Tải bản đầy đủ (.pdf) (252 trang)

Trách nhiệm bồi thường của tổ chức hành nghề công chứng khi giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (33.95 MB, 252 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ HỒNG OANH

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG
KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ ĐƯỢC CÔNG CHỨNG
BỊ TUYÊN BỐ VÔ HIỆU

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG
KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ ĐƯỢC CÔNG CHỨNG
BỊ TUYÊN BỐ VÔ HIỆU
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380103

Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS Lê Minh Hùng
Học viên
: Nguyễn Thị Hồng Oanh
Lớp


: Cao học Luật, Phú n Khố 1

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan rằng tồn bộ nội dung luận văn “Trách nhiệm bồi thường
của tổ chức hành nghề công chứng khi giao dịch dân sự được công chứng bị
tuyên bố vô hiệu” là kết quả của quá trình tổng hợp và nghiên cứu của bản thân tơi,
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS Lê Minh Hùng. Những phần sử dụng tài
liệu tham khảo trong luận văn đã được nêu rõ trong phần trích dẫn tài liệu tham
khảo. Các bản án, thông tin được nêu trong luận văn là trung thực và hồn tồn
chính xác, đúng sự thật.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hoàng Oanh


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT

TỪ ĐƯỢC VIẾT TẮT

1

BLDS

Bộ luật dân sự

2


BTTH

Bồi thường thiệt hại

3

CCV

Công chứng viên

4

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

5

TAND

Tịa án nhân dân

6

TCHNCC

Tổ chức hành nghề cơng chứng

7


TNDS

Trách nhiệm dân sự

8

VPCC

Văn phịng cơng chứng

STT


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA
TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ ĐƯỢC
CÔNG CHỨNG BỊ TUYÊN BỐ VƠ HIỆU .......................................................... 8
1.1. Việc cơng chứng sai quy định pháp luật làm cho giao dịch dân sự vô
hiệu, gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác .. 9
1.1.1. Việc công chứng sai quy định pháp luật làm cho giao dịch dân sự được
công chứng bị tuyên bố vô hiệu........................................................................... 9
1.1.2. Giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu gây thiệt hại cho
người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác ........................................ 16
1.2. Có lỗi của công chứng viên, nhân viên, người phiên dịch là cộng tác viên
của tổ chức hành nghề công chứng .................................................................. 24
1.2.1. Lỗi của công chứng viên ......................................................................... 25
1.2.2. Lỗi của nhân viên, người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức hành
nghề công chứng ............................................................................................... 28

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 33
CHƯƠNG 2. XÁC ĐỊNH MỨC BỒI THƯỜNG VÀ NGƯỜI CHỊU TRÁCH
NHIỆM BỒI THƯỜNG KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ ĐƯỢC CÔNG CHỨNG
BỊ TUYÊN BỐ VÔ HIỆU ..................................................................................... 34
2.1. Xác định mức bồi thường của tổ chức hành nghề công chứng khi giao
dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu .......................................... 34
2.1.1. Trường hợp bồi thường toàn bộ .............................................................. 34
2.1.2. Trường hợp bồi thường một phần ........................................................... 35
2.2. Người chịu trách nhiệm bồi thường khi giao dịch dân sự được cơng
chứng bị tun bố vơ hiệu ................................................................................. 36
2.2.1. Có căn cứ xác định tổ chức hành nghề công chứng là bên có trách nhiệm
bồi thường ......................................................................................................... 37
2.2.2. Trách nhiệm hồn lại của cơng chứng viên, nhân viên, người phiên dịch
là cộng tác viên của tổ chức hành nghề công chứng ......................................... 41
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 45
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, các giao dịch dân sự mà
đối tượng giao dịch là đất đai, nhà ở, liên quan đến bất động sản ngày càng nhiều.
Theo quy định của BLDS năm 2015, Luật Đất đai năm 2013, Luật Nhà ở năm 2014
thì hầu hết các giao dịch dân sự mà đối tượng là đất đai, nhà ở, liên quan đến bất
động sản cần phải được cơng chứng. Thực tiễn có khơng ít giao dịch dân sự được
cơng chứng bị Tịa án tun bố vô hiệu. Và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vơ
hiệu là “Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường”1. Như vậy, khi hợp đồng, giao

dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu có thể đặt ra trách nhiệm BTTH
đối với TCHNCC.
Luật Cơng chứng năm 2014 quy định công chứng là việc công chứng viên của
một TCHNCC chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự
bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức
tự nguyện yêu cầu công chứng2. Điều 17 Luật Công chứng năm 2014 quy định quyền
và nghĩa vụ của CCV, trong đó tại điểm g, điểm k khoản 2 quy định CCV chịu trách
nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về văn bản cơng chứng của
mình và các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm
pháp luật khác có liên quan. Bên cạnh đó, tại Điều 38 Luật Công chứng năm 2014
cũng quy định về bồi thường, bồi hồn trong hoạt động cơng chứng. Theo đó, (1)
TCHNCC phải BTTH cho người u cầu cơng chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi
mà CCV, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra
trong q trình cơng chứng; (2) CCV, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác
viên gây thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền cho TCHNCC đã chi trả khoản tiền
bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp khơng
hồn trả thì TCHNCC có quyền u cầu Tịa án giải quyết.
Như vậy, BLDS năm 2015 và Luật Công chứng năm 2014 đã quy định mang
tính nguyên tắc về trách nhiệm BTTH của TCHNCC khi giao dịch dân sự được
cơng chứng bị vơ hiệu. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề pháp lý được đặt ra trong vấn đề
bồi thường của TCHNCC như khi nào thì phát sinh trách nhiệm bồi thường của
TCHNCC, nội dung bồi thường như thế nào, mức bồi thường và việc hoàn trả của
1
2

Khoản 4 Điều 131 BLDS năm 2015.
Khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014.


2

CCV như thế nào cho TCHNCC sau khi bồi thường. Thực tiễn xét xử có Tịa đề cập
đến trách nhiệm BTTH của TCHNCC, tuy nhiên chưa xác định rõ căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường, chủ thể được bồi thường là người yêu cầu công chứng hay
bên thứ ba trong giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu.
Xuất phát từ những những lý do trên, tác giả nghiên cứu các quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành để làm rõ nội dung liên quan đến “Trách nhiệm bồi
thường của tổ chức hành nghề công chứng khi giao dịch dân sự được công chứng bị
tuyên bố vô hiệu” với mong muốn góp phần hồn thiện các vấn đề về lý luận và
thực tiễn đối với quy định này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu xảy ra khá nhiều
trong thực tiễn xét xử hiện nay, đã đặt ra vấn đề là phải xác định rõ TNDS mà cụ
thể là trách nhiệm BTTH của TCHNCC, đây là nội dung quan trọng để giải quyết
hậu quả pháp lý khi giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu. Qua tìm hiểu các quy định
pháp luật cũng như thực tiễn xét xử cho thấy “Trách nhiệm bồi thường của tổ chức
hành nghề công chứng khi giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu”
là một nội dung khá phức tạp trong pháp luật dân sự Việt Nam, đến nay đã có một
số cơng trình nghiên cứu với các cấp độ khác nhau, trong đó, các cơng trình nổi bật
có thể kể đến như:
* Về giáo trình
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Pháp luật
về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, NXB Hồng Đức - Hội luật gia
Việt Nam. Giáo trình đã trình bày các vấn đề cơ bản liên quan đến trách nhiệm
BTTH như: khái niệm và đặc điểm TNDS, các loại TNDS… làm nền tảng lý luận
để tác giả nghiên cứu đề tài này.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam
(tập 2), NXB Công an nhân dân, Hà Nội. Giáo trình phân tích các vấn đề lý luận
chung và các trường hợp cụ thể về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng về phương
diện lý luận (Chương X), nhưng chưa đi sâu phân tích các vấn đề có liên quan đến
trách nhiệm BTTH của TCHNCC khi giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên

bố vô hiệu.
* Về sách chuyên khảo, bình luận khoa học, tài liệu tham khảo khác
- Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân
sự năm 2015, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam. Cơng trình khoa học này


