MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CƠ CHẾ
TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1.1. Một số vấn đề cơ bản về đơn vị sự nghiệp và cơ chế tự chủ tài chính
1.2. Vai trị của đơn vị sự nghiệp có thu trong nền kinh tế thị trường
1.3. Cơ chế tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu
1.4. Đánh giá kết quả thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với đơn
vị sự nghiệp có thu
4
4
12
16
24
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH Ở
TRUNG TÂM HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái qt về Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
2.2. thực trạng về quản lý tài chính ở Trung tâm Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
2.3. Đánh giá thực trạng cơng tác tự chủ tài chính ở Trung tâm Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
33
33
38
60
Chương 3: GIẢI PHÁP HỒN THIỆN CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH Ở
TRUNG TÂM HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
3.1. Những phương hướng
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính ở Trung tâm
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Chính trị - Hành chính quốc gia
:
CT-HCQG
Cơ quan hành chính
:
CQHC
66
66
69
100
102
105
Đơn vị sự nghiệp
:
ĐVSN
Ngân sách nhà nước
:
NSNN
Sự nghiệp công lập
:
SNCL
Tài sản cố định
:
TSCĐ
Văn phòng Học viện
:
VPHV
Xã hội chủ nghĩa
:
XHCN
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta, từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN. Các hoạt động sự nghiệp ngày càng trở nên phong phú, đa dạng đã
góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hoạt động “sự nghiệp” cần có nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu chi
tiêu đảm bảo cho hoạt động đó tồn tại và phát triển. Trong điều kiện của nền
kinh tế thị trường, nguồn tài chính cho hoạt động sự nghiệp rất đa dạng,
khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi ngân sách Nhà nước cấp mà còn được hình
thành trong q trình "xã hội hố" các hoạt động “sự nghiệp”. Vì vậy, cơ chế
chính sách của Nhà nước đối với hoạt động này trong thời gian qua đã có
những thay đổi căn bản nhằm khuyến khích, động viên các đơn vị sự nghiệp
trong việc chủ động khai thác một cách có hiệu quả các nguồn lực từ cơ sở vật
chất, trang thiết bị cho đến nguồn nhân lực để cung cấp các dịch vụ đa dạng,
phong phú với chất lượng tốt nhất. Đồng thời để Nhà nước có điều kiện tập
trung chăm lo tốt hơn cho các đối tượng nghèo, thuộc diện chính sách, hỗ trợ
cho vùng nơng thơn và những vùng cịn nhiều khó khăn về kinh tế.
Với mục tiêu trên, Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của
Chính phủ quy định “quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập”,
thay thế Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của chính phủ về
“chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu” được triển khai, đã có
những tác động tích cực với phạm vi rộng, mở ra một cơ chế mới để đơn vị sự
nghiệp tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quản lý tài chính. Cơ chế này được
xem như một "khâu đột phá" trong tiến trình cải cách quản lý tài chính cơng,
2
một trong 4 nội dung của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2001 - 2010 theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Phù hợp với xu thế đó, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh (Trung tâm Học viện - đầu mối quản lý tài chính được giao cho Văn
phịng Học viện) là một đơn vị sự nghiệp có thu. Trong những năm qua đã
tích cực cải cách và đổi mới cơ chế quản lý theo hướng cơ chế tự chủ tài
chính, đã đem lại những chuyển biến trong hoạt động quản lý của Trung tâm
Học viện. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện cơ chế tự chủ tài
chính vẫn cịn những vấn đề tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến mục tiêu của quá
trình đổi mới.
