Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Không gian và thời gian hư ảo trong văn xuôi Việt Nam đương đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.73 KB, 5 trang )

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN HƯ ẢO
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
NGUYỄN TRỌNG HIẾU
Khoa Giáo dục, Trường Đại học Đồng Tháp
Email:
Tóm tắt: Văn xi Việt Nam đương đại, với hàng loạt vấn đề mới mẻ được đặt ra,
việc chọn nhiều tọa độ, nhiều góc nhìn khác nhau để có thể tham chiếu bổ sung cho
nhau thật sự là hướng nghiên cứu cần thiết. Tiếp cận văn xuôi Việt Nam đương đại
từ không gian và thời gian hư ảo có thể mở ra một đối thoại mới ở những miền nội
tâm uẩn khúc - đặc biệt khi gắn liền với xung động sáng tạo tinh thần này. Không
gian và thời gian được xây dựng trong văn xuôi Việt Nam đương đại chủ yếu là
không gian ảo - không gian từ trong giấc mơ, không gian kỳ ảo và khơng gian cõi
tâm linh.
Từ khóa: Đương đại, hư ảo, khơng gian, thời gian, văn học Việt Nam.

1. MỞ ĐẦU
Tiếp cận văn học Việt Nam từ 1986 đến nay, đặc biệt ở mảng văn xuôi, người đọc ngỡ
ngàng trước sự nở rộ của nhiều nhà văn tìm tịi và trải nghiệm. Hiện thực cuộc đời đã được tác
giả soi chiếu từ góc nhìn riêng, cách thể nghiệm riêng. Bức tranh tồn cảnh của đời sống như
động đậy, phập phồng trên trang viết. Đó cũng là lúc con người thực sự sống sâu với đời và
rung cảm với chính mình. Văn xi Việt Nam đương đại, với hàng loạt vấn đề mới mẻ được
đặt ra, việc chọn nhiều toạ độ, nhiều góc nhìn khác nhau để có thể tham chiếu bổ sung cho nhau
thật sự là hướng nghiên cứu cần thiết. Tiếp cận văn xuôi Việt Nam đương đại từ không gian và
thời gian hư ảo có thể mở ra một đối thoại mới ở những miền nội tâm uẩn khúc - đặc biệt khi
gắn liền với xung động sáng tạo tinh thần này.
Điều mà hai nhà phân tâm học Freud và Jung quan tâm khi nghiên cứu về tâm lý người
chủ yếu là vấn đề vơ thức. Đó là khám phá đầu tiên để chạm đến những vùng nhạy cảm khác


trong sâu thẳm tâm hồn người. Từ trong cõi vô thức và tâm linh, nhân vật khắc khoải giữa
những khoảng sâu hun hút của khơng gian và thời gian. Chính vì thế, không gian và thời gian
trong tác phẩm cũng mang đậm yếu tố vô thức, tâm linh như một dụng ý nghệ thuật. Không
gian và thời gian được xây dựng trong văn xuôi Việt Nam đương đại chủ yếu là không gian ảo
- không gian từ trong giấc mơ, không gian kỳ ảo và không gian cõi tâm linh.
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Nhân vật trong văn xuôi đương đại thường sống trong giấc mơ, và tắm mình trong cõi vơ
thức. Đó là nơi con người được thỏa sức sống với chính mình, khơng cần giấu mình trong vỏ bọc
của đạo đức. Trong cõi mộng ấy, không gian mộng tưởng thể hiện được ước mơ của con người.
Trong Giấc mơ trên đỉnh Ngựa Trắng của Trần Thùy Mai, không, thời gian giấc mơ thể
hiện đậm đặc. Từ đầu chí cuối, tác phẩm là sự đan xen liên hoàn kỳ lạ giữa không, thời gian
thực và không, thời gian giấc mơ, giữa quá khứ và thực tại. Quá khứ gắn với câu chuyện tình
cảm động giữa nàng Ly Ly - vợ của viên đại úy Pháp với người phiên dịch và thực tại của Ngọc
với Tuấn Anh, chàng hướng dẫn viên, nhân viên kiểm lâm, tác giả của những trang tiểu thuyết
còn dang dở về núi Ngựa Trắng. Ấn tượng về câu chuyện người đàn bà mất tích trong rừng sâu
mà Tuấn Anh đã kể cho Ngọc nghe hằng đêm lại hiện về trong giấc ngủ đầy mộng mị của cô.
Câu chuyện đã chuyển từ không, thời gian hiện thực sang không, thời gian giấc mơ: “Giấc mơ
21


