu tư nhân và coi công hữu về tư liệu sản xuất là thước đo trình độ và là bản chất
của CNXH.
Cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX. Các nước XHCN
lâm vào khủng hoảng, trì trệ về phát triển kinh tế dẫn tới sự bất ổn chính trị ở một
số nước. Việt Nam cũng rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội từ năm 1979. Yêu
cầu khách quan là phải tìm con đường đổi mới. Trải qua khảo nghiệm thực tiễn kết
hợp với nhận thức lại các quy luật khách quan của thời kỳ quá độ, Đại hội VI Đảng
(12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới các chính sách
kinh tế. Đường lối đổi mới dựa trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận và tổng kết thực
tiễn mấy chục năm xây dựng CNXH ở Việt Nam, với tinh thần nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, tự phê bình nghiêm túc về căn bệnh chủ
quan, duy ý chí, nóng vội, nhận thức và hành động một cách giản đơn và cả căn
bệnh bảo thủ, trì trệ, giáo điều. Đại hội VI đã nêu ra những bài học cần thiết, trong
đó có bài học: “Đảng phải ln ln xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều
kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”.
17
Có nhiều quy luật của thời kỳ quá độ chưa được nhận thức và vận dụng đúng
đắn, không thúc đẩy mà còn tác động tiêu cực đến sự phát triển, trong đó có quy
luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Trong khi lực lượng sản xuất còn rất kém phát triển do điểm xuất phát của
Việt Nam ở trình độ rất thấp, lại tập trung xây dựng hoàn thiện quan hệ sản xuất ở
trình độ cao, muốn dùng quan hệ sản xuất tiên tiến để mở đường cho lực lượng sản
xuất phát triển. Đó là nhận thức và hành động khơng đúng, nếu khơng nói là làm
trái quy luật.
Đại hội VI chủ trương thực hiện nhất quán, lâu dài, chính sách phát triển
nhiều thành phần kinh tế, trong đó có cả kinh tế tư bản tư nhân, cá thể, tiểu chủ,
thừa nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân. Đó là sự điều chỉnh rất quan trọng về quan
hệ sản xuất. Yếu tố đi quá xa chính là tuyệt đối hóa và chỉ thừa nhận chế độ cơng
hữu về tư liệu sản xuất, không thừa nhận sở hữu tư nhân trước đó. Trong sự nghiệp
đổi mới từ năm 1986 đến nay, Đảng lấy nhiệm vụ phát triển kinh tế làm trung tâm.
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Có rất nhiều quy luật, đặc
trưng, đặc điểm các mối quan hệ của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp
tục được nhận thức và xử lý trong thực tế dựa trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng
kết thực tiễn. Quy luật và cũng là quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất vẫn là vấn đề cơ bản chỉ đạo trong khi đề ra các chính sách kinh tế.
Đảng và Nhà nước tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất theo
đường lối cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa được đề ra từ Nghị quyết Trung ương 7
khóa VII (1994), và từ 1996, Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ đề ra cho chặng
đường đầu tiên chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Đặt chiến lược phát triển khoa học và công nghệ, chiến lược giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu tại Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (1996). Lực
18
lượng sản xuất đã phát triển đáng kể và đang phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Việc phát triển công nghệ
thông tin và nhất là ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, đẩy
mạnh hội nhập quốc tế, cho phép phát triển lực lượng sản xuất với quy mô lớn,
chất lượng, hiệu quả cao hơn.
Khi phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, điều tất yếu đặt ra là xây dựng,
hoàn thiện quan hệ sản xuất như thế nào cho phù hợp cả về sở hữu, quản lý và
phân phối. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được thông qua tại Đại hội VII (6-1991) đã nêu ra mơ hình CNXH ở Việt Nam
với 6 đặc trưng. Cương lĩnh 2011 nhấn mạnh việc nắm vững và giải quyết tốt các
mối quan hệ lớn, trong đó có quan hệ “giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”. Đại hội XII của
Đảng (1-2016) tiếp tục nhấn mạnh các mối quan hệ lớn, làm rõ quan hệ “giữa nhà
nước và thị trường”, tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản
xuất và xây dựng hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất. Khẳng định các thành
phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế vốn đầu tư
nước ngồi (FDI). Trong các thành phần kinh tế đó, kinh tế nhà nước là chủ đạo.