Vì vậy, vấn đề "Cơ chế tự chủ tài chính ở Trung tâm Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh" làm đề tài nghiên cứu của luận văn
thạc sỹ mong muốn đóng góp thiết thực cho việc hoàn thiện cơ chế tự chủ tài
chính tại Trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu rất cần thiết đối với đơn vị sự nghiệp. Hiện nay,
chưa có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu sâu về vấn đề này, các luận án
tiến sỹ, luận văn thạc sỹ chưa đề cập, mới có một vài đề tài khoa học cấp cơ sở
của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đề cập đến, nhưng
mới chỉ nghiên cứu một cách tổng thể ở đơn vị dự toán cấp 1, chưa đi sâu nghiên
cứu đối với một đơn vị dự toán cấp 3, là đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách nhà
nước như Trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Đề tài được chọn nghiên cứu không trùng lắp với các đề tài khác.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận về cơ chế tự chủ tài chính trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đánh giá thực
trạng, rút ra kết luận. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hồn thiện cơ chế
3
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu theo
tinh thần của Nghị định số 43/2006/NĐ-CP tại Trung tâm Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Cơ chế tự chủ tài chính ở Trung tâm Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh giai đoạn 2008 - 2010.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Đi sâu vào phân tích và tìm biện pháp để
hồn thiện cơ chế tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu tại Trung
tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
4.3. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp thống kê kết hợp với phương pháp so sánh, tổng hợp, hệ thống
hố, mơ hình hố nhằm phân tích tình hình thực tiễn để rút ra kết luận và định
hướng phát triển.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu và hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực
tiễn, đề tài có những đóng góp sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về những quy định và cơ chế quản
lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu.
- Đánh giá thực trạng về cơ chế quản lý tài chính đối với những hoạt
động sự nghiệp có thu ở Trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh.
- Đưa ra những ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính
đối với hoạt động sự nghiệp có thu của đơn vị đào tạo.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung chính của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ chế tự chủ tài chính
tại đơn vị sự nghiệp công lập.
4
Chương 2: Thực trạng về cơ chế tự chủ tài chính ở Trung tâm Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hồn thiện cơ chế tự chủ tài
chính ở Trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ
TÀI CHÍNH TẠI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP VÀ CƠ CHẾ TỰ
CHỦ TÀI CHÍNH
1.1.1. Khái niệm, phân loại, đặc điểm của đơn vị sự nghiệp công lập
* Khái niệm
Từ cách tiếp cận như trên, ở nước ta đã khái quát:
Đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) là những đơn vị do Nhà nước thành
lập hoạt động công lập thực hiện cung cấp các dịch vụ xã hội cơng cộng và
các dịch vụ nhằm duy trì sự hoạt động bình thường của các ngành kinh tế
quốc dân. Các đơn vị này hoạt động trong các lĩnh vực: y tế, giáo dục, đào
tạo, khoa học công nghệ và môi trường, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao,
sự nghiệp kinh tế, dịch vụ việc làm…
Đơn vị SNCL được xác định dựa vào các tiêu chuẩn sau:
- Có văn bản quyết định thành lập đơn vị sự nghiệp của cơ quan có
thẩm quyền ở Trung ương hoặc địa phương.
- Được Nhà nước cung cấp kinh phí và tài sản để hoạt động thực hiện
nhiệm vụ chính trị, chuyên môn và được phép thực hiện một số khoản thu
theo chế độ Nhà nước quy định.
- Có mở tài khoản tại kho bạc nhà nước hoặc ngân hàng để ký gửi các
khoản thu, chi tài chính.
Đơn vị sự nghiệp có thu là những tổ chức do Nhà nước thành lập nhằm
duy trì và đảm bảo sự hoạt động bình thường của xã hội, mang tính chất phục
vụ là chủ yếu, khơng vì mục đích lợi nhuận. Trong q trình hoạt động các
đơn vị này được Nhà nước cho phép thu các loại phí, lệ phí để đắp một phần
6
hay tồn bộ chi phí hoạt động, tăng thu nhập cho cán bộ viên chức và bổ sung
tái tạo chi phí hoạt động thường xuyên của đơn vị.
Khi nghiên cứu về các hoạt động kinh tế - xã hội của đời sống xã hội
loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin đã có những phân
tích, đánh giá khái qt trong xã hội có ít nhất 5 hệ thống:
Một là, hệ thống sản xuất vật chất làm chức năng chủ yếu bảo đảm sự
trao đổi vật chất giữa con người và thiên nhiên.
Hai là, hệ thống tái sản sinh và phát triển về mặt sinh học của con
người, bao gồm cả các hệ thống tổ chức gia đình cưới hỏi, hệ thống dịch vụ, y
tế và rèn luyện thân thể, chức năng của nó là duy trì lồi người.
Ba là, hệ thống sản xuất tinh thần, làm chức năng bồi dưỡng con người
về mặt tri thức, tình cảm và đạo đức để trở thành những thành viên tích cực
của xã hội.