3
giới thiệu và bình luận chuyên sâu những điểm mới của BLDS năm 2015 so với
BLDS năm 2005, theo đó có những điểm mới trong các quy định chung về giao
dịch dân sự, hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu; TNDS; căn cứ làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường, nguyên tắc BTTH cũng như năng lực BTTH và những
điểm mới có liên quan đến những trường hợp bồi thường cụ thể. Đây là cơ sở
hướng dẫn tác giả nghiên cứu pháp luật thực định khi nghiên cứu và giải quyết
vấn đề của đề tài.
- Đỗ Văn Đại (xuất bản lần thứ tư), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng Việt Nam bản án và bình luận bản án, tập 1 và 2, NXB Hồng Đức - Hội Luật
gia Việt Nam. Thơng qua bình luận các bản án, tác giả Đỗ Văn Đại đã chỉ ra
những khó khăn, vướng mắc khi giải quyết BTTH do công chứng viên gây ra,
phân tích các khía cạnh pháp lý của vấn đề BTTH ngồi hợp đồng, có đối chiếu so
sánh với pháp luật nước ngoài để làm sáng tỏ sự thuyết phục hay khơng thuyết
phục khi áp dụng pháp luật BTTH ngồi hợp đồng ở Việt Nam. Tác giả đã có
những phân tích, bình luận về căn cứ áp dụng pháp luật, điều kiện phát sinh trách
nhiệm BTTH do CCV gây ra, đối chiếu, so sánh với pháp luật nước ngoài. Tuy
nhiên, tác giả Đỗ Văn Đại chủ yếu đi sâu vào phân tích trách nhiệm bồi thường do
CCV gây ra đối với người thứ ba, chứ khơng phân tích trách nhiệm bồi thường của
CCV đối với người yêu cầu công chứng, đồng thời cũng chưa đi sâu phân tích làm
rõ bản chất pháp lý quan hệ BTTH do công chứng viên gây ra trong hoạt động
cơng chứng. Chính vì vậy, đề tài sẽ có những nghiên cứu bổ sung thêm về những
vấn đề còn chưa được nghiên cứu.
- Lê Minh Hùng (2015), Hình thức của hợp đồng, NXB Hồng Đức - Hội

Luật gia Việt Nam: Sách chuyên khảo đặc biệt chỉ riêng duy nhất một vấn đề về
hình thức của hợp đồng, với sự chuyên sâu về nội dung liên quan tới các hình thức
của hợp đồng theo quy định của pháp luật nói chung và các trường hợp hợp đồng
phải tn thủ theo quy định về hình thức cơng chứng, chứng thực nói riêng, chỉ ra
những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về vấn đề hình thức bắt buộc của
hợp đồng, xử lý hậu quả pháp lý khi hợp đồng vi phạm về hình thức luật định.
Sách cơng bố trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực và khơng có nội dung liên
quan tới trách nhiệm của TCHNCC khi công chứng các hợp đồng không đúng quy
định của pháp luật, dẫn tới bị tuyên bố vô hiệu. Luận văn của tác giả nghiên cứu
chuyên biệt vấn đề trách nhiệm của tổ chức công chứng khi hợp đồng có cơng
chứng bị tun bố vơ hiệu, nên khơng trùng lặp với nội dung của quyển sách,


4
nhưng các nội dung liên quan tới lý do pháp luật quy định hợp đồng phải tuân theo
hình thức “bắt buộc”, căn cứ tuyên bố hợp đồng vô hiệu, xử lý hậu quả khi hợp
đồng bị tuyên bố vô hiệu nói chung trong sách này là tiền đề lý luận và những gợi
ý rất quan trọng để tác giả hoàn thành việc nghiên cứu đề tài luận văn của mình.
- Tuấn Đạo Thanh (2013), Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm dân sự
trong hoạt động công chứng, NXB Tư pháp, Hà Nội. Tác giả Tuấn Đạo Thanh đã
có những phân tích, luận giải về trách nhiệm BTTH của CCV, của TCHNCC trên
cơ sở quy định của pháp luật, từ đó đã có những đề xuất kiến nghị nhằm hồn thiện
các quy định của pháp luật về vấn đề BTTH của CCV, TCHNCC. Mặc dù đã phát
hiện được hầu hết các vấn đề vướng mắc, bất cập về vấn đề TNDS của hoạt động
công chứng trong các quy định pháp luật hiện hành, nhưng tác giả Tuấn Đạo Thanh
cũng mới chỉ nghiên cứu về mặt lý luận mà khơng có những thực tiễn về bồi thường
của CCV, của TCHNCC nên tính thuyết phục chưa cao.
* Một số luận văn cao học nghiên cứu các đề tài có liên quan đến vấn đề
này như:
- Luận văn Thạc sĩ - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về “Tổ

chức và hoạt động của TCHNCC (từ thực tiễn Tiền Giang và Bến Tre)” của tác
giả Bùi Thị Ngọc Điệp (năm 2011). Tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý
luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của TCHNCC ở
Việt Nam; cung cấp một số cơ sở thực tiễn để ngành Tư pháp và cơ quan có thẩm
quyền ở các tỉnh, thành phố nói chung, tỉnh Tiền Giang và Bến Tre nói riêng định
hướng xây dựng quy hoạch phát triển TCHNCC, tạo điều kiện thuận lợi cho các
Phịng Cơng chứng và Văn phịng Cơng chứng cạnh tranh lành mạnh và hoạt động
có hiệu quả.
- Luận văn Thạc sĩ - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh về “Bồi
thường thiệt hại do công chứng viên gây ra trong hoạt động công chứng” của tác
giả Đỗ Quốc Dũng (năm 2016). Tác giả Đỗ Quốc Dũng tập trung nghiên cứu những
vấn đề cơ bản về BTTH do CCV gây ra trong hoạt động công chứng, đưa ra luận cứ
khoa học để xác định bản chất pháp lý của vấn đề BTTH do CCV gây ra. Phân tích
cơ sở pháp lý và thực tiễn giải quyết BTTH, điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH
của CCV. Giúp nắm bắt và hiểu được các quy định của pháp luật về BTTH do CCV
gây ra một cách hệ thống... Những vấn đề được nêu trong luận văn của tác giả Đỗ
Quốc Dũng có giá trị tham khảo, bổ sung cho tác giả khi nghiên cứu về vấn đề mà
đề tài đã giải quyết.