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

khủng khiếp. Ban đầu, tơi nghe tiếng chó sủa dữ dội. Tơi khơng nhìn thấy con chó, nhưng tiếng
gầm gừ của nó rất rõ, rõ đến mức giờ đây tơi cịn hình dung được âm thanh sắc và chát chúa
như ở bên tai... lẫn trong tiếng chó tru, tơi nghe người thét lên, tiếng thét rất dài thê thảm. Rồi
tôi thấy rừng... rồi thấp thống tiếng chân người bước nhẹ ngồi hành lang... Nhưng chợt ngồi
kia chim hót... rất rõ ràng làm tôi tỉnh hẳn và nhận ra tiếng bước chân kia là những âm thanh
ảo. Và hình như đấy là dư vang của giấc mơ” [4, tr.79-80]. Tại sao giấc mơ của Ngọc lại trùng

khít với câu chuyện về người đàn bà mất tích trong đêm? Vì sao những trang tiểu thuyết của
Tuấn Anh và giấc mơ của Ngọc lại có sự gặp gỡ? Trần Thùy Mai khơng giải thích bởi dường
như chị ý thức được một điều: “Truyện ngắn hiện đại ln tìm cách hình thành cái bí ẩn và ít
có khả năng lý giải điều đó” và để vén bức màn bí mật trên, ta phải viện đến lý thuyết phân tâm
học. Theo Freud, giấc mơ ln có hình thức trá ngụy và thường là sự biến dạng của ham muốn
tính dục. Nhưng trong tác phẩm văn học, mở rộng ra có thể hiểu giấc mơ như là sự thỏa mãn
những ẩn ức trong đời sống tinh thần. Như vậy, giấc mơ của Ngọc là sự ánh chiếu những ham
muốn vô thức: biết tường tận về câu chuyện bí ẩn trên đỉnh Ngựa Trắng đêm nào, ham muốn
ấy được Ngọc đem vào cả giấc mơ và nhờ giấc mơ giải tỏa.
Bên cạnh kiểu không gian giấc mộng, trong văn xi Việt Nam đương đại, các nhà văn
cịn sử dụng khơng gian huyền ảo - khơng gian có sự đan xen giữa cõi thực và cõi mộng, đời
thường và thần thánh, ma quỷ. Trong khơng gian đó, con người và ma qi hịa vào nhau khơng
thể phân biệt. Hầu hết các nhà tiểu thuyết đương đại như Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn
Bình Phương, Nguyễn Đình Tú đều chịu ảnh hưởng bởi chủ nghĩa huyền ảo, tác phẩm của họ
luôn lồng ghép yếu tố ảo, xây dựng những không gian ảo như mặt trái của hiện thực, thể hiện
chiều sâu trong khám phá hiện thực và con người. Một thế giới đầy trăn trở, nhuốm màu sắc
của sự hoài nghi.
Trong SBC là săn bắt chuột của Hồ Anh Thái, ta bắt gặp kiểu không gian kỳ ảo. Ở đó,
thế giới chuột và người lồng ghép vào nhau trong hành trình tìm kiếm những giá trị. Khi con
người bị cuốn vào vịng xốy của cuộc sống, họ cũng chẳng khác gì cái giống chuột ngày đêm
rỉa xác người trong nhà xác, thậm chí họ cịn rỉa xác người sống! Hồ Anh Thái đã có dụng ý
khi đan cài hai không gian, một không gian thực với những bon chen, sa đọa của con người,
một không gian ảo với thế giới chuột thành tinh. Thế giới người đang tan rã, rệu rạo trong vịng
xốy của đồng tiền, địa vị và tham vọng, cuốn phăng những giá trị đạo đức, lương tri, chuẩn
mực. Không gian huyền ảo là phương diện nghệ thuật của văn chương kỳ ảo, thể hiện
một cõi người vừa nắm bắt, vừa không thể nắm bắt, thể hiện thế giới đa chiều trong
cõi tâm linh con người. Con người mn đời vẫn khát vọng khám phá những bí ẩn
của vũ trụ, khám phá cái hiện thực bất khả lý giải quanh mình nên cõi huyền ảo là
thế giới trong tưởng tượng, trong nhận thức mờ ảo của con người.
Trong tiểu thuyết Giã biệt bóng tối của Tạ Duy Anh, không gian ngập tràn yếu tố hoang