Bốn là, hệ thống giao tiếp xã hội làm chức năng liên kết tất cả mọi
người trong cộng đồng xã hội, giúp cho xã hội hoạt động được như một hệ
thống hoàn chỉnh, đồng thời cũng giúp tạo thành những tầng lớp xã hội nhỏ
hơn trong xã hội lớn.
Năm là, hệ thống tổ chức và quản lý làm chức năng phối hợp sự hoạt
động của các hệ thống nhỏ trong hệ thống xã hội lớn nói chung.
Như vậy hoạt động sự nghiệp có liên quan đến toàn bộ hoạt động của
xã hội loài người. Mặc dù trong xã hội tồn tại nhiều loại hoạt động khác nhau
nhưng nếu phân chia theo tính chất thì có hai loại hoạt động lớn đó là: hoạt
động sản xuất kinh doanh và hoạt động sự nghiệp.
"Sự nghiệp" bản thân nó với nghĩa thơng thường nhất là chỉ những
cơng việc có lợi ích chung và lâu dài cho xã hội. Chính vì vậy, trên một
phương diện nào đó, khi nói đến hoạt động sự nghiệp với nghĩa thường dùng
7
là nói đến việc tổ chức thực hiện những cơng việc có lợi ích chung và lâu dài
cho cộng đồng xã hội.
Điểm khác nhau cơ bản giữa hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt
động sự nghiệp là ở chỗ: hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu tạo ra sản
phẩm vật chất cho xã hội, mang lại lợi ích trực tiếp cho chủ thể tổ chức ra
hoạt động đó. Ngược lại hoạt động sự nghiệp chủ yếu cung cấp các dịch vụ
cơng cho xã hội mà khơng vì mục đích sinh lợi thoả mãn nhu cầu chung, vì
lợi ích của cả cộng đồng về mặt kinh tế cũng như xã hội.
Từ cách nhìn nhận như vậy, có thể coi hoạt động sự nghiệp chủ yếu
mang ý nghĩa phục vụ cho hoạt động kinh tế và hoạt động xã hội. Những hoạt
động phục vụ cho hoạt động kinh tế gọi là hoạt động sự nghiệp kinh tế.
Những hoạt động phục vụ cho hoạt động văn hoá xã hội gọi là hoạt động sự
nghiệp văn hố xã hội. Qua đó, chúng ta thấy rằng hoạt động sự nghiệp thuộc
phạm trù thượng tầng kiến trúc nhưng nó có khả năng điều chỉnh hạ tầng cơ
sở.
1.1.2. Về phân loại đơn vị sự nghiệp công lập
Hoạt động của đơn vị SNCL trong xã hội rất đa dạng, phong phú và có
thể phân loại chúng theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động có thể phân thành:
- Đơn vị SNCL hoạt động trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật, bao gồm:
Các đoàn nghệ thuật; Trung tâm chiếu phim quốc gia; Nhà văn hoá; Thư viện,
Bảo tàng…
- Đơn vị SNCL hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo: Bao gồm
các cơ sở giáo dục công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
- Đơn vị SNCL hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học: Bao
gồm các viện nghiên cứu khoa học.
- Đơn vị SNCL hoạt động trong lĩnh vực thể dục thể thao.
8
- Đơn vị SNCL hoạt động trong lĩnh vực y tế.
- Đơn vị SNCL hoạt động trong lĩnh vực xã hội.
- Đơn vị SNCL hoạt động trong lĩnh vực kinh tế.
Ngoài các đơn vị SNCL ở các lĩnh vực nêu trên cịn có các đơn vị
SNCL trực thuộc các tổng cơng ty, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội.
Căn cứ nguồn thu sự nghiệp có thể phân thành:
- Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp bảo đảm tồn bộ chi phí cho hoạt động
thường xuyên (gọi là đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi phí hoạt động).
- Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp bảo đảm một phần chi phí cho hoạt
động thường xun, phần cịn lại được NSNN cấp (gọi là đơn vị sự nghiệp tự
đảm bảo một phần chi phí hoạt động).
- Đơn vị có nguồn sự nghiệp thấp, đơn vị sự nghiệp khơng có nguồn
thu, kinh phí hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ do NSNN
bảo đảm tồn bộ kinh phí hoạt động (gọi là đơn vị sự nghiệp do NSNN bảo
đảm toàn bộ chi phí hoạt động).