5
* Các bài viết của nhiều tác giả khác nhau được đăng trên các tạp chí
khoa học pháp lý chuyên ngành
- Đỗ Văn Đại (2011), “Bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra”,
Nghiên cứu lập pháp, (14), tr.44-52. Tác giả Đỗ Văn Đại đã phân tích cơ sở pháp
lý, giải quyết BTTH và điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do cơng chứng viên
gây ra. Từ đó, tác giả cho rằng khi giải quyết yêu cầu BTTH do CCV gây ra cần
phân biệt người bị thiệt hại là người yêu cầu công chứng hay không yêu cầu công
chứng và tuỳ trường hợp thì áp dụng Luật Cơng chứng năm 2006 hay BLDS và
không nên áp dụng Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước để tạo sự công bằng

giữa các cơng chứng viên của Phịng cơng chứng và Văn phịng cơng chứng. Tác
giả Đỗ Văn Đại chưa phân tích sâu về xác định thiệt hại do CCV gây ra trong hoạt
động công chứng, hơn nữa Luật Công chứng năm 2014 đã có sự điều chỉnh về vấn
đề BTTH cho nên bài viết vẫn còn những vấn đề tồn tại nhất định.
- Hoàng Thị Hải Yến (2012), “Bàn về khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự
ngoài hợp đồng” đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân (7). Tác giả phân tích về khái
niệm lỗi, các yếu tố của lỗi được quy định trong pháp luật nước ngoài và pháp luật
Việt Nam. Đây là một trong những điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do
TCHNCC gây ra, cần được lưu tâm trong việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
Các cơng trình nghiên cứu trên chỉ chủ yếu tập trung về vấn đề BTTH ngồi
hợp đồng nói chung, về vấn đề nghiên cứu trách nhiệm liên đới mới chỉ dừng lại ở
khía cạnh nghiên cứu mang tính chất tổng thể, chỉ ra những vấn đề chung nhất.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài “Trách nhiệm bồi thường của tổ chức hành nghề công chứng khi giao
dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu” được nghiên cứu nhằm góp phần
làm sáng tỏ những quy định về trách nhiệm bồi thường của TCHNCC và các bên có
lỗi trong giao dịch dân sự. Trong đề tài luận văn thạc sĩ này, tác giả sẽ làm rõ thêm
những vấn đề có liên quan, từ đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các
quy định của pháp luật trong vấn đề Luận văn đang nghiên cứu, bảo đảm cho việc
nhận thức và áp dụng các quy định một cách thống nhất trong thực tiễn.
Tác giả nghiên cứu đề tài này để làm rõ những vấn đề sau:
- Căn cứ làm phát sinh TNDS cụ thể là trách nhiệm BTTH của TCHNCC khi
giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu.
- Xác định nội dung của trách nhiệm, phạm vi BTTH đối với TCHNCC khi
giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu.


6
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng
pháp luật về trách nhiệm BTTH của TCHNCC khi giao dịch dân sự được công
chứng bị tuyên bố vô hiệu.
- Làm rõ các nội dung pháp lý quan trọng về căn cứ phát sinh trách nhiệm đối
với TCHNCC và nội dung, phạm vi của trách nhiệm khi giao dịch dân sự được công
chứng bị tuyên bố vô hiệu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trách nhiệm BTTH là một loại TNDS và chịu sự điều chỉnh của pháp luật
dân sự. Trong thực tiễn xét xử, xác định TNDS của TCHNCC khi giao dịch dân sự
bị tun bố vơ hiệu là trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng do CCV gây ra trong hoạt
động công chứng. Do đó, Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu vấn đề trách nhiệm
BTTH của TCHNCC được thành lập theo quy định của Luật Công chứng năm 2014
khi giao dịch dân sự được CCV thuộc TCHNCC này công chứng bị tun bố vơ
hiệu. Trách nhiệm đó được quy định như thế nào trong pháp luật thực định, từ đó
đối chiếu với thực tiễn xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm
ở Việt Nam. Đề tài không nghiên cứu so sánh với pháp luật nước ngồi.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong q trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng để xác định nền tảng cho lý luận nhận thức liên quan
đến đề tài. Bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu chính được tác giả sử dụng là
phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp so sánh. Phương pháp phân tích,
tổng hợp được sử dụng chung cho cả luận văn; phương pháp so sánh là giúp cho
người đọc có cách nhìn tổng quát, rõ ràng về nội dung của đề tài và các nội dung
liên quan. Tác giả áp dụng khi nghiên cứu, đánh giá pháp luật thực định và so sánh
những điểm mới của BLDS năm 2015 với BLDS năm 2005, Luật Công chứng năm
2014 chủ yếu sử dụng ở phần đầu của các chương 1, 2.
Bên cạnh đó, phương pháp khảo sát thực tiễn, phương pháp bình luận án sử
dụng chủ yếu ở phần cuối các chương 1, 2 khi đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật,
bình luận các bản án trong thực tiễn,... để từ đó đưa ra định hướng nhằm hoàn thiện
và áp dụng thống nhất pháp luật.

Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng một số phương pháp khác như: quy nạp, thống
kê các phương pháp này đều được vận dụng một cách linh hoạt, góp phần đảm bảo


7
về lý luận và thực tiễn trong xuyên suốt quá trình nghiên cứu của đề tài. Phương
pháp khảo sát thực tiễn và phương pháp logic pháp lý được sử dụng để phân tích
các bất cập của pháp luật về trách nhiệm BTTH của TCHNCC khi giao dịch dân sự
được công chứng bị tun bố vơ hiệu, từ đó đưa ra kiến nghị.
6. Bố cục luận văn
Ngoài mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phần mở đầu, phần kết luận, bố
cục luận văn được chia thành 02 (hai) chương:
- Chương 1: Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường của tổ chức hành
nghề công chứng khi giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu.
- Chương 2: Xác định mức bồi thường và người chịu trách nhiệm bồi thường
khi giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu.


8
CHƯƠNG 1
ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ
ĐƯỢC CÔNG CHỨNG BỊ TUYÊN BỐ VÔ HIỆU
Trong khoa học pháp lý và thực tiễn xét xử, khi xác định trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng để xác định trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại, thì phải
căn cứ vào các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường. Điều kiện phát sinh trách
nhiệm BTTH nói chung được quy định tại Điều 584 BLDS năm 2015, bao gồm 03
căn cứ: (i) có thiệt hại thực tế; (ii) việc gây thiệt hại không phụ thuộc trường hợp
được pháp luật cho phép hoặc hồn tồn do lỗi của bên có quyền; (iii) có quan hệ
nhân quả giữa việc gây thiệt hại với thiệt hại thực tế. Và BTTH của TCHNCC khi

giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu cũng cần đáp ứng các điều kiện trên.
Theo quy định của BLDS năm 2015 thì “căn cứ làm phát sinh trách nhiệm
BTTH do người gây ra chỉ cần tồn tại yếu tố có thiệt hại xảy ra trên thực tế, có
hành vi trái pháp luật (xâm phạm tới lợi ích của người khác mà không thuộc trường
hợp không chịu trách nhiệm bồi thường) và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
trái pháp luật và thiệt hại thực tế xảy ra thì đã làm phát sinh trách nhiệm BTTH,
không cần xem xét người gây thiệt hại có lỗi hay khơng có lỗi”3.
Theo quy định của Luật Cơng chứng năm 2014 thì TCHNCC phải BTTH
trong các trường hợp: “do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch
là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong q trình cơng chứng”4; “vi phạm
quy định của Luật này thì bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại phải bồi
thường theo quy định của pháp luật”5; “không đủ điều kiện hành nghề công chứng
mà hành nghề công chứng dưới bất kỳ hình thức nào thì phải chấm dứt hành vi vi
phạm, bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật”6. Qua đó có thể đánh giá trách nhiệm BTTH của TCHNCC
phát sinh khi: (1) Việc công chứng sai quy định làm cho giao dịch dân sự được công
chứng bị tuyên bố vô hiệu dẫn đến thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá
nhân, tổ chức khác; (2) Có lỗi của cơng chứng viên, nhân viên, người phiên dịch là
cộng tác viên của TCHNCC.
Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015, (Sách chuyên khảo, xuất
bản lần thứ 2, có bổ sung), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.475.
4
Điều 38 Luật Công chứng năm 2014.
5
Điều 72 Luật Công chứng năm 2014.
6
Điều 74 Luật Công chứng năm 2014.
3



