Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Bài học kinh nghiệm từ đổi mới và vấn đề đặt ra trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.76 KB, 9 trang )

HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ ĐỔI MỚI
VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRÊN CON ĐƯỜNG XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
TRẦN THỊ ÁI VÂN
Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Đà Lạt
Email:
Tóm tắt: Vào những năm 70, 80 của thế kỷ XX, tình hình quốc tế có nhiều biến
động hầu như tất cả các nước đều có sự điều chỉnh chính sách, trong khi đó ở Việt
Nam khủng hoảng xã hội ngày càng sâu sắc, viện trợ các nước xã hội chủ nghĩa bị
cắt giảm, đất nước bị cấm vận… Yêu cầu lúc này đặt ra cho Đảng Cộng sản Việt
Nam và toàn dân tộc “đổi mới hay là chết”, muốn đổi mới trước tiên phải thẳng thắn
thừa nhận những khuyết điểm trong chỉ đạo để có những bước đi, chủ trương đúng
đắn, phù hợp với thực tiễn. Hơn 30 năm đổi mới là cả một q trình cả dân tộc cùng
tìm tịi, bổ sung, phát triển đường lối về đổi mới và chủ nghĩa xã hội để đưa đất nước
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế. Có thể khẳng định rằng những bài học kinh nghiệm của
toàn Đảng, toàn dân trải qua trên con đường đổi mới là sự tổng kết lý luận và thực
tiễn, được đúc rút từ những kết quả, thành công và những yếu kém thậm chí cả thất
bại.

Từ khóa: Bài học kinh nghiệm; Chủ nghĩa xã hội; Dân tộc; Đảng Cộng sản Việt
Nam; Đổi mới.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Những năm 1989-1991, sự sụp đổ mang tính hàng loạt của mơ hình Chủ nghĩa xã hội ở
Đơng Âu và Liên Xô đặt ra nhiều vấn đề về thực tiễn và lý luận trên con đường xây dựng Chủ
nghĩa xã hội tại Việt Nam. Nhìn lại chặng đường hơn 30 năm đổi mới, minh chứng chủ trương


chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn
đúng đắn, phù hợp với lịch sử dân tộc. Cho dù hiện nay còn nhiều vấn đề tồn tại trên con đường
xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhưng một lần nữa cho thấy những bài học kinh nghiệm
được đúc kết trong đổi mới vẫn giữ nguyên tính thời sự và giá trị lịch sử cho sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước hôm nay.
2. NỘI DUNG
2.1. Những bài học kinh nghiệm hơn 30 năm đổi mới tại Việt Nam
Bài học thứ nhất về sự kiên định nguyên tắc, kiên trì mục tiêu
Ngay trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa
xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của tiến trình cách mạng Việt Nam. Gần 90 năm lãnh đạo và
phát triển đất nước qua nhiều thăng trầm của lịch sử, đạt được những thành tựu như hơm nay
chính là vì Đảng và nhân dân ln kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Công cuộc đổi mới được triển khai trong điều kiện các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
tiến hành cải tổ, kết quả khủng hoảng không những giảm bớt mà ngày càng trầm trọng hơn, xã
hội mất ổn định, kéo theo tan rã Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong khi đó cơng
cuộc đổi mới ở Việt Nam đã từng bước tạo lập được ổn định, khắc phục được khủng hoảng, tạo
237


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

ra thế và lực mới, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Vậy tại sao, một nước thành trì xã hội
chủ nghĩa như Liên Xô, tiềm lực kinh tế, quốc gia trước đó rất mạnh lại khơng thành cơng trong
khi Việt Nam qua nhiều năm chiến tranh, hịa bình vừa mới lập lại, tổ chức Đảng chưa được
trang bị nhiều về lý luận và kinh nghiệm khi bước vào giai đoạn xây dựng kinh tế lại có bước
đổi mới ngoại mục như vậy? Có nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan nhưng trong đó có
một điều khi tổng kết thực tiễn đổi mới, cho thấy đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, các nhà