- Việc phân loại đơn vị sự nghiệp như trên được ổn định trong thời gian
3 năm, sau thời gian 3 năm sẽ xem xét phân loại lại cho phù hợp.
- Trong thời gian ổn định phân loại, trường đơn vị sự nghiệp có thay
đổi chức năng, nhiệm vụ, tổ chức thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem
xét điều chỉnh phân loại cho phù hợp.
- Hiện nay, cách xác định để phân loại đơn vị SNCL chủ yếu dựa vào
cách tính sau đây:
Mức tự đảm bảo chi phí
hoạt động thường xuyên
Tổng số nguồn thu sự nghiệp
× 100%
=
Tổng số chi hoạt động
thường xuyên
của đơn vị sự nghiệp (%)
- Tổng số thu sự nghiệp và tổng số chi hoạt động thường xuyên đơn vị
tính theo dự toán thu, chi của năm đầu thời kỳ ổn định.
9
Căn cứ vào mức tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên, đơn vị sự
nghiệp được phân làm 3 loại như sau:
Một là, đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi phí hoạt động:
Đơn vị sự nghiệp có mức tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên
xác định theo công thức trên, bằng hoặc lớn hơn 100%.
Đơn vị sự nghiệp đã tự đảm bảo chi phí hoạt động từ nguồn thu sự
nghiệp, từ nguồn NSNN do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước đặt hàng.
Hai là, đơn vị sự nghiệp đã tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động:
Là đơn vị sự nghiệp có mức tự đảm bảo chi phí hoạt động thường
xuyên xác định theo công thức trên, từ trên 10% đến dưới 1005.
Ba là, đơn vị sự nghiệp do NSNN bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động,
bao gồm:
Đơn vị có mức tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xun xác định
theo cơng thức trên, từ 10% trở xuống.
Đơn vị sự nghiệp không có nguồn thu.
1.1.3. Đặc điểm của đơn vị sự nghiệp cơng lập, đơn vị sự nghiệp có thu
1.1.3.1. Đặc điểm của đơn vị sự nghiệp công lập:
Thứ nhất: Đơn vị SNCL là một tổ chức hoạt động theo nguyên tắc phục
vụ xã hội, khơng vì mục đích kiếm lời.
Trong nền kinh tế thị trường, các sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự
nghiệp tạo ra đều có thể trở thành hàng hoá cung ứng cho mọi thành phần trong
xã hội. Việc cung ứng các hàng hoá này cho thị trường chủ yếu khơng vì mục
đích lợi nhuận như hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước tổ chức, duy trì và
tài trợ cho các hoạt động sự nghiệp để cung cấp các sản phẩm, dịch vụ cho thị
trường trước hết nhằm thực hiện vai trò của Nhà nước trong việc phân phối lại
thu nhập và thực hiện các chính sách phúc lợi công cộng khi can thiệp vào thị
trường. Nhờ đó sẽ hỗ trợ cho các ngành, các lĩnh vực kinh tế hoạt động bình
10
thường, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đảm bảo nguồn nhân lực, thúc đẩy
hoạt động kinh tế phát triển và ngày càng đạt hiệu quả cao hơn, đảm bảo và
không ngừng nâng cao đời sống, sức khoẻ, văn hoá, tinh thần của nhân dân.
Thứ hai: Sản phẩm của các đơn vị sự nghiệp công lập mang lại lợi ích
chung có tính bền vững và gắn bó hữu cơ với quá trình tạo ra của cải vật
chất và giá trị tinh thần.
Sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra chủ yếu là những giá
trị về tri thức, văn hoá, phát minh, sức khoẻ, đạo đức, các giá trị về xã hội…
Đây là nhiều sản phẩm vô hình và có thể dùng chung cho nhiều người, cho
nhiều đối tượng trên phạm vi rộng. Nhìn chung, đại bộ phận các sản phẩm của
đơn vị sự nghiệp sản phẩm có tính phục vụ khơng chỉ bó hẹp trong một ngành
hoặc một lĩnh vực nhất định mà nhiều sản phẩm đó khi tiêu dùng thường có
tác dụng lan toả, truyền kiếp..