9
1.1. Việc công chứng sai quy định pháp luật làm cho giao dịch dân sự vô
hiệu, gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác
1.1.1. Việc công chứng sai quy định pháp luật làm cho giao dịch dân sự được
công chứng bị tuyên bố vô hiệu
Xác định việc công chứng là không đúng quy định của pháp luật phải xác định
từ hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật trong hoạt động công chứng là vi
phạm pháp luật về công chứng, bao gồm các quy định của pháp luật có liên quan đến
hình thức, nội dung giao dịch dân sự như: Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà
ở… hay quy trình tiếp nhận hồ sơ thực hiện cơng chứng hợp đồng, giao dịch được
quy định trong pháp luật của công chứng, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của CCV.
Điểm đ khoản 1 Điều 17 Luật Công chứng năm 2014 thừa nhận CCV có
quyền “được từ chối cơng chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch vi phạm pháp luật,
trái đạo đức xã hội”. Nếu thực hiện công chứng trong trường hợp này đồng nghĩa
với việc có căn cứ xác định việc công chứng là không đúng quy định của pháp luật.
Như vậy, những trường hợp nào là công chứng không đúng quy định của pháp luật.
Tác giả đưa ra các trường hợp sau:
(1) Trường hợp việc công chứng thuộc các hành vi bị cấm
Các trường hợp CCV không được công chứng theo điểm b, c khoản 1 Điều 7
Luật Công chứng năm 2014:
(i) Thực hiện công chứng trong trường hợp mục đích và nội dung của hợp
đồng, giao dịch, nội dung bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội; xúi giục,
tạo điều kiện cho người tham gia hợp đồng, giao dịch thực hiện giao dịch giả tạo hoặc
hành vi gian dối khác. BLDS năm 2015 quy định hợp đồng, giao dịch, bản dịch khi
có mục đích và nội dung trái pháp luật, trái đạo đức xã hội hay giả tạo thì dù trước
hay sau khi cơng chứng đều khơng có giá trị pháp lý. Các hành vi gian dối có thể đến
từ chính người u cầu cơng chứng mặc dù Luật Công chứng năm 2014 đã nghiêm
cấm theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 7: “người yêu cầu công chứng cung
cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; sử dụng giấy tờ văn bản giả mạo hoặc bị tẩy xóa,
sửa chữa trái pháp luật để yêu cầu công chứng” hay “người làm chứng, người phiên

dịch có hành vi gian dối, khơng trung thực”. Hay các hành vi gian dối cịn có thể có
sự tham gia của chính các CCV, do vậy Luật Cơng chứng năm 2014 quy định đây là
hành vi bị cấm nếu vi phạm, TCHNCC sẽ phải BTTH cho người yêu cầu công chứng
và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà CCV, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác
viên của tổ chức mình gây ra trong q trình cơng chứng.


10
(ii) Cơng chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch có liên quan đến tài sản, lợi
ích của bản thân mình hoặc của những người thân thích là vợ hoặc chồng; cha mẹ
đẻ, cha mẹ nuôi; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi của vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi, con
dâu, con rể; ông, bà; anh chị em ruột, anh chị em ruột của vợ hoặc chồng; cháu là
con của con đẻ, con nuôi. Trường hợp này sẽ không đảm bảo tính khách quan vì văn
bản được u cầu cơng chứng có nội dung liên quan đến quyền lợi của bản thân
CCV hoặc những người thân thích trong gia đình của CCV.
(2) Trường hợp công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn
Khoản 5, 6 Điều 40 Luật Công chứng năm 2014 quy định hai trường hợp
CCV có quyền từ chối cơng chứng:
(i) Trong trường hợp có căn cứ cho rằng trong hồ sơ u cầu cơng chứng có
vấn đề chưa rõ, việc giao kết hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép,
có sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng hoặc đối
tượng của hợp đồng, giao dịch chưa được mơ tả cụ thể thì CCV đề nghị người yêu
cầu công chứng làm rõ hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, CCV tiến
hành xác minh hoặc yêu cầu giám định; trường hợp không làm rõ được thì có quyền
từ chối cơng chứng. Hồ sơ yêu cầu công chứng bao gồm các giấy tờ, tài liệu liên
quan đến văn bản được yêu cầu công chứng, chính vì vậy, việc CCV xem xét các
giấy tờ này chính là đang đánh giá tính hợp pháp của văn bản được yêu cầu công
chứng. Nếu đánh giá không cẩn thận, khơng chính xác thì sẽ có rủi ro xảy ra.
(ii) CCV kiểm tra dự thảo hợp đồng, giao dịch; nếu trong dự thảo hợp đồng,
giao dịch có điều khoản vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội, đối tượng của hợp

đồng, giao dịch không phù hợp với quy định của pháp luật thì CCV phải chỉ rõ cho
người yêu cầu công chứng để sửa chữa. Trường hợp người u cầu cơng chứng
khơng sửa chữa thì CCV có quyền từ chối công chứng. Thực tế, các hợp đồng, giao
dịch đã được soạn thảo sẵn có thể được soạn bởi nhiều chủ thể, không tránh khỏi
trường hợp người soạn thảo thiếu kiến thức pháp luật, thiếu trình độ chun mơn.
CCV qua quá trình kiểm tra sẽ phát hiện và hỗ trợ người yêu cầu công chứng sửa
đổi, bổ sung các vấn đề này và CCV có quyền từ chối cơng chứng nếu người yêu
cầu công chứng không làm rõ các nghi vấn có liên quan.
(3) Trường hợp cơng chứng di chúc
Khoản 2 Điều 56 Luật Công chứng năm 2014 quy định:
(i) Trường hợp CCV nghi ngờ người lập di chúc bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình hoặc có căn


11
cứ cho rằng việc lập di chúc có dấu hiệu bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép thì CCV
đề nghị người lập di chúc làm rõ, trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ
chối cơng chứng di chúc đó.
(ii) Trường hợp tính mạng người lập di chúc bị đe dọa thì người u cầu cơng
chứng khơng phải xuất trình đầy đủ giấy tờ trong hồ sơ yêu cầu công chứng nhưng
phải ghi rõ trong văn bản công chứng, gồm:
- Phiếu yêu cầu công chứng;
- Dự thảo hợp đồng, giao dịch;
- Bản sao giấy tờ tùy thân của người yêu cầu công chứng;
- Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ
thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký
quyền sở hữu, quyền sử dụng trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan đến
tài sản đó;
- Bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy
định phải có.