đường kỳ ảo. Làng Thổ Ô trở nên huyền ảo bởi sự xuất hiện của hồn ma lão ăn mày cùng với
những câu chuyện hoang đường không thể lý giải về cái chết và lời nguyền. “Người dân ở làng
Thổ Ơ đang vơ cùng hoảng loạn khi phải chứng kiến những sự kiện lạ lùng xảy ra liên tiếp
trong vịng có vài tuần lễ” [1, tr.15]. Cả khơng gian làng Thổ Ơ giờ hư hư thực thực ngập tràn
trong những ma quái, lời nguyền, chết chóc, phơi bày một hiện thực trần trụi về con người như
một bóng tối bao phủ lên mọi kiếp người…
Ở Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái, không gian trở nên huyền ảo với sứ
mệnh thanh trừng cái ác của Mai Trừng. Ranh giới giữa Thiện và Ác vốn mong manh, khi cái
Thiện thanh trừng cái Ác thì vơ tình bản thân nó cũng chạm phải ranh giới của cái Ác rồi.
Những cái chết tựa hồ không lý giải của ba chàng trai, những giấc mơ tìm mộ, rồi câu chuyện
22


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

về cái chuông chùa bỗng dưng biến mất... tất cả đều bàng bạc lên thế giới nghệ thuật của tác
phẩm màu sắc của huyền ảo, ly kỳ. Không gian kỳ ảo xuất hiện nhiều trong sáng tác của Nguyễn
Đình Tú như Nháp, tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương như Thoạt kỳ thủy, Ngồi, Những đứa trẻ
chết già... Dường như trong văn xi đương đại, các nhà văn đều có ý thức xây dựng kiểu không
gian kỳ ảo như một thủ pháp nghệ thuật nhằm mở rộng hiện thực phán ánh. Đó là hiện thực bên
trong hiện thực với rất nhiều vấn đề xã hội, là thế giới tâm hồn đầy phức tạp và bí ẩn. Ở đó,
khơng chỉ tồn tại thế giới người, một thế giới hỗn độn, lẫn lộn thần thánh, ma quỷ. Càng về phía
hiện đại, con người càng bám víu mình vào một thế giới hư ảo. Sự xuất hiện không gian kỳ ảo
trong văn xuôi hiện đại là tất yếu!
Ngồi ra, kiểu khơng gian tâm linh cũng xuất hiện khá nhiều. Văn học đương đại vốn quan
tâm đến con người tâm linh, nhất là khi bản thân con người cũng muốn tìm về cõi tâm linh như
điểm tựa, để xoa dịu những hoang mang, ngờ vực. Thế giới tâm linh bao giờ cũng gắn bó với
khơng gian thiêng nhuốm sắc màu tôn giáo và đức tin. Đó là khơng gian thực ghi dấu yếu tố tâm