Mặt khác sản phẩm của các hoạt động sự nghiệp chủ yếu là tạo ra các
"hàng hố cơng cộng" ở dạng vật chất và phi vật chất, phục vụ trực tiếp hoặc
gián tiếp quá trình tái sản xuất xã hội. Hàng hố cơng cộng, với hai đặc điểm:
"khơng loại trừ" và "khơng tranh giành". Nói cách khác, đó là nhiều hàng hố
mà khơng ai có thể loại trừ những người tiêu dùng khác ra khỏi việc sử dụng
nó và tiêu dùng của một người này không loại trừ việc tiêu dùng của một
người khác.
Nhờ sử dụng nhiều "hàng hố cơng cộng" do hoạt động sự nghiệp tạo
ra mà quá trình sản xuất của cải vật chất được thuận lợi và ngày càng đạt hiệu
quả cao, chẳng hạn hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục thể
thao đem đến tri thức và đảm bảo sức khoẻ cho lực lượng lao động, tạo điều
kiện cho lao động có chất lượng ngày càng tốt hơn; hoạt động sự nghiệp khoa
học, văn hố thơng tin mang lại những hiểu biết của con người về tự nhiên, xã
hội tạo ra những công nghệ mới phục vụ sản xuất và đời sống… Vì vậy hoạt
11
động sự nghiệp ln gắn bó hữu cơ và tác động tích cực đến q trình tái sản
xuất xã hội.
Thứ ba: Hoạt động sự nghiệp của các đơn vị SNCL ln gắn liền và bị
chi phối bởi các chương trình phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước.
Với chức năng của mình, nhà nước ln tổ chức, duy trì và bảo đảm
hoạt động sự nghiệp để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Để
thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định, Chính phủ tổ chức thực
hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia như: chương trình xố mù chữ,
chương trình chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, chương trình dân số - kế hoạch
hố gia đình, chương trình phịng chống AIDS, chương trình phịng chống tội
phạm, chương trình xố đói giảm nghèo, chương trình phủ sóng phát thanh
truyền hình… Những chương trình, mục tiêu quốc gia này chỉ có Nhà nước,
với vai trị của mình mới có thể thực hiện một cách triệt để và có hiệu quả.
Nếu để tư nhân thực hiện, họ vì mục tiêu lợi nhuận sẽ hạn chế đến tiêu dùng
trong xã hội và do đó xã hội khơng thể phát triển cân đối được.
1.1.3.2. Đặc điểm đơn vị sự nghiệp có thu
Thứ nhất, được tự chủ tài chính, được chủ động bố trí kinh phí để thực
hiện nhiệm vụ, được ổn định kinh phí hoạt động thường xuyên do ngân sách
nhà nước cấp đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí theo định kỳ 3 năm
và hàng năm được tăng thêm theo tỷ lệ do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Thứ hai, được vay tín dụng ngân hàng hoặc Quỹ hỗ trợ phát triển để
mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp, tổ chức cung ứng dịch
vụ và tự chịu trách nhiệm trả nợ vay theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, được quản lý, sử dụng tài sản nhà nước theo quy định đối với
đơn vị hành chính sự nghiệp. đối với tài sản cố định sử dụng vào sản xuất,
cung ứng dịch vụ thực hiện trích khấu hao thu hồi vốn theo chế độ áp dụng
cho các doanh nghiệp nhà nước. Số tiền trích khấu hao tài sản cố định và tiền
12
thu do thanh lý tài sản cố định thuộc ngân sách nhà nước được để lại đầu tư
tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị của đơn vị.
Thứ tư, được mở tài khoản tiền gửi ngân hàng hoặc kho bạc nhà nước
để phản ánh các khoản thu, chi của hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ; mở
tài khoản tại Kho bạc nhà nước để phản ánh các khoản kinh phí thuộc ngân
sách nhà nước.
Thứ năm, được chủ động sử dụng số biên chế được cấp có thẩm quyền
giao; sắp xếp và quản lý lao động phù hợp với chức năng nhiệm vụ của đơn vị
theo Pháp lệnh cán bộ, công chức và chủ trương tinh giảm biên chế của Nhà
nước. Những người thuộc diện tinh giảm biên chế được hưởng chế độ, quyền
lợi do Nhà nước quy định.
Thứ sáu, được chủ động xây dựng tiêu chuẩn, định mức và chế độ chi
tiêu nội bộ, để bảo đảm hoạt động thường xuyên cho phù hợp với hoạt động
đặc thù của đơn vị và tăng cường công tác quản lý, sử dụng kinh phí tiết kiệm
có hiệu quả trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật và chế độ chi tiêu tài chính
hiện hành của Nhà nước.