Thực tế hiện nay, việc để lại di chúc khá phổ biến và thường liên quan đến
những tài sản có giá trị lớn. Tuy nhiên khơng phải di chúc nào cũng được công nhận
là hợp pháp, đặc biệt là trường hợp người thừa kế lợi dụng quy định này để làm giả
di chúc nhằm mục đích chiếm đoạt phần tài sản. Một bản di chúc hợp pháp là bản di
chúc được lập tại thời điểm mà người để lại di chúc minh mẫn sáng suốt, việc lập di
chúc và phân chia di sản theo ý chí của họ không bị lừa dối hay bị ai cưỡng ép. Nội
dung di chúc không trái quy định của pháp luật và đạo đức xã hội và bảo đảm đúng
về hình thức của di chúc. Chính vì thế, khi nghi ngờ tính hợp pháp của di chúc,
CCV phải đề nghị người lập di chúc làm rõ nếu không làm rõ được thì có quyền từ
chối cơng chứng di chúc đó bởi khi di chúc bị giả mạo không chỉ ảnh hưởng đến
bản thân người lập di chúc mà còn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
các đồng thừa kế còn lại, gây áp lực lên ngành Tòa án khi phải giải quyết các tranh
chấp thừa kế phát sinh.
(4) Trường hợp công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản
Khoản 3 Điều 57 Luật Công chứng năm 2014 quy định CCV phải kiểm tra để
xác định người để lại di sản đúng là người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài
sản và những người yêu cầu công chứng đúng là người được hưởng di sản; nếu thấy
chưa rõ hoặc có căn cứ cho rằng việc để lại di sản và hưởng di sản là không đúng
pháp luật thì từ chối u cầu cơng chứng hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công


12
chứng, CCV tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định. TCHNCC có trách nhiệm
niêm yết việc thụ lý cơng chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản trước khi thực
hiện việc công chứng.
Văn bản thỏa thuận phân chia di sản đã được công chứng là một trong các
căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc chuyển quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu tài sản cho người được hưởng di sản. Chính vì thế, CCV phải có trách
nhiệm làm rõ tính hợp pháp của loại văn bản này, ví dụ: trường hợp thừa kế theo
pháp luật, thì trong hồ sơ u cầu cơng chứng phải có giấy tờ chứng minh quan hệ

giữa người để lại di sản và người được hưởng di sản theo quy định của pháp luật về
thừa kế. trường hợp thừa kế theo di chúc thì phải có bản sao di chúc, các giấy tờ
chứng minh được hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (giấy
chứng nhận kết hôn, khai sinh, giấy chứng nhận mất khả năng lao động (nếu có)…
(5) Trường hợp cơng chứng bản dịch
Khoản 4 Điều 61 Luật Công chứng năm 2014 quy định CCV không được
nhận và công chứng bản dịch trong các trường hợp CCV biết hoặc phải biết bản
chính được cấp sai thẩm quyền hoặc khơng hợp lệ; bản chính giả; giấy tờ, văn bản
được yêu cầu dịch đã bị tẩy xoá, sửa chữa, thêm, bớt hoặc bị hư hỏng, cũ nát không
thể xác định rõ nội dung; giấy tờ, văn bản được yêu cầu dịch thuộc bí mật nhà nước;
giấy tờ, văn bản bị cấm phổ biến theo quy định của pháp luật. Và khoản 3 Điều 61
Luật Công chứng năm 2014 quy định lời chứng của CCV đối với bản dịch phải ghi
rõ thời điểm, địa điểm công chứng, họ tên CCV, tên TCHNCC; họ tên người phiên
dịch; chứng nhận chữ ký trong bản dịch đúng là chữ ký của người phiên dịch;
chứng nhận nội dung bản dịch là chính xác, khơng vi phạm pháp luật, khơng trái
đạo đức xã hội; có chữ ký của CCV và đóng dấu của TCHNCC. Như vậy, nội dung
của điều luật này đưa ra trách nhiệm của CCV phải đảm bảo nội dung bản dịch là
chính xác, khơng vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Luật Công chứng năm 2014 đã có quy định rõ ràng về các trường hợp từ chối
công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội
theo quy định của pháp luật. Nếu hoạt động công chứng nào rơi vào các hành vi
trong các trường hợp nêu trên được xem là có căn cứ xác định việc cơng chứng là
không đúng quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử còn khá lúng túng trong việc xác định hành vi của
CCV trong trường hợp người yêu cầu công chứng sử dụng giấy tờ, tài liệu giả mạo.
Hiện nay, việc làm giấy tờ giả ngày càng tinh vi, rất khó phát hiện bằng mắt thường,


13
gây khó khăn cho CCV trong thực hiện hoạt động công chứng. Mặc dù, cơ sở dữ

liệu công chứng đã được triển khai thực hiện trên cả nước, là công cụ hỗ trợ CCV
trong việc phát hiện các giấy tờ, tài liệu giả mạo, sai lệch sự thật; tuy nhiên, một số
địa phương chưa đủ điều kiện áp dụng hoặc đã thực hiện nhưng chưa liên kết với cơ
sở dữ liệu hộ tịch, đăng ký giao dịch bảo đảm,… dẫn đến nhiều hệ lụy khi có sai
phạm xảy ra.
Tình huống thứ nhất: Ngày 21/6/2019, Phịng Cơng chứng X tiếp nhận yêu
cầu chứng nhận hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất căn
nhà số 247 đường T, phường M, quận N, Thành phố Hồ Chí Minh7. Tịa án cấp sơ
thẩm chấp nhận u cầu của ơng Nguyễn Phước H, bà Đặng Thị Kim O tuyên bố
hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với căn nhà trên
được ký giữa ông H, bà O do bà Trần Phượng L đại diện theo ủy quyền (theo hợp
đồng ủy quyền số công chứng 846 ngày 31/05/2019 tại VPCC L) với ông Phạm
Văn T là vơ hiệu.
Tịa án cấp phúc thẩm nhận định: Căn nhà số 247 đường T, phường M, quận
N, Thành phố Hồ chí Minh thuộc quyền sở hữu của ơng Nguyễn Phước H và bà
Đặng Thị Kim O khi chào bán nhà đã bị đối tượng không rõ thân nhân lai lịch đánh
tráo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, sau đó các đối
tượng giả chữ ký tên và viết tên chủ sở hữu là ông H và bà O ủy quyền cho bà Trần
Phượng L theo hợp đồng ủy quyền trên. Sau đó bà L dùng hợp đồng ủy quyền này
bán căn nhà trên cho ông T theo hợp đồng mua bán này 21/6/2019 tại Phịng Cơng
chứng X. Xét hợp đồng ủy quyền, chủ sở hữu là ông H, bà O không ủy quyền cho bà
L, chữ ký, chữ viết tên trong hợp đồng ủy quyền không phải của ông H và bà O (Thể
hiện tại bản kết luận giám định số 1369/KLGĐ ngày 14/8/2019 của Phịng Kỹ thuật
Hình sự Cơng an Thành phố Hồ Chí Minh). Theo quy định tại Điều 123, 131 BLDS
năm 2015, hợp đồng ủy quyền này vô hiệu do vi phạm điều cấm. Vì hợp đồng ủy
quyền vơ hiệu nên hợp đồng mua bán nhà cũng vô hiệu theo. Phịng Cơng chứng X,
Thành phố Hồ Chí Minh khơng có lỗi khi cơng chứng hợp đồng mua bán nhà.
Tồ án cấp phúc thẩm nhận định Phịng Cơng chứng X khơng có lỗi nhưng
hành vi cơng chứng của CCV có được xem là không đúng quy định của pháp luật hay
khơng? Theo tác giả, trong trường hợp này, CCV có thể từ chối cơng chứng hợp đồng

nếu nhận thấy có dấu hiệu vi phạm. Mặc dù Luật Công chứng năm 2014 quy định có
Bản án dân sự phúc thẩm số 233/2021/DS-PT ngày 16/3/2021 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu
tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
7