lãnh đạo lúc bấy giờ quán triệt đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm
cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức và xây dựng có hiệu quả hơn; đổi mới không phải là đổi
mầu; hội nhập nhưng không phải là hòa tan vào thế giới tư bản; đổi mới có nguyên tắc mà
nguyên tắc hàng đầu là bảo đảm độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cho đất nước.
Hiện nay các thế lực thù địch lợi dụng những hạn chế trong lãnh đạo, quản lý kinh tế,
những vấn đề búc xúc trong xã hội, sự thiếu tỉnh táo của một số bộ phận người dân trong xã hội
và sự non kém về nhận thức chính trị của một số bộ phận cán bộ, đảng viên.., họ đã phủ nhận
sạch trơn công lao của Đảng và nhân dân trong suốt thời kỳ đổi mới và con đường xã hội chủ
nghĩa với những lập luận sai trái như “chủ nghĩa xã hội là con đường mù mờ, không có tương
lai”, “đi vào ngõ cụt như Liên Xơ”, “kinh tế thị trường không dung hợp với chủ nghĩa xã hội”(!).
Sự kiện sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự sụp đổ của một
mơ hình chủ nghĩa xã hội - mơ hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp và khi tiến
hành cải tổ đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng về chính trị, dẫn đến mất phương hướng
trong cải tổ. Cũng không phải như lời xuyên tạc của các thế lực chống phá cho rằng Chủ nghĩa
Mác - Lênin đã lỗi thời, chính những nhà lãnh đạo của Liên Xô lúc bấy giờ đã hiểu chưa đầy
đủ về chủ nghĩa Mác - Lênin, rơi vào chủ nghĩa cơ hội, giáo điều và bị các thế lực phản động
quốc tế chống phá thông qua chiến lược diễn biến hịa bình và bạo loạn lật đổ. Bài học này được
các nhà lãnh đạo Việt Nam rút ra kinh nghiệm sâu sắc trên con đường đổi mới đất nước, dù
trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng kiên định con đường Đảng và dân tộc lựa chọn. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
khẳng định một trong những bài học kinh nghiệm lớn của cách mạng nước ta là: “Nắm vững
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết
để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân
tộc” [5, tr.65]. Đồng thời Đảng ta tại đại hội Đảng lần thứ XII khẳng định rằng phải luôn kiên
định và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác- Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh là những điều kiện
bảo đảm thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới vơ cùng phức tạp
của tình hình thế giới: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng
sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới” [6, tr.46].

Sự thành công của cách mạng Việt Nam từ khi thành lập Đảng đến nay là một ví dụ điển
hình áp dụng sáng tạo học thuyết Mác – Lênin trong bối cảnh lich sử Việt Nam của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Thắng lợi của công cuộc đổi mới cũng là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam. Khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của
nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử dân tộc.
Bài học về cách thức và con đường đổi mới.
Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Bài
học này thời gian tiến hành đổi mới được Đảng và Nhà nước quán triệt chặt chẽ. Đổi mới địi
hỏi đất nước phải phát triển tồn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại. Tuy nhiên, đổi mới toàn diện và đồng bộ phải có
238


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

trọng tâm, trọng điểm, các bước đi, hình thức phải phù hợp, phải nắm được vấn đề mấu chốt
ban hành những chính sách đúng đắn trong mỗi giai đoạn. Để xác định đúng bước đi và cách
làm phù hợp, điều quan trọng là phải nắm vững các mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; gắn kết chặt chẽ kinh tế với văn hóa - xã hội, tăng
trưởng kinh tế gắn liền với thực hiện tiến bộ công bằng xã hội; gắn kết chặt chẽ phát triển kinh
tế với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung
tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần; tăng
cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
Chúng ta đã từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị,
đổi mới cơng tác tổ chức và cán bộ, mở rộng dân chủ trong Đảng, đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, cải cách các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp,