Thứ bẩy, đối với các khoản chi thuộc phạm vi xây dựng quy chế chi
tiêu nội bộ (chi quản lý chi nghiệp vụ thường xuyên) đã có chế độ tiêu chuẩn,
định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định trừ nội dung chi tại tiết e
khoản 2 Điều 15 Nghị định 43/2006/NĐ/CP, thủ trưởng đơn vị sự nghiệp được.
Thứ tám, đối với đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi phí hoạt động và
đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động: Thủ trưởng đơn vị
được quyết định mức chi quản lý và chi nghiệp vụ cao hơn hoặc thấp hơn
mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
Đối với những nội dung chi, mức chi cần thiết cho hoạt động của đơn
vị, trong phạm vi xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, nhưng cơ quan nhà nước có
13
thẩm quyền chưa ban hành, thì thủ trưởng đơn vị có thể xây dựng mức chi cho
từng nhiệm vụ, nội dung cơng việc trong phạm vi nguồn tài chính của đơn vị.
Nhà nước khuyến khích các đơn vị sự nghiệp tăng thu, tiết kiệm chi,
tăng thêm thu nhập cho người lao động trong năm không quá 2 lần quỹ tiền
lương cấp bậc, chức vụ trong năm do Nhà nước quyết định sau khi đã thực
hiện trích lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp (đối với đơn vị tự bảo đảm
một phần chi phí) và (đối với đơn vị tự bảo đảm tồn bộ chi phí) thì được
quyết định tổng mức thu nhập trong năm theo quy chế chi tiêu nội bộ.
Hàng năm căn cứ vào kết quả hoạt động tài chính, sau khi trang trải các
khoản chi phí, nộp thuế và các khoản nộp khác (nếu có) cho ngân sách nhà
nước; nếu cịn chênh lệch đơn vị được trích lập 4 quỹ: Quỹ dự phòng ổn định
thu nhập, Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi, Quỹ phát triển hoạt động sự
nghiệp. Mức trích Quỹ khen thưởng và phúc lợi khơng vượt quá 3 tháng tiền
lương, tiền công và thu nhập tăng thêm bình qn trong năm. Trích tối thiểu
25% số chênh lệch thu lớn hơn chi để lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp
và trích Quỹ dự phịng ổn định thu nhập sau khi đã trích lập 3 quỹ trên.
Khi Nhà nước điều chỉnh các quy định về tiền lương, nâng mức lương
tối thiểu hoặc thay đổi định mức, chế độ, tiêu chuẩn chi ngân sách nhà nước
thì các đơn vị sự nghiệp phải bảo đảm tự trang trải các khoản chi tăng thêm
theo chính sách chế độ mới từ các nguồn: thu sự nghiệp, các khoản tiết kiệm
chi, các quỹ của đơn vị.
Trường hợp sau khi đã sử dụng các nguồn trên, nhưng vẫn không đảm
bảo đủ tiền lương tăng thêm theo chế độ Nhà nước quy định, phần còn thiếu
sẽ được Nhà nước xem xét, bổ sung để đảm bảo chế độ tiền lương chung theo
quy định của chính phủ.
1.2. VAI TRỊ CỦA ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG
14
Thứ nhất, xuất phát từ chức năng của đơn vị hoạt động sự nghiệp
Trong thời đại ngày nay, một nước giàu hay nghèo khơng phải do có
nhiều hay ít lao động và tài nguyên thiên nhiên mà chủ yếu là do khả năng
phát huy tiềm năng sáng tạo nguồn lực con người lớn hay nhỏ. Tiềm năng
sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành con người về trình độ văn hoá,
tri thức khoa học, thể lực, tâm hồn, đạo đức lối sống, thị hiếu, thẩm mỹ, giao
tiếp của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng.