14
căn cứ xác định việc công chứng là không đúng quy định của pháp luật nếu rơi vào
trường hợp này. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ hành vi này để xác định trách nhiệm
BTTH của TCHNCC là chưa phù hợp. Bởi vì, có trường hợp xuất phát từ lý do giấy
tờ, tài liệu được làm giả quá tinh vi, cũng có trường hợp CCV thiếu kỹ năng, trách
nhiệm trong việc nhận định, xem xét các tài liệu, giấy tờ kèm theo hồ sơ công chứng,
dẫn đến hợp đồng công chứng bị tuyên bố vô hiệu. Nếu đưa ra một cách giải quyết
chung cho các trường hợp có thể xảy ra là không đảm bảo công bằng cho TCHNCC
cũng như quyền lợi của bên bị thiệt hại. Để hạn chế rủi ro xảy ra trong những tình
huống tương tự cho CCV và TCHNCC cũng như để công tác xét xử được dễ dàng và
giảm thiểu tình trạng làm giả giấy tờ, tài liệu, tác giả kiến nghị như sau:
Kiến nghị thứ nhất: Luật Công chứng năm 2014 nên quy định cụ thể trường
hợp CCV “thấy rõ” hoặc “không thấy rõ” các dấu hiệu giấy tờ giả mạo, làm sai
lệch, sửa chữa trái pháp luật,…. Tác giả đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm
b khoản 2 Điều 7 Luật Công chứng theo hướng: “người yêu cầu công chứng cung
cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; sử dụng giấy tờ văn bản giả mạo hoặc bị tẩy xóa,
sửa chữa trái pháp luật để yêu cầu công chứng trừ trường hợp các dấu hiệu giả
mạo trên giấy tờ, tài liệu quá tinh vi, bằng mắt thường không thể nhận biết được”.
Đồng thời, để tăng sức răn đe, hạn chế những rủi ro xảy ra trong hoạt động
công chứng và tạo hành lang pháp lý an tồn, Chính phủ cần quy định rõ trường hợp
nào cá nhân, tổ chức có hành vi sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản do cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp để được công chứng hợp đồng, giao dịch để
từ đó người có thẩm quyền căn cứ thực hiện việc xử phạt vi phạm hành chính trên
thực tế. Nghị định số 82/2020/NĐ-CP cần giải thích cụ thể thế nào là “sửa chữa làm

sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp để
được công chứng hợp đồng, giao dịch mà không bị truy cứu trách nhiệm hình
sự” nhằm phân định rõ ràng giữa xử phạt hành chính và xử lý hình sự.
Tình huống thứ hai: Ông Tài khởi kiện yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng
vô hiệu đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên bán là vợ
chồng ông Tài và bà Phương bên mua là vợ chồng ơng Tình và bà Lan, hợp đồng
được cơng chứng ngày tại Phịng cơng chứng số 2 tỉnh Đăk Lăk với lý do ông
không biết về hợp đồng này, không ký hay điểm chỉ vào hợp đồng8. Tòa án cấp sơ
thẩm khơng chấp nhận tồn bộ u cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Tài về việc
8

Quyết định giám đốc thẩm số 02/2021/DS-GĐT ngày 04/02/2021 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng.


15
yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu. Tịa án cấp phúc thẩm khơng chấp
nhận nội dung đơn kháng cáo của ông Tài. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm nêu
trên. Tại Quyết định giám đốc thẩm, Tịa án quyết định khơng chấp quyết định
kháng nghị, giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm với nhận định: Xét thấy, Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13/3/2014 vi phạm cả về nội dung và
hình thức. Vì, hợp đồng có 02 tờ, 03 trang nhưng khơng có chữ ký của người
chuyển nhượng là ông Tài, bà Phương tại trang 1 và trang 2 của hợp đồng là vi
phạm khoản 6 Điều 35 Luật công chứng năm 2006 “… Trường hợp người u cầu
cơng chứng đồng ý tồn bộ nội dung trong dự thảo hợp đồng, giao dịch thì ký vào
từng trang của hợp đồng, giao dịch …”. Phịng kỹ thuật hình sự Cơng an tỉnh Đăk
Lăk, kết luận: “Chữ ký, chữ viết mang tên ơng Hồng Văn Tài dưới mục “Bên A,
bên chuyển nhượng” ở trang 3 trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
(ký hiệu A1) so với chữ ký, chữ viết đứng tên Hoàng Văn Tài trong các tài liệu mẫu
so sánh ký hiệu M1, M2, M3, M4 là không phải do cùng một người ký ra”. Bà
Phương thừa nhận chữ ký trong hợp đồng là của bà. Chứng cứ có trong hồ sơ vụ án

là chi trả số tiền nêu trên, trả quỹ tín dụng nợ chung 490 triệu đồng, trả nợ cũ bà
Lan 470 triệu đồng, bà Phương nhận lại số tiền 130 triệu đồng.
Như vậy, tuy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13/3/2014
chỉ có bà Phương ký hợp đồng chuyển nhượng cho ơng Tình, bà Lan; vợ chồng bà
Lan đã giao đủ tiền chuyển nhượng cho bà Phương; ơng Tài có biết nhưng khơng
phản đối. Tịa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm, Ủy ban Thẩm phán TAND
cấp cao tại Đà Nẵng áp dụng Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 để khơng chấp
nhận u cầu địi nhà của ơng Tài đối với bà Lan, ơng Tình là có cơ sở.
Tác giả thấy rằng, Án lệ số 04/2016/AL là cơ sở để áp dụng pháp luật tương
tự, tuy nhiên, tình huống trên CCV vẫn có những sai sót khi cơng chứng hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhưng do văn bản công chứng không vô hiệu
nên không phát sinh trách nhiệm BTTH của TCHNCC. Mặc dù ông Tài biết mà
không phản đối, nhưng về mặt pháp lý vẫn có sự sai sót trong hoạt động cơng
chứng. Để hạn chế sự vô hiệu của hợp đồng công chứng, TAND tối cao đã có án lệ
số 04/2016/AL nhằm thống nhất trong công tác xét xử, nhưng nếu hợp đồng có q
nhiều sai sót thì nên xem xét lại có nên áp dụng án lệ hay khơng. Án lệ là cơ sở
quan trọng để áp dụng tương tự pháp luật, nhưng theo quan điểm của tác giả, vẫn có
những ngoại lệ, bất cập nếu áp dụng án lệ một cách cứng nhắc mà khơng xem xét
một cách tồn diện về nội dung và hình thức của hợp đồng.


16
1.1.2. Giao dịch dân sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu gây thiệt hại
cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác
1.1.2.1. Xác định thiệt hại thực tế
Trong các trường hợp có căn cứ xác định việc công chứng là không đúng quy
định của pháp luật và gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức
khác sẽ phát sinh trách nhiệm BTTH của TCHNCC. Văn bản cơng chứng bị Tịa án
tun bố vơ hiệu thì coi như văn bản đó chưa từng tồn tại, làm chấm dứt hiệu lực, giá
trị pháp lý của văn bản công chứng. Nếu văn bản cơng chứng bị tun bố vơ hiệu (vơ