linh như chùa chiền, nhà thờ, đền miếu... nơi con người gửi gắm một đức tin tuyệt đối về tơn giáo,
tín ngưỡng. Trong hầu hết các tác phẩm, không gian chùa chiền, đền miếu và cả khoảng không
gian ảo trong tâm linh của con người cũng được tác giả tái hiện với tần số cao.
Không gian tôn giáo xuất hiện khá nhiều trong tác phẩm Nguyễn Đình Tú. Đó
là khơng gian chùa Áng Sơn trong Hồ sơ một tử tù - nơi Bạch Đàn bắt đầu hành trình giác ngộ.
“Hắn bỗng nghe thấy tiếng chng. Ơi chao là cái tiếng chng chùa. Sao mà nó ảo não, thê
lương đến thế?” [6, tr.211]. Đó là khơng gian chùa Tử Tội - nơi đã khơi dậy phần Người trong
Đại, giúp Đại trở về trong sự phục sinh, tìm được ý nghĩa của cuộc đời. Con người hiện đại
thường nương mình vào cửa Phật, bởi đó là nơi mà lịng họ thực sự thanh thản. Tân trong Phiên
Bản sau những lần “thay trời hành đạo”, sau những chém giết, ân oán giang hồ cũng đã tìm đến
với Phật. Khơng phải ngẫu nhiên trong phịng Tân ln có một tượng Phật. Đó là nơi hướng
thiện của lòng người. Ở Phiên bản, nhân vật Diệu, thằng Chín Tháng lại sống trong niềm tin
mãnh liệt về Chúa, về Kinh Thánh... Khai thác không gian tâm linh của nhân vật, Nguyễn Đình
Tú muốn đề cập đến con người sám hối trong họ. Con người không hẳn lúc nào cũng sống đúng,
sống tốt dù trong ý thức mỗi người ln có tính hướng thiện. Trên con đường hồn thiện nhân
cách, con người ta thường hướng lịng mình vào một cõi tâm linh nào đó. Vì sao Bạch Đàn dấy
lên một tình thương với Nhung, phải chăng Đàn bắt gặp khoảnh khắc lòng Nhung đang hướng
về Chúa, với vẻ thành kính, đẹp như một đức mẹ đồng trinh. Sự sám hối của Bạch Đàn phải
chăng cũng bắt nguồn từ sự thức tỉnh trong cõi từ bi?
Từ không gian vô thức, nhà văn cũng đã lồng vào yếu tố thời gian. Không gian và thời
gian vốn dĩ tạo nên một khoảng trời để nhân vật đi lại, sống đời sống của mình. Thời gian trong
tác phẩm đa phần được soi từ giấc mơ, vơ thức và tâm linh. Đó là kiểu thời gian tâm lý. Thời
gian không thể đo bằng từng thời khắc, mà được cảm nhận qua tâm trạng của con người kiểu
tâm trạng ngổn ngang, chứa đầy phức cảm. Yếu tố thời gian trong tác phẩm đứt gãy, đan cài,
đồng hiện thậm chí được giãn ra đến mức tối đa như tâm trạng nhân vật. Thời gian nghệ thuật
trong văn xuôi đương đại chủ yếu là thời gian cảm giác được tâm trạng hóa thể hiện những uẩn
ức, dồn nén, trong tâm hồn con người.
Trong tiểu thuyết Mưa ở kiếp sau của Đoàn Minh Phượng, thời gian đan cài theo dịng
tâm trạng của nhân vật tơi từ ký ức cô bé 15 tuổi đến khi trải qua những hoang mang, xô đẩy
của cuộc đời. Thời gian trở nên dồn nén. “Mẹ đi hai mươi hai năm tưởng đã ngút xa, ai ngờ chỉ

chớp mắt một cái mẹ đã về chỗ cũ. Quê hương là một thứ gì rất lạ lùng” [5, tr.24]. Thời gian
thu lại trong một khoảng khắc “một chớp mắt” trong sự chiêm nghiệm đời mình. “Trong một
khoảnh khắc, hình như tơi biết hết tất cả” [5, tr.27], “Tơi đang ở một nơi khơng có ánh sáng
23