Để khơi dậy tiềm năng con người phải thông qua các đơn vị sự nghiệp
nhằm phát triển toàn diện của con người. Và con người chỉ có thể phát triển
tồn diện thơng qua các hoạt động sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học, thể
dục thể thao, y tế. Trong đó:
Chức năng của các đơn vị sự nghiệp có thu trong lĩnh vực văn hố thơng tin, giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế, thể dục thể thao...góp
phần sáng tạo ra những sản phẩm đặc biệt. Các sản phẩm này khơng chỉ ở
dạng vật chất mà cịn ở dạng phi vật chất như: Trình độ văn hố, kiến thức
khoa học (tự nhiên, xã hội, nhân văn), quan điểm chính trị, tư tưởng đạo đức,
thẩm mỹ kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, sức khoẻ, tài năng...
Với chức năng phục vụ xã hội, các đơn vị sự nghiệp các lĩnh vực giáo
dục đào tạo, thể dục thể thao, y tế... có khả năng tạo ra giá trị tinh thần vơ hạn
không thể đo bằng giá trị tiền tệ hữu hạn. Những đơn vị sự nghiệp đó tạo ra
sản phẩm là các trường học, bệnh viện, các đoàn nghệ thuật, các viện nghiên
cứu khoa học, đài truyền hình... những đơn vị này khơng thể và càng khơng
hạch tốn được lỗ lãi đơn thuần bởi sản phẩm của nó thuộc chức năng phục
vụ nhân dân, phục vụ xã hội.
Mặt khác, mỗi sản phẩm của các đơn vị sự nghiệp tạo ra đều mang
trong nó giá trị lao động hao phí. Để bù đắp phần hao phí đó, đơn vị sự
nghiệp phải thu lại của người hưởng thụ một phần chi phí. Đồng thời, khi các
15
đơn vị sự nghiệp tạo ra những sản phẩm đặc biệt vừa phục vụ chính trị - xã
hội vừa mang tính chất hàng hố địi hỏi phải bù đắp chi phí. Từ đó làm căn
cứ kinh tế của các hoạt động sự nghiệp có thu và các đơn vị sự nghiệp có thu
trong lĩnh vực này.
Thứ hai, vai trị quản lý vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta
hiện nay do đòi hỏi khách quan lực lượng sản xuất phát triển thì u cầu đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập quốc tế trong đó tồn bộ q
trình từ sản xuất tới phân phối, trao đổi và tiêu dùng được thực hiện thông qua
thị trường.
Cơ chế thị trường là cơ chế vận hành khách quan của nền kinh tế thị
trường dựa trên các quan hệ, các quy luật cơ bản của thị trường như: Quy luật
giá trị, quan hệ hàng hoá tiền tệ, quy luật cung cầu, , quy luật cạnh tranh, quy
luật lưu thông tiền tệ…
Nền kinh tế thị trường tạo điều kiện khách quan nhằm phát huy tối đa
sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh trong mọi lĩnh vực sản
xuất, tiêu dùng và trong từng lĩnh vực văn hố thơng tin, giáo dục đào tạo,
nghiên cứu ứng dụng khoa học, y tế, thể dục thể thao... Cơ chế thị trường tạo
động lực và thước đo quan trọng để từng người, từng đơn vị, từng ngành cũng
như toàn bộ nền kinh tế - xã hội nâng cao hiệu quả kinh tế, chính trị, xã hội.
Để đứng vững trong cơ chế thị trường, từng lĩnh vực văn hố - thơng
tin, giáo dục - đào tạo... không những phải vươn lên trong cạnh tranh chất
lượng sản phẩm về giá trị văn hố, trình độ trí tuệ, thẩm mỹ, giá trị đạo đức,
tính dân tộc, tính hiện đại... mà cịn cạnh tranh về giá trị tiền tệ, hạ giá thành
sản phẩm để nhiều người được hưởng thụ, nhiều người được sử dụng.
16
Mặt tiêu cực của kinh tế thị trường là do chạy theo lợi nhuận, các chủ
thể không muốn đầu tư vào những lĩnh vực ít lợi nhuận, những vùng khó khăn
(núi cao, vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo) không thuận lợi thậm chí cịn thua
lỗ... nhưng xã hội rất cần có. Đặc biệt là những sản phẩm và dịch vụ cơng
cộng. Điều đó địi hỏi nhà nước phải thơng qua hình thức hợp đồng đầu tư để
nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nhân lực, cung cấp sản phẩm
thơng tin văn hố, phát thanh truyền hình, bảo vệ sức khoẻ chống bệnh tật, tệ
nạn xã hội...