Hội nghị Trung ương 5 khóa XII ban hành Nghị quyết về phát triển kinh tế
tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân gắn liền với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Năm 2019, kinh tế tư nhân đóng góp trên 42% tổng GDP của cả nước và sẽ ngày
càng tăng lên (kinh tế nhà nước khoảng 28 GDP). Vai trò quản lý của Nhà nước với
kinh tế tư nhân như thế nào để bảo đảm đúng định hướng XHCN. Về lý luận và
thực tiễn cần thiết phải làm rõ quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Trong quan hệ sản xuất, vấn đề chế độ quản lý trong
từng doanh nghiệp và vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước là vấn đề lớn cả về
19
lý luận và thực tiễn. Mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường cũng là một nội
dung cần làm sáng tỏ trong quan hệ sản xuất.
Chương 3
THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG LÝ LUẬN
VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ
SẢN XUẤT TẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TỚI
3.1. Thành tựu trong vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tại Việt Nam
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong 35 năm qua nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng, phát trển
đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; trong đó có thành tựu quan trọng về nhận
thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Càng ngày chúng ta càng nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn quan hệ
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sự phù hợp và mâu thuẫn
giữa chúng trong từng giai đoạn phát triển. Về đặc trưng kinh tế trong xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đã chuyển từ “có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ
yếu” (Cương lĩnh năm 1991) sang “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (Cương lĩnh bổ sung, phát
triển năm 2011). Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển lực lượng
sản xuất, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Khơng ngừng hồn thiện chủ trương
20
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân
phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành
quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác, cạnh tranh lành mạnh cùng thắng.
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nêu ra
quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi
lên chủ nghĩa xã hội, với nhiều chế độ sở hữu. Đây là dấu mốc quan trọng trong
quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về con đường và phương pháp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; đồng thời,
đã đặt cơ sở, nền tảng quan trọng để các nhân tố mới ra đời, tạo tiền đề để từng
bước phát triển nền kinh tế của đất nước.
Nhìn tổng thể trong 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng, phát triển đất
nước. Trong đó, có thành tựu về nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta. Hơn nữa,
trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập quốc tế, việc nhanh chóng phát triển lực
lượng sản xuất đi đơi với từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất để phát triển kinh
tế - xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế đang là một yêu cầu cấp thiết.
Đảng và Nhà nước ta đã, đang và sẽ phải tiếp tục thống nhất nhận thức về kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ
theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đồng thời, bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; xây dựng nền kinh tế thị
trường hiện đại và chủ động hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Xác lập nền kinh
21
tế Việt nam “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền
kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh
theo pháp luật”(5); thị trường đóng vai trị chủ yếu trong huy động và phân bổ hiệu
quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các
nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp
với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện
thể chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử
dụng các cơng cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và
điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai
trị làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng và phát triển
bền vững đất nước.
Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất” cho
quan hệ sản xuất mới. Tiếp tục thực hiện đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế; đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn với phát triển kinh tế tri
thức, kinh tế số nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hố
dịch vụ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ
ngoại lực, tiếp thu những thành tựu về khoa học và công nghệ hiện đại trong điều
của cuộc cách mạng 4.0. Xây dựng, hồn thiện luật pháp và chính sách kinh tế để
kiến tạo sự phát triển bền vững. Đào tạo nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, nhất
là trong bộ máy quản lý, quản trị nhà nước. Đổi mới thể chế nhằm tăng cường hiệu
lực thực thi pháp luật và chính sách; phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ
cương trong toàn xã hội.
22
Có thể khẳng định cơng cuộc đổi mới là q trình chúng ta ngày càng nhận
thức và vận dụng đúng đắn hơn quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và
luật pháp nhằm đa dạng hóa các hình thức của quan hệ sản xuất để khuyến khích,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, giải phóng mọi tiềm năng của sản xuất, tạo
thêm động lực cho người lao động. Đó là những chính sách, pháp luật liên quan
đến đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của kinh tế nhà nước, nhất là doanh
nghiệp nhà nước, đến việc củng cố và phát triển kinh tế tập thể, đến phát huy vai
trò động lực của kinh tế tư nhân, thu hút mạnh mẽ và phát huy hiệu quả của kinh tế
có vốn đầu tư nước ngồi, nâng cao chất lượng và hiệu quả cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước, phát triển kinh tế hỗn hợp...trong quá trình phát triển nền kinh tế.