đổi mới hệ thống chính quyền địa phương; đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội; mở rộng và phát huy dân chủ trong xã hội, đẩy mạnh chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí... Từ việc khơng xác định đúng bước đi; nóng vội, chủ quan, giải quyết
khơng đúng mối quan hệ giữa kinh tế - xã hội - chính trị trong chỉ đạo dẫn đến cơng cuộc cải tổ
ở Liên Xô bị thất bại, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá dẫn đến sụp đổ. Tránh vết
xe đổ của Liên Xô, tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quán triệt phải tôn
trọng quy luật khách quan, lấy thực tiễn là cơ sở để đổi mới tư duy lý luận, đường lối, chủ
trương, cơ chế, chính sách; Phải chủ động, năng động, không ngừng sáng tạo trong lãnh đạo
đồng thời khắc phục tình trạng nóng vội, chủ quan, tình trạng bảo thủ, trì trệ trong việc đổi mới
hệ thống chính trị sẽ cản trở sự phát triển kinh tế cũng như tồn bộ cơng cuộc đổi mới. Ngay
khi xác định cải cách, Đại hội VI nhấn mạnh: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật
là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng” [3, tr.29].
Bài học về quán triệt tư tưởng “nhân dân là trung tâm”
Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng
tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, luôn luôn nhạy bén với cái mới. Nguồn gốc hình thành
đường lối đổi mới của Đảng chính là ln lắng nghe những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của
nhân dân nảy sinh từ thực tiễn. Ngay trong Đại hội đổi mới, một trong bốn bài học lớn được Đảng
rút ra: Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc” trong toàn bộ hoạt động của mình. Đánh
giá quá trình đổi mới, Đại hội lần thứ IX của Đảng một lần nữa khẳng định: “đổi mới phải dựa
vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo” [4, tr.81].
Hơn 30 năm đổi mới, sự trưởng thành của Đảng và sự tiến bộ của nhân dân ta đã tỏ rõ
sức mạnh sáng tạo của toàn thể dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội yêu cầu Đảng, Nhà nước phải biết khơi nguồn và phát huy cao độ tính tự giác và
tiềm năng sáng tạo của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tạo động lực
ngày càng mạnh mẽ cho quá trình đổi mới vận động liên tục và thành công. Đảng, Nhà nước,
các tổ chức chính trị ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa, đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, việc hoạch định đường lối
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước phải luôn trên nền tảng lấy dân làm gốc theo đúng tinh
thần Đại hội lần thứ XII của Đảng “vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò

làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân” [6, tr.57].
Thế giới liên tục chuyển động, trên phạm vi quốc gia và quốc tế thuận lợi đan xen với
phức tạp, vô vàn vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách được đặt ra từng ngày, từng giờ. Vậy bám
sát thực tiễn trong mọi hoạt động để trang bị những lý luận phù hợp thì Đảng phải có mối liên
hệ mật thiết với nhân dân, bởi nhân dân là thước đo của thực tiễn. Quy luật này một lần nữa lại
239


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

được chứng minh sáng tỏ trong cơng cuộc đổi mới. Chìa khóa thành cơng đổi mới ở Việt Nam
là dựa vào thực tiễn, kinh nghiệm quý báu rút ra từ nhân dân, Đảng đã phân tích, tổng kết thực
tiễn một cách khoa học và nâng lên thành lý luận, đưa ra những quyết sách, chiến lược để xã
hội ngày càng tiến bộ, giàu mạnh hơn.
Qua thực tiễn đổi mới, có thể khẳng định khát vọng của toàn Đảng, toàn dân thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh sẽ thành công nếu ta vững
tin vào sức mạnh của dân tộc và huy động sức mạnh sáng tạo, sử dụng mọi nguồn lực của xã
hội tiến hành, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc của dân tộc, tự do và hạnh phúc của đồng
bào. Công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội tuy trước mắt chứa đựng nhiều thách
thức, khó khăn nhưng ra sức gây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, toàn
đảng, toàn dân đồng lòng, đồng sức; làm đúng những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
bao nhiêu lợi ích là của dân, bao nhiêu quyền lực cũng là của dân, mọi quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân, ở trong dân thì mọi khó khăn sẽ từng bước được giải quyết. Đó là chân lý của
lịch sử được Đảng ta ra sức thực hiện xây dựng phát triển đất nước hiện nay.
Bài học về phát huy sức mạnh tổng hợp trong và ngoài nước.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là tư tưởng chỉ đạo chiến lược xuyên
suốt của cách mạng Việt Nam. Phát huy cao độ nội lực, đồng thời khai thác ngoại lực qua thực
tiễn thẩm định đã trở thành một bài học kinh nghiệm lớn trong tồn bộ tiến trình cách mạng xã

hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Nội lực được xây dựng trên truyền
thống hàng nghìn năm dựng và giữ nước của dân tộc, trí lực của hàng chục triệu nhân dân cùng
với đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, hay nói chính xác nội lực là sức mạnh quốc gia
- dân tộc. Ngoại lực là những thành tựu vượt bậc của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại,
những xu thế mới của thời đại hay có thể hiểu ngoại lực là sức mạnh thời đại. Hai nhân tố không
thể thiếu và cần được kết hợp có hiệu quả với nhau trong sự nghiệp đổi mới.
Công cuộc đổi mới diễn ra trong điều kiện thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, vừa mang
đến những cơ hội vừa chứa nhiều thách thức to lớn. Mặc dù quan hệ thế giới chứa đựng những
tảng băng ngầm nhưng vì nhu cầu ổn định để phát triển, các quốc gia vẫn cố gắng duy trì xu
thế chủ đạo là hịa bình, ổn định, hợp tác. Đồng thời sự phát triển nhảy vọt của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức ngày càng giữ vai trò chủ đạo mọi lĩnh vực đời sống đã
và đang trở thành xu thế nổi bật của thời đại, đặt ra yêu cầu bất cứ quốc gia nào muốn xây dựng
đất nước, phát triển kinh tế xã hội tất yếu phải tham gia vào xu thế chung đó. Để chủ động hội
nhập với thế giới, đảm bảo phát triển nhanh, bền vững Việt Nam cũng không ngoại lệ, cần phải
tích cực, chủ động phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực để
phát triển kinh tế - xã hội trong đó nội lực đóng vai trị quyết định, đưa đất nước vững bước tiến
lên con đường chủ nghĩa xã hội. Nhận thức sâu sắc tính tất yếu của hội nhập, Đảng ta luôn coi
việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp là một trong
những bài học kinh nghiệm lớn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tại Đại hội Đảng
lần thứ XI đã chỉ rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời
tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững
và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ” [5, tr.102]. Để phát huy nội lực, phát triển kinh tế, ổn
định đất nước, bảo vệ an ninh quốc gia trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã
khơng ngừng hồn thiện chính sách, pháp luật đồng thời chủ động mở rộng giao lưu, hợp tác
quốc tế, tiếp thu thành tựu văn minh nhân loại, khai thác, sử dụng ngày càng có hiệu quả hơn
các nguồn lực cho sự phát triển, đưa đất nước từng bước hội nhập sâu rộng với thế giới.
Những thành tựu trong đường lối đối ngoại hiện nay của Việt Nam, được bạn bè thế giới
đánh giá cao chính là tinh thần dám thay đổi mình, thay vì quan ngại những sự biến đổi khó
lường của thế giới rồi đóng kín cửa thì Đảng ta lại phát huy tối đa sức mạnh dân tộc kết hợp
240



HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

với sức mạnh thời đại nhằm biến những cái bất lợi thành thuận lợi, những thách thức thành thời
cơ cho sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Dựa trên nguyên tắc dân tộc độc lập, bảo vệ chủ
quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có
lợi; giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, đường lối đối ngoại rộng mỡ của
Đảng đã tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để làm nhân lên sức mạnh nội lực, còn nội lực được
phát huy tạo cơ sở cho việc sử dụng ngoại lực có hiệu quả hơn. Đó là cách thức để Đảng ta và
nhân dân ta có thể bắt kịp xu thế hội nhập quốc tế, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước
phát triển trên thế giới và trong khu vực hiện nay
Bài học về xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị
Một Đảng muốn lãnh đạo lâu dài yêu cầu phải luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn nhằm nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây
dựng và từng bước hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân
dân. Ngay trong quan điểm về Đảng Cộng sản cầm quyền, Hồ Chí Minh từng khẳng định Đảng
Cộng sản Việt Nam giữ vai trò “người cầm lái” con thuyền cách mạng, nhưng quyết định vai
trò lãnh đạo của Đảng lại chính là sự ủng hộ, tin tưởng của nhân dân. Nếu Đảng khơng cịn
trong sạch, vững mạnh, niềm tin của nhân dân đối với Đảng suy giảm thì Đảng sẽ đánh mất vai
trị lãnh đạo của mình. Hồ Chí Minh khẳng định: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người,
ngày hơm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được
mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá
nhân” [7, tr.672]. Chính vì thế, để trở thành một Đảng đạo đức, văn minh trong công tác xây
dựng Đảng phải đặc biệt chú trọng công tác đào tạo cán bộ vừa hồng vừa chuyên, hội tụ được
cả tâm lẫn tầm, thường xuyên rèn luyện đạo đức cán bộ tạo niềm tin trong lòng nhân dân.
Hội nhập quốc tế trong một mơi trường cạnh tranh quyết liệt về chính trị, kinh tế, sự chi
phối của các nước lớn và những diễn biến hết sức phức tạp, đòi hỏi bản lĩnh chính trị vững vàng

của Đảng trong vai trị cầm quyền của mình. Trong tổ chức, Đảng phải đồn kết thống nhất chặt
chẽ, bên ngoài tạo mối liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân; những chủ trương, chính
sách của Đảng ban hành phải trong thuận lịng đồng chí, ngồi thuận lòng dân và hợp với xu
hướng thế giới. Đây là những nhân tố góp phần giữ vững, nâng cao vị trí, vai trị của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Mặt khác một số mặt yếu kém trong tổ chức Đảng
và cả biểu hiện tiêu cực của một bộ phận khơng nhỏ đảng viên thối hóa về tư tưởng, lập trường,
tham nhũng, suy thoái về lối sống, đạo đức, tác phong cần phải khắc phục bằng tính kỷ luật nghiêm minh trong Đảng. Bởi vậy, để tiếp tục lãnh đạo ngày càng có hiệu quả sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xác định xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh là nhiệm vụ then chốt.
Ngay từ đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta nhận định chính trị là lĩnh vực trọng yếu, nhưng
đặc biệt nhạy cảm, chỉ cần mắc sai lầm sẽ dẫn tới đổ vỡ, thất bại. Sau khi xem xét rất thận trọng,
Đảng ta nhận định đổi mới hệ thống chính trị khơng phải là thay đổi chế độ chính trị mà nhằm
từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xác định dân chủ vừa là mục
tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Các nhà lãnh đạo Việt Nam quyết định kết hợp
chặt chẽ đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị, từ kết quả đổi mới kinh tế thực hiện
từng bước đổi mới hệ thống chính trị một cách vững chắc trên nguyên tắc kiên quyết khơng
chấp nhận đa ngun chính trị, đa đảng đối lập.
Nâng cao hiệu quả hoạt động và kiện toàn bộ máy nhà nước từ địa phương đến trung
ương, làm cho hệ thống chính trị ta ngày càng tinh gọn và hiệu quả, thể hiện đúng đắn và đầy
đủ hơn bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa. Không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng trong quá
trình đổi mới hệ thống chính trị nhằm thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, nói cách khác là nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta do Đảng lãnh đạo đã được quy định trong Hiến pháp rõ ràng
241


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

“Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (Hiến pháp năm 2013).