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

hay tiếng động, và cũng khơng có thời gian” [5, tr.57]. Thời gian luôn lui về từ quá khứ, dồn
về quá khứ bằng cái nhìn xuyên thấu đời mình. Lúc nào cũng “trong cùng một khắc đó” [5,
tr.94], “trong cùng đêm đó” [5, tr.102], “Tơi nằm nhớ lại giấc chiêm bao tôi thấy vào đêm qua
và vào đêm trước, đêm qua, và một đêm trước đó và vào mn nghìn đêm trước nữa” [5, tr.124].
Thời gian lúc này không đong đếm theo thời khắc, mà theo tâm trạng của nhân vật. Nỗi đớn
đau của nhân vật tôi đẩy tâm trạng lùi về, tìm về quá khứ, đắm mình vào quá khứ như một điệp
khúc, dồn nén trong từng khoảnh khắc. Ở đó, ta ít gặp thời gian của tương lai, chỉ có hiện tại
đớn đau hịa cùng q khứ u buồn. Thời gian bây giờ thành thời gian của vô thức, của tâm trạng,
nỗi buồn và sự bế tắc. “Tôi thấy sợ thời gian, mỗi lần nó nhích tới phía trước thì có chuyện gì
đó vừa xảy ra thêm, thêm vào những chuyện trước đó, càng lúc càng đầy” [5, tr.224].
Thời gian trong Giã biệt bóng tối của Tạ Duy Anh cũng đơng đặc, dồn nén như chính
hiện thực vây hãm lên cuộc đời thằng Thượng. Sự xuất hiện liên tiếp các sự kiện khiến thời
gian chật vật trong từng khoảnh khắc, giống như tâm trạng con người đang bị bủa vây trước
hiện thực ngột ngạt khơng lối thốt. Thời gian dồn dập. Lúc thì “ngay tối hơm ấy” [1, tr.65],
“đêm ấy may thay cho tôi là trời nổi cơn giông” [1, tr.83], “buổi sáng hơm ấy, khi làng Thổ Ơ
thức dậy...” [1, tr.89], “Đúng lúc ấy” [1, tr.106], “hôm sau, như mọi ngày. Nhưng đến chiều
hôm ấy” [1, tr.124], lúc thì “khi đó” [1, tr.125], “chỉ trong tích tắc” [1, tr.125]... Thời gian dồn
nén trong quá khứ - một quá khứ vây hãm bởi bóng đêm mà mỗi khi nghĩ đến thằng Thượng
cảm thấy trống không giữa khoảng tối mênh mang, vơ định. Giã biệt bóng tối hay giã biệt cái
quá khứ tối tăm của cuộc đời, giã biệt hiện thực vây hãm đẩy con người vào bế tắc. Cái khát