hiệu về hình thức dẫn đến vơ hiệu về nội dung) thì hệ quả pháp lý khi giao dịch dân
sự vô hiệu là các bên khơi phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã
nhận. Trường hợp khơng thể hồn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hồn
trả9. Và nếu có thiệt hại xảy ra trên thực tế liên quan đến giao dịch dân sự được cơng
chứng vơ hiệu thì sẽ dẫn đến vấn đề bồi thường cho người bị thiệt hại.
Để đặt ra trách nhiệm bồi thường của chủ thể gây thiệt hại khi giao dịch dân
sự được công chứng bị tuyên bố vô hiệu thì cần xác định: (1) Có hành vi trái pháp
luật, Luật Công chứng năm 2014 quy định “TCHNCC phải BTTH cho người yêu
cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên
hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong q trình
cơng chứng”10, với quy định này của Luật Cơng chứng thì trách nhiệm BTTH của
TCHNCC là “Trách nhiệm BTTH do người gây ra”11; (2) Có thiệt hại và (3) Mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại.
Khoản 1 Điều 585 BLDS năm 2015 đã khắc phục những hạn chế của quy định
cũ bằng việc bổ sung thêm từ “thực tế” vào sau cụm từ “thiệt hại” để tạo thành
nguyên tắc: “Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời....”. Với việc
xác định loại thiệt hại được bồi thường là “thiệt hại thực tế”, BLDS năm 2015 đã xác
định rõ hơn loại thiệt hại được bồi thường so với quy định của BLDS năm 2005.
Theo quy định của BLDS năm 2015, thiệt hại gồm: thiệt hại về vật chất và
thiệt hại về tinh thần. Theo đó, thiệt hại về vật chất là sự mất mát hoặc giảm sút về
một lợi ích vật chất được pháp luật bảo vệ, thiệt hại về vật chất có thể tính tốn
thành một số tiền nhất định; thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại phải
chịu đau thương, buồn phiền, mất mát tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín, tín
Khoản 2 Điều 131 BLDS năm 2015.
Khoản 1 Điều 38 Luật Công chứng năm 2014.
11
Đỗ Văn Đại, tlđd (3), tr 474.
9


10


17
nhiệm, lòng tin và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ
phải chịu. Như vậy, thiệt hại phải là sự tổn thất, mất mát về tài sản và các giá trị
nhân thân được pháp luật bảo vệ, muốn xác định được thiệt hại chúng ta phải có hai
hồn cảnh khác nhau để so sánh, một hoàn cảnh trước khi bị thiệt hại và một hồn
cảnh sau khi bị thiệt hại và do đó “nếu hồn cảnh thứ hai khơng bằng hồn cảnh thứ
nhất thì người bị xâm phạm có thiệt hại”12. Hiện nay, cịn có quan điểm khác nhau
về thiệt hại do CCV gây ra trong hoạt động công chứng, quan điểm thứ nhất cho
rằng chỉ có thiệt hại về vật chất, quan điểm thứ hai cho rằng có thiệt hại vật chất và
có thiệt hại về tinh thần13. Vậy CCV gây ra thiệt hại trong hoạt động cơng chứng có
tồn tại thiệt hại do tổn thất về tinh thần hay khơng? Có quan điểm cho rằng “thiệt
hại gây ra cho người yêu cầu cơng chứng hồn tồn có thể là những thiệt hại về tinh
thần, nhất là khi CCV công chứng những hợp đồng, giao dịch có liên quan tới quan
hệ nhân thân (ví dụ như cơng chứng di chúc)”. Quan điểm này dựa trên cơ sở khái
niệm thiệt hại về tinh thần trong từ điển luật học, đó là sự tổn thất về danh dự, uy
tín, nhân phẩm hoặc sự suy sụp về tâm lý tình cảm của cá nhân14.
Tác giả nhận thấy, trong hoạt động nghề nghiệp, CCV chứng nhận các giao
dịch mà đối tượng chủ yếu liên quan đến tài sản của người tham gia giao dịch nên
thiệt hại do CCV gây ra là hầu hết là thiệt hại về tài sản. Lẽ dĩ nhiên là bất cứ sự
thiệt hại nào cũng gây ra những tổn thất về tinh thần nhất định cho người bị thiệt
hại, như lo nghĩ, buồn phiền,…Tuy nhiên, chỉ được xem là tổn thất về tinh thần nếu
hành vi gây thiệt hại xâm phạm trực tiếp đến sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tính mạng của người bị thiệt hại15. Theo quan điểm của tác giả, thiệt hại do CCV
gây ra trong hoạt động công chứng là thiệt hại về vật chất, khơng có căn cứ pháp lý
để tính thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong BTTH do giao dịch dân sự tuyên bố
vô hiệu gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác.
Điều 589 BLDS 2015 quy định trong trường hợp tài sản bị xâm phạm thì

thiệt hại được bồi thường bao gồm: (1) tài sản bị mất, (2) tài sản bị huỷ hoại hoặc bị
hư hỏng, (3) lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, (4) chi phí hợp lý để
ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại. Tài sản bị mất, hư hỏng, bị hủy hoại phải
là những tài sản trực tiếp bị thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật gây ra thì mới
Đỗ Văn Đại, tlđd (3), tr.30.
Tuấn Đạo Thanh (2013), Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm dân sự trong hoạt động công chứng,
NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.31.
14
Tuấn Đạo Thanh (2013), tlđd (13), tr.30.
15
Khoản 2 Điều 131 BLDS năm 2015.
12
13


18
được bồi thường, “những mất mát, hư hỏng tài sản gián tiếp thì khơng được tính để
bồi thường”16.
* Thiệt hại trong trường hợp tài sản bị mất
Công chứng là hoạt động mang tính đặc thù, nó khơng tác động trực tiếp đến
tài sản mà chỉ tác động đến tính pháp lý của tài sản. Vì vậy, sẽ khơng có thiệt hại do
tài sản bị hư hỏng, huỷ hoại mà chỉ có thiệt hại trong trường hợp tài sản bị mất.
Tài sản bị mất có thể là khoản tiền chênh lệch giá trị thật theo giá thị trường
với giá hai bên chuyển nhượng như trong tình huống dưới đây.
Tình huống thứ ba: Ngày 17/02/2014, vợ chồng bà Nga và vợ chồng bà
Phương Hà lập hợp đồng mua bán nhà ở quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng tại
Phịng Cơng chứng số 2, thành phố Đà Nẵng. Ngày 29/10/2014, bà Hà và ông Trần
Huy Nhựt có lập hợp đồng mua bán nhà tại địa chỉ nói trên và được VPCC Ngọc
Yến cơng chứng. Ngày 03/11/2014, vợ chồng ông Trần Huy Nhựt thế chấp quyền
sử dụng đất trên tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP Quân đội tại thành phố Đà Nẵng

và được Phòng Cơng chứng số 2, thành phố Đà Nẵng cơng chứng17.
Tịa án cấp sơ thẩm tuyên 03 hợp đồng trên vô hiệu, buộc vợ chồng ơng
Cường, bà Nga có nghĩa vụ trả cho bà Hà số tiền 7 tỷ đồng và tiền lãi theo mức lãi
suất cơ bản là 1 tỷ 848 triệu đồng, tổng cộng 8 tỷ 848 triệu đồng. Buộc bà Hà trả
cho ông Nhựt số tiền nhận chuyển nhượng nhà đất 16 tỷ đồng và BTTH
8.469.870.920 đồng, tổng cộng 24.469.870.920 đồng. Buộc VPCC Ngọc Yến phải
bồi thường cho ông Nhựt số tiền 3.629.944.680 đồng. Buộc ông Nhựt trả tồn bộ
nhà ở cho vợ chồng ơng Cường, bà Nga. Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án
sơ thẩm với nhận định: bà Hà có hành vi đe dọa ép buộc vợ chồng ông Cường trong
việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất nên
Tòa án cấp sơ thẩm xác định hợp đồng này vơ hiệu là có cơ sở. Xét hợp đồng
chuyển nhượng giữa bà Hà và ông Nhựt và hợp đồng thế chấp của ông Nhựt với
Ngân hàng vô hiệu là có căn cứ vì hợp đồng chuyển nhượng trước đó giữa bà Hà và
vợ chồng ơng Cường đã vô hiệu và trước khi VPCC Ngọc Yến chứng nhận, bà Nga
đã gửi đơn đề nghị ngăn chặn việc chuyển dịch bất động sản.
Trong một tình huống tương tự, Tịa án lại không theo hướng căn cứ giá trị
chênh lệch giữa giá hợp đồng và giá thị trường để tính mức BTTH.
Hồng Thế Liên (chủ biên) (2013), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005, tập II, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr.724.
17
Bản án dân sự số 73/2017/DSPT ngày 13/9/2017 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về việc yêu cầu hủy hợp
đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dung đất ở; yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp tài sản.
16