Dân chủ trong Đảng với dân chủ trong xã hội gắn bó với nhau không thể tách rời, mở rộng và
thực hiện tốt dân chủ trong Đảng, là cơ sở nền tảng để xây dựng, mở rộng và thực hiện tốt dân
chủ trong xã hội.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân, bảo
đảm quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân là yêu cầu bức thiết của dân chủ hóa xã hội. Nhân
dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, người dân có quyền tham gia
quản lý, kiểm tra, giám sát cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước. Nhà nước tạo điều
kiện bảo đảm quyền lợi đó của cơng dân và nâng cao trách nhiệm pháp lý công dân đối với Nhà
nước, xã hội; Thực hiện dân chủ xã hội trên tiêu chí giữ vững kỷ cương, kỷ luật như tinh thần
được quán triệt trong Đại hội lần thứ XI năm 2011 của Đảng “Xây dựng và từng bước hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống
ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế
hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm” [4, tr.84].
Bên cạnh đó, phát huy vai trị của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội
khơng chỉ phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà cịn tăng cường dân chủ
xã hội chủ nghĩa. thơng qua vai trò, chức năng kiểm tra, giám sát của Mặt trận và các đồn thể
chính trị xã hội, đối với năng lực lãnh đạo, tư cách, đạo đức, tác phong của cán bộ, đảng viên,
của đội ngũ công chức nhà nước trong hệ thống chính quyền các cấp nhân dân góp phần đóng
góp được ngày càng nhiều trí tuệ cho Đảng trong việc hoạch định và lãnh đạo thực hiện đường
lối, chính sách. Xác lập những mối quan hệ hợp lý giữa Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc
cùng các đồn thể nhân dân thơng qua hệ thống cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý Nhân dân làm chủ sẽ thúc đẩy hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, quyền làm chủ của
nhân dân được thực hiện ngày một tốt hơn, từ đó tạo ra động lực vô cùng mạnh mẽ cho công
cuộc đổi mới trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Trên đây là những bài học lớn được rút ra hơn 30 năm đổi mới. Những bài học đó có giá
trị và ý nghĩa to lớn, tiếp tục soi đường cho Việt Nam đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới,
đưa Việt Nam vững tin trên con đường mình đã lựa chọn.
2.2. Các vấn đề đặt ra về con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội hiện nay ở Việt Nam
Qua phân tích các bài học kinh nghiệm rút ra trong thực tiễn đổi mới đã đặt ra nhiều vấn
đề cần giải đáp trên con đường xây dựng CNXH hiện nay
Thứ nhất, xác định mơ hình về Chủ nghĩa xã hội

Trước đổi mới, mơ hình XHCN của Liên Xơ và Đơng Âu được Việt Nam đánh giá là một
mơ hình lý tưởng. Đến năm 1986 nhận thấy dấu hiệu bất ổn trong mơ hình xã hội chủ nghĩa mà
mình theo đuổi đặc biệt sự kiện sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu vào những năm 90 thế kỷ XX,
một cuộc cải cách tư duy rất lớn diễn ra trong các nhà lãnh đạo Việt Nam về mơ hình mới về
chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn. Mơ hình Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được xác
định là mơ hình Chủ nghĩa xã hội của thời kỳ quá độ chứ khơng phải là mơ hình của Chủ nghĩa
xã hội ở giai đoạn phát triển. Nó cịn phụ thuộc vào thời gian, không gian và những nét đặc thù
về lịch sử, văn hóa, dân tộc của quốc gia. Mơ hình Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam luôn được bổ
sung và hoàn thiện từng bước qua các kỳ đại hội Đảng toàn quốc, dựa trên nghiên cứu lý luận
và tổng kết thực tiễn, đến đại hội XI năm 2011, ban lãnh đạo trung ương Đảng phác họa mơ
hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam hiện nay bao gồm những đặc trưng sau:“ Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh; Do nhân dân làm chủ; Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm
242


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ

| 11/2019

đà bản sắc dân tộc; Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện; Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”
[4, tr.70]. Quan điểm của Đảng về đặc trưng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cơ bản vẫn được giữ
nguyên như Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1991 nêu ra, nhưng có bổ sung thêm cho đầy
đủ và tồn diện hơn. “Dân giàu” ở vị trí hàng đầu, dân chủ trở thành điều kiện, động lực phát
triển, đặc điểm và mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; có Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là
một bổ sung quan trọng về đặc trưng bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân

dân ta xây dựng.
Thứ hai, thời gian xây dựng Chủ nghĩa xã hội
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp cực kỳ vẻ vang nhưng phải lâu dài và gian
khổ. Do đó, Đảng phải kiên quyết khắc phục tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý trí. Cần phải
có sự đồng lịng đồng sức của nhân dân phấn đấu kiên trì, bền bỉ với một quyết tâm cao độ mới
có thể đưa sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta đến thắng lợi hồn tồn. Xây dựng
thành cơng Chủ nghĩa xã hội còn hội tụ nhiều yêu tố, trong khi hiện nay tình hình quốc tế, khu
vực diễn biến phức tạp, khó lường cùng những tác động mặt trái của kinh tế thị trường tác động
tiêu cực đến toàn diện của xã hội… địi hỏi tồn Đảng, tồn dân, tồn qn phải có lập trường
tư tưởng vững vàng và có cái nhìn mền dẽo về thời gian và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Thời gian xây dựng cơ sở vật chất cho Chủ nghĩa xã hội được định rõ là “đến giữa thế kỷ XXI”
nhưng trước tiên phải phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại,
tức là thắng lợi được sự nghiệp cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước tạo nền tảng kinh tế của
CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở đến giữa
thế kỷ XXI nước ta có nền công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, về tiêu chí con người xã hội chủ nghĩa.
Con người là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự phát triển và hưng thịnh của đất
nước, là động lực cách mạng Chủ nghĩa xã hội. Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội phải có con
người xã hội chủ nghĩa, con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là những người
năng động, có trí tuệ, học vấn cao, có trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ
pháp luật... Việc xây dựng bản lĩnh, nhân cách con người Việt Nam giai đoạn hiện nay cần kế
thừa những tinh hoa từ cội nguồn văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu những tinh hoa mới của
thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó cần xóa bỏ những
nhược điểm, thói hư tật xấu ăn sâu vào trong hệ tư tưởng đến nay đã khơng cịn phù hợp. Rèn
luyện bản lĩnh, hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam cần được tiến hành và củng cố trong
các mối quan hệ đan xen: truyền thống và hiện đại, cá nhân và cộng đồng, dân tộc và quốc tế.
Có như vậy, con người Việt Nam mới đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong
kỷ nguyên mới, có đủ nội lực, bản lĩnh để vượt qua thách thức trên con đường dân tộc đang
phấn đấu xây dựng một Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tương lai.
Thứ tư, chống tình trạng tham nhũng và “tự diễn biến” trong tổ chức Đảng.

Muốn xây dựng thành công chủ nghã xã hội, điều kiện tiên quyết phải giữ vững vai trò
lành đạo của tổ chức Đảng, nhưng Đảng ta muốn nắm vững vai trò lãnh đạo đòi hỏi phải luôn
đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Một trong những vấn đề cấp bách hiện nay đe dọa đến vận mệnh
của đất nước, đến sự sống còn của chế độ xã hội chủ nghĩa và uy tín và vai trị lãnh đạo của
Đảng là tình trạng quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân của một số bộ phận cán bộ, đảng
viên. Thực tế tình trạng tham nhũng, chưa bao giờ hạ nhiệt mà còn diễn ra ngày càng tinh vi
243


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

| HTKH 2019

hơn. Nội bộ cấu kết với nhau, phe cánh bao che tội lỗi theo kiểu “lợi ích nhóm” lan rộng trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội đã làm tăng thêm sự bức xúc, bất bình của nhân dân, đe dọa
sự tồn vong của tổ chức Đảng và Nhà nước.
Bài học của tan rã của Liên Xô và Đông Âu cho thấy con đường xây dựng Chủ nghĩa xã
hội sẽ bị đe dọa nếu khơng có giải pháp kịp thời cho tình trạng xuất hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” về mặt lý tưởng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả
những cán bộ, đảng viên cấp cao làm suy yếu Đảng. Tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Nguy hiểm nhất là sự
phai nhạt lý tưởng cách mạng, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin, không kiên định con đường xã
hội chủ nghĩa.
Khắc phục tình trạng trên, Đảng dựa vào nhân dân kiên quyết đấu tranh xử lý nghiêm
minh những hành vi vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước; kiên quyết chống tham
nhũng, lãng phí, các biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” để bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ đất nước. Thực hiện nghiêm nguyên
tắc tập trung dân chủ, đấu tranh tự phê bình và phê bình một cách nghiêm khắc, khách quan,
khơng hình thức trong sinh hoạt Đảng. Thực hiện dân chủ, phát huy tính Đảng, đấu tranh cái
sai, bảo vệ cái đúng, xử lý nghiêm mọi biểu hiện cơ hội, tiêu cực trong công tác cán bộ, những