vọng duy nhất suy cho cùng “Tôi đã chờ cái ngày này. Tơi chụm tay, hướng về phía mặt trời
hét lên một tiếng thay cho lời giã biệt...” [1, tr.258]. Các tác giả đương đại đa phần sử dụng
kiểu thời gian ký ức, hồi niệm. Khơng chỉ thế giới xơ lệch mà thời gian cũng trở nên xô lệch
đẩy con người vào vô thức, tâm linh. Thời gian trở nên phi thời gian theo dịng tâm trạng. Tiểu
thuyết Nguyễn Đình Tú cũng đã sử dụng kiểu thời gian tâm thức như thế. Ở Nháp, tâm trạng
của Thạch, của Đại chủ yếu sống trong hồi ức. Thời gian được gợi lại từ ký ức như ký ức buồn
của Thạch, quá khứ đẹp đầy mất mát của Đại, nỗi đau của Duyên, hay nỗi niềm của những
người “Suốt đời khơng tìm được cái mà mình cần tìm” [7, tr.51]?! Tâm trạng của mẹ Thạch
cũng là nỗi niềm chung của kiếp người trong vịng xốy đó. “Q khứ của mẹ như thế thì mẹ
làm gì cịn đường trở về nữa. Mẹ chỉ có hiện tại thôi” [7, tr.51]. Thời gian được tỷ mỷ trong
từng khoảnh khắc “tối hôm ấy”, “đêm hôm ấy”, “hôm sau”, “mấy năm sau”, “mấy năm sau
nữa” [7, tr. 50]. Ở tiểu thuyết Kín, thời gian chủ yếu là hồi ức về quá khứ, về tuổi thơ của Quỳnh,
về quãng đời cuả cô bé Lửa Cháy đầy bi kịch. Thời gian đối với Quỳnh là “Tất cả những cái gì
diễn ra trong khoảnh khắc ấy được coi là hình thù thì cái chết có một hình thù khơng đến nỗi
ghê rợn ...”, “Tự dưng Quỳnh nghĩ đến sự vô nghĩa của việc có mặt trên cõi đời này. Hai mươi
năm cho một đời người thì cũng khơng phải là q ngắn ngủi” [8, tr.344]. Thời gian trong cảm
nhận của Quỳnh đã trơi qua một cách vơ tình, vơ định. Khi con người ta rơi vào trạng thái lênh
đênh, trôi nổi, thời gian cũng trôi đi một cách chậm chạp, não nề, thời gian chảy qua dòng tâm
trạng, nhuốm màu nỗi nhớ, kỷ niệm và cả những phức cảm dồn nén. Thời gian trở thành thời
gian trong vô thức với những cảm xúc đan xen, phức tạp, không theo một trật tự nào cả. Nó trở
nên đứt gãy tạo nên những khoảnh khắc đồng hiện giữa quá khứ và hiện tại. Con người trong
tác phẩm ln trói mình vào q khứ để day dứt, đau đớn và nuối tiếc...
3. KẾT LUẬN
Các nhà văn Việt Nam đương đại đã xây dựng kiểu thời gian tâm lý như một phương tiện
nghệ thuật để đi sâu khám phá đời sống của con người. Sự kết hợp giữa thời gian tâm lý cùng
với không gian tâm linh, không gian ảo đã tạo nên một thế giới tâm trạng chập chờn giữa những
phức cảm. Việc xây dựng các kiểu không gian, thời gian nhuốm màu sắc vô thức, tâm linh đã
24



HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

mở ra nhiều góc nhìn khác nhau vào cõi sâu hồn người, khám phá mạch ngầm tâm trạng. Hiện
thực tâm hồn giữa ngổn ngang ham muốn, mặc cảm vốn được che giấu, nay chợt phanh phui
trên từng trang viết. Cửa ngõ đi vào vô thức được nhà văn hé mở bằng nhiều mã nghệ thuật
khác nhau, để người đọc tự do kiếm tìm, tiếp nhận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]

Tạ Duy Anh (2008). Giã biệt bóng tối, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Văn Tùng (2010). Thi pháp học ở Việt Nam, NXB Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội.
Hồ Thế Hà, Nguyễn Thành (Chủ biên) (2014). Phân tâm học với văn học, NXB Đại học Huế,
Huế.
Trần Thùy Mai (2001). Quỷ trong trăng, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
Đồn Minh Phượng (2007). Mưa ở kiếp sau, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
Nguyễn Đình Tú (2002). Hồ sơ một tử tù, NXB Cơng an nhân dân, Hà Nội.
Nguyễn Đình Tú (2008). Nháp, NXB Thanh niên, Hà Nội.
Nguyễn Đình Tú (2010). Kín, NXB Văn học, Hà Nội.

Title: SPACE AND LIKELY TIME IN THE VIETNAMESE PEOPLE'S CULTURE

Abstract: Contemporary Vietnamese prose, with a series of new problems, the selection of different
coordinates and different views to complement each other is really a necessary research direction.
Approaching contemporary Vietnamese prose from space and illusory time can open a new dialogue in
the subtle inner areas - especially when associated with this creative spirit of the spirit. Space and time
built in contemporary Vietnamese prose are mainly virtual space - space from dream, fantasy space, and
spiritual space.
Keywords: Contemporary, illusory, space, time, Vietnamese literature.

25



×