19
Tình huống thứ tư: Tại bản án xét xử phúc thẩm của TAND Thành phố Hồ Chí
Minh, Ơng S đã khởi kiện VPCC N vì cho rằng CCV đã khơng thực hiện đúng quy
định nên đã để cho ông S (bên mua) ký hợp đồng mua nhà đất với vợ chồng ông M,
bà V (giả) tại VPCC N, đồng thời yêu cầu bồi thường cho ông số tiền 600 triệu đồng

là số tiền mà ông đã trả cho ông M, bà V (giả). Tòa án đã tuyên bố hợp đồng mua bán
nêu trên là vô hiệu do bị lừa dối theo yêu cầu của ông M, bà V (thật) do người ký hợp
đồng mua bán với ông S là giả mạo, không phải chủ sở hữu thật của nhà đất. VPCC
N đã thỏa thuận với ông S bồi thường cho ông số tiền là 400 triệu đồng nhằm giải
quyết dứt điểm vụ việc. Ông S đã đồng ý với thỏa thuận trên, cuối cùng Tòa phúc
thẩm đã tuyên VPCC N bồi thường cho ông S số tiền 400 triệu đồng18.
Các bên thỏa thuận mức bồi thường trên cơ sở thiệt hại từ số tiền thực hiện
hợp đồng mà không căn cứ theo giá trị chênh lệch giữa giá thị trường và giá
chuyển nhượng như trong tình huống thứ ba. Tình huống thứ ba, Tịa án xác định
VPCC Ngọc Yến có lỗi và phải chịu trách nhiệm BTTH cho ông Nhựt tiền chênh
lệch giữa giá nhận chuyển nhượng là 16 tỷ với giá trị nhà đất mà ông nhận chuyển
nhượng theo giá thị trường được định giá là 28.023.263.888 đồng theo tỷ lệ 30%
với số tiền 3.629.944.680 đồng, còn lại bà Hà phải chịu 70% với số tiền là
8.496.870.920 đồng. Tuy nhiên, việc Tòa án xác định tỷ lệ bồi thường của VPCC
Ngọc Yến và bà Hà là mang tính cảm tính và định lượng, khơng có cơ sở để xác
định tỷ lệ này. Vấn đề này tác giả sẽ phân tích và làm rõ tại Chương 2 của luận
văn. Tác giả thấy rằng cách xác định thiệt hại thực tế của các Tòa để làm căn cứ
BTTH là phù hợp với từng trường hợp cụ thể, đảm bảo giải quyết quyền lợi tốt
nhất cho người bị thiệt hại.
Tài sản bị mất là thiệt hại của người được nhận thừa kế không được hưởng
suất thừa kế khi phân chia di sản, đã được Tịa án chấp nhận u cầu bồi thường.
Tình huống thứ năm: Liên quan đến tranh chấp yêu cầu tuyên bố Văn bản
công chứng vô hiệu và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất19. Tòa án nhận định:
việc bà Y ký và điểm chỉ thay cho các con là chị H, chị Tr, chị Ph tại Văn bản khai
nhận di sản thừa kế và Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế khi không được
sự đồng ý và khơng có văn bản ủy quyền của các con là xâm phạm đến quyền thừa
kế của H, chị Tr, chị Ph theo quy định tại các Điều 631, 632 BLDS năm 2005. Mặt
khác, căn cứ lời khai của các đương sự và giấy khai sinh thì ơng Trần Ngọc N và bà
18
19


Bản án số 523/2018/DS-PT ngày 25/5/2018 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.
Bản án dân sự số 05/2019/DS-PT ngày 08/01/2019 của TAND cấp cao tại Thành phố Hà Nội.


20
Đỗ Thị Y có bốn người con, trong đó có cháu Trần Thị Q, sinh năm 2003. Tuy
nhiên, Văn bản khai nhận di sản thừa kế và Văn bản thỏa thuận phân chia di sản
thừa kế chỉ ghi ba người con, không ghi tên cháu Q cũng là người được quyền thừa
kế là xâm phạm đến quyền lợi về tài sản của cháu Q. VPCC B biết rõ chị H, chị Tr,
chị Ph là những người có quyền lợi liên quan đến việc khai nhận, phân chia di sản
thừa kế không trực tiếp ký vào văn bản nhưng vẫn công chứng là vi phạm quy định
tại các Điều 48, 52, 57 và 58 của Luật Cơng chứng. Do đó, Tịa đã buộc VPCC B và
bà Đỗ Thị Y thanh toán giá trị thừa kế bằng tiền cho các nguyên đơn.
Tác giả đồng quan điểm với cách xác định thiệt hại thực tế của Tịa án, khi
người nhận thừa kế khơng được hưởng suất thừa kế phân chia di sản thì tài sản bị
mất ở đây là giá trị tài sản được nhận thừa kế.
Bên cạnh đó, tài sản bị mất là khoản tiền đã đóng các khoản thuế thu nhập, lệ
phí trước bạ nhà đất đối với các giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi
giao dịch này được cơng chứng bị tun bố vơ hiệu được xác định.
Tình huống thứ sáu: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ở20. Thiệt hại được xác định bao gồm: Đối với yêu cầu của ông Nguyễn Văn T buộc
ông V, bà T, anh Đ liên đới bồi thường tiền nộp thuế thu nhập từ chuyển nhượng bất
động sản 7.511.000 đồng và tiền lệ phí trước bạ nhà đất 1.878.000 đồng, tổng cộng là
9.389.000 đồng. Xét thấy: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông V,
bà T với anh Đ là giao dịch dân sự vô hiệu, dẫn đến hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn T, ông Đặng Thế Đ và ông Đỗ Khắc H, bà Lưu
Thị Ngọc L ngay tình cũng bị vơ hiệu theo. Vì vậy, u cầu của ơng T là phù hợp với
thực tế và đúng theo quy định của pháp luật. Do ông Nguyễn Tuấn V được xác định
khơng có năng lực hành vi dân sự nên khơng phải chịu trách nhiệm về BTTH.

Hiện nay, người yêu cầu cơng chứng phải trả các khoản tiền gồm21: phí cơng
chứng, thù lao cơng chứng, chi phí khác. Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải
trả khi được tổ chức cá nhân khác cung cấp dịch vụ 22, theo quy định thì người u
cầu cơng chứng phải nộp phí cơng chứng gồm: phí cơng chứng hợp đồng, giao dịch,
bản dịch, phí lưu giữ di chúc, phí cấp bản sao văn bản cơng chứng23 và hiện nay phí
cơng chứng đối với giao dịch bất động sản là khá cao, do đó phí cơng chứng nhiều
trường hợp là một khoản tiền không hề nhỏ. Thù lao công chứng là khoản tiền mà
Bản án dân sự số 150/2017/DS-PT ngày 08/9/2017 của TAND Thành phố Hà Nội.
Điều 66, 67, 68 Luật công chứng 2014.
22
Khoản 1 Điều 3 Luật Phí và lệ phí năm 2015.
23
Khoản 1 Điều 66 Luật Công chứng năm 2014.
20
21


×