Đảng và Nhà nước cũng đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật để hoàn
thiện các mặt của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa về sở
hữu, tổ chức - quản lý và phân phối. Đã ban hành Luật Đất đai (sửa đổi năm 2013),
quy định về sở hữu và đại diện chủ sở hữu, phân định quyền của người sở hữu,
quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong
lĩnh vực kinh tế; xác định vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước thông qua định
hướng, điều tiết, kế hoạch, quy hoạch, chiến lược, chính sách, chương trình phát
triển và các lực lượng vật chất. Thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân phối
theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn, trí tuệ
và các nguồn lực khác và phân phối thơng qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã
hội, chăm lo đời sống của người lao động.
Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, biện pháp về đầu tư để xây dựng kết
cấu hạ tầng đồng bộ với một số cơng trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao
thông và hạ tầng đô thị lớn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
23
hóa, hiện đại hóa; phát triển một số ngành cơng nghiệp cơ khí, đóng tàu, vận tải,
khai thác vật liệu, xây dựng, chế biến; ứng dụng những thành tựu khoa học - công
nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông tin; phát triển nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao... Thực hiện đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức, kinh tế số, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng
hóa dịch vụ.
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ
ngoại lực, tiếp thu những thành tựu về khoa học - công nghệ, về kinh tế tri thức,
văn minh của thế giới; kinh nghiệm quốc tế... để phát triển, hiện đại hóa lực lượng
sản xuất và củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Trong những năm đổi mới,
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để tăng cường,
mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ song phương và tổ chức đa phương,
như ASEAN, APEC, ASEM, WTO..., thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài
(FDI, ODA...), xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường xuất nhập
khẩu, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa
học - cơng nghệ, trình độ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Việt Nam đã thiết lập
quan hệ ngoại giao với 187 nước, quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư với hơn
220 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký trên 90 hiệp định thương mại, đầu tư.
3.2. Hạn chế trong vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tại Việt Nam
Tuy nhiên, trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất trong thời gian qua bên cạnh những thành tựu đạt được,
chúng ta cũng phải thấy rằng, cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, xuất hiện
những mâu thuẫn mới, sự không phù hợp mới giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, làm cản trở sự phát triển của cả lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản
24
xuất. Mặc dù đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nước có thu
nhập trung bình thấp, song thực chất vẫn là nước nghèo, kinh tế còn lạc hậu, nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với thế giới và khu vực ngày càng lớn. Mục tiêu
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
chưa thể đạt được. Hiện nay các ngành cơng nghiệp cơ khí, chế tạo, chế tác, phụ
trợ... còn kém phát triển, chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong GDP. Năng suất lao động, hiệu
quả, chất lượng, sức cạnh tranh thấp, yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) thấp. Lực
lượng sản xuất yếu kém sẽ tác động tới quy định trình độ, chất lượng của quan hệ
sản xuất.
Khu vực kinh tế tập thể còn nhỏ bé, nhiều hợp tác xã trong nơng nghiệp
mang tính hình thức, chỉ làm khâu dịch vụ đầu vào và đầu ra của sản xuất, quỹ
không chia trong hợp tác xã rất thấp, trình độ khoa học - cơng nghệ, quy mơ và
trình độ quản lý kinh tế yếu kém. Khu vực kinh tế tư nhân được xác định là một
động lực quan trọng của nền kinh tế, đóng góp nhiều vào tăng trưởng GDP và giải
quyết việc làm cho người lao động. Song, các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là
doanh nghiệp nhỏ và vừa nên gặp nhiều bất lợi về cạnh tranh, nguồn vốn và cả bị
phân biệt đối xử trong thực tế do cơ chế, chính sách. Tiềm năng của kinh tế tư nhân
rất lớn nhưng chưa được tạo điều kiện để phát triển mạnh và đóng góp nhiều hơn
cho xã hội.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế quan trọng
trong đóng góp vào tăng trưởng GDP, thu hút nguồn lao động. Theo báo cáo của
Tổng cục Thống kê, tổng vốn đầu tư nước ngồi vào Việt Nam tính đến 20/12/2019
bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ
phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 38 tỷ USD, tăng 7,2 % so với năm 2018. Tuy
nhiên, khu vực này cũng có những hạn chế như: đầu tư vào các lĩnh vực có cơng
nghệ cao, cơng nghệ nguồn cịn ít, phần lớn cịn là cơng nghệ trung bình, thậm chí
25