người lợi dụng chức quyền vi phạm quyền làm chủ trong Đảng và quyền làm chủ của nhân dân.
Tạo mọi điều kiện phát huy vai trị của báo chí, của cơng luận; huy động cả hệ thống chính trị
vào cuộc, tham gia tích cực, có hiệu quả chống tiêu cực, tham nhũng, suy thối về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
3. KẾT LUẬN
Thành tựu hiện nay của đất nước trong những năm qua, khẳng định dưới sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng và sự đồng thuận của nhân dân, Việt Nam sẽ tiếp tục đổi mới và phát triển
mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới. Song điều quan trọng hơn nữa là Đảng và Nhà nước ta
ngày càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo và chỉ đạo công cuộc đổi mới từng
bước hoàn thiện nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay. Từ phân tích đúng đắn các bài học kinh ngiệm cũng như những vấn đề đặt ra trên con
đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội hiện nay đã giúp cho mỗi chúng ta có cái nhìn tồn diện hơn
về những thuận lợi, khó khăn; những thời cơ đan xen nguy cơ để từ đó tránh được căn bệnh chủ
quan, nóng vội, duy ý chí; tơn trọng và hành động theo quy luật, tiếp tục thực hiện mục tiêu mà
toàn Đảng, toàn dân đang phấn đấu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. />[2] Báo điện tử Tạp chí Cộng sản. />[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987). Văn kiện Đảng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. NXB
Sự Thật. Hà Nội
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ IX, NXB Chính
trị quốc gia. Hà Nội.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XI, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[6] Đảng cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Văn phịng
Trung ương Đảng, Hà Nội.
[7] Hồ Chí Minh (2011). Tồn tập, Tập 15, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội
244


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU TRẺ


| 11/2019

[8] Hồng Chí Bảo (2016). Những nhận thức mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trong văn kiện
đại hôi XII, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, Số 5.
[9] Nguyễn An Ninh (2016). Quan niệm về mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Khoa
học Xã hội Việt Nam, Số 8.
[10] Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2017). Việt Nam sau 30 năm đổi mới - Thành
tựu và triển vọng, Kỷ yếu hội thảo Việt Nam 30 năm đổi mới - Thành tựu, bài học và triển
vọng, Hà Nội: Hồng Đức.

Title: EXPERIENCES AND OBSTACLES GAINING FROM THE PRACTICAL SITUATIONS OF
THE RENEWAL CAMPAIGN FOR THE SOCIALISM CONSTRUCTION
Abstract: During the period of 1970 and 1980, the economy in over the world experienced the decline
which leaded to the economic stagnation with being under high unemployment and inflation. At the
same time, across Vietnam agriculture, and national income was extremely low. The economy mainly
dominated by small-scale production, low labour productivity, unemployment, material and
technological shortfalls, and insufficient food and consumer goods. Facing with these mentioned
situations, the Vietnam government decided perform the renewal campaign for all aspects from economy
to policy. In order to accomplishing this campaign, the Vietnam government honestly acknowledged the
shortcomings to take the next steps for the new era. Doi Moi combined economic planning with freemarket incentives and encouraged the establishment of private businesses in the production of consumer
goods and foreign investment, including foreign-owned enterprises. Through over 30 years of
innovation, Vietnamese government and citizens have explored, complemented and perform the
innovation and socialism solutions to help the country escape out of the economic and society crisis and
motivate the industrialization and modernization and international integration. It can be affirmed that
the lessons learned from on the path of the renewal campaign, which are the conclusion of theory and
practice, sum up from results, successes and even weaknesses and failure.
Keywords: Experiences, Socialism, Nation, Communist Party of Vietnam.

245




×