Trong nền kinh tế thị trường các lĩnh vực văn hoá thông tin, giáo dục
đào tạo, nghiên cứu khoa học, thể dục thể thao, y tế được xây dựng dưới hình
thức các đơn vị sự nghiệp có thu và phải tự vận hành để thích nghi với các
quy luật khách quan (quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh...). Đồng thời phải
thực hiện chức năng phục vụ nhân dân. Đó là sự tồn tại khách quan của hoạt
động sự nghiệp có thu và đơn vị sự nghiệp có thu trong nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, xuất phát từ chủ trương đa dạng hố nguồn tài chính cho các
hoạt động sự nghiệp
Mục tiêu cơng nghiệp hố, hiện đại hố là xây dựng nước ta thành một
nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, dân giàu nước mạnh, xã
hội cơng bằng dân chủ và văn minh. Đó là một xã hội phát triển trong đó các
hoạt động kinh tế, văn hố xã hội khơng cịn là những tổ chức riêng rẽ, phân
tán mà được hợp tác liên kết, quan hệ với nhau trong sự phân công lao động
xã hội ngày càng phát triển theo chiều rộng và chiều sâu. Nghĩa là các hoạt
động kinh tế, văn hoá xã hội được "xã hội hoá", mọi lực lượng từ Nhà nước
đến tập thể, tư nhân đều có trách nhiệm thực hiện, nói cách khác "cả xã hội
cùng làm", "Nhà nước và nhân dân cùng làm" kinh tế, văn hoá, xã hội.
Đa dạng hố nguồn tài chính trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục đào tạo,
nghiên cứu khoa học, thể dục thể thao, y tế... là thực hiện xã hội hoá nguồn tài
17
chính nhằm làm cho mọi người dân, mọi tổ chức, mọi thành phần kinh tế
nhận thức và thực hiện nghĩa vụ, quyền hạn, lợi ích trong sự nghiệp phát triển
và hưởng thụ thành quả của các hoạt động sự nghiệp này.
Như vậy, các đơn vị sự nghiệp có thu có chức năng chính là thực hiện
nhiệm vụ chính trị chuyên môn để tạo ra những sản phẩm chủ yếu phục vụ
các giá trị tinh thần, giá trị đạo đức, trình độ kiến thức, thẩm mỹ, sức khoẻ, kỹ
năng, kỹ xảo... đồng thời tận dụng khả năng về nhân lực, vật lực của đơn vị để
hoạt động, cung cấp sản phẩm thơng tin văn hố, phát thanh truyền hình, bảo
vệ sức khoẻ chống bệnh tật, tệ nạn xã hội...
Trong nền kinh tế thị trường các lĩnh vực văn hố thơng tin, giáo dục
đào tạo, nghiên cứu khoa học, thể dục thể thao, y tế... phải tự vận hành để
thích nghi với các quy luật khách quan (quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh...)
đồng thời phải thực hiện chức năng phục vụ nhân dân. Đó là sự tồn tại khách
quan của hoạt động sự nghiệp có thu và đơn vị sự nghiệp có thu trong nền
kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, các đơn vị này không thực hiện cơ chế quản lý tài chính
giống như đối với Tổng cơng ty nhà nước hoặc doanh nghiệp cơng ích, nó địi
hỏi một cơ chế quản lý thích hợp để đảm nhiệm chức năng vừa phục vụ nhân
dân vừa xây dựng thượng tầng kiến trúc lại vừa khai thác nguồn thu để phát
triển hoạt động của mình. Vì vậy, nó tồn tại tất yếu khách quan không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
1.3. CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ THU
1.3.1. Một số vấn đề cơ bản về cơ chế tự chủ tài chính
Có nhiều cách hiểu khác nhau về cơ chế, song có thể hiểu một cách
chung nhất: cơ chế là quá trình chuyển động dây chuyền của các bộ phận cáu
18
thành hệ thống, trong đó có bộ phận khởi động và chủ động, các bộ phận bị
động trung gian (bộ phận truyền dẫn) và bộ phận hoạt động cuối cùng.
Tự chủ là mối quan hệ giữa quyền và trách nhiệm của một bên là cấp
quản lý và một bên là cấp bị quản lý. Trên cơ sở pháp luật cấp quản lý trao
quyền tự chủ cho các chủ thể bị quản lý. Khi được trao quyền tự chủ thực sự,
được tồn quyền hành động trong khn khổ pháp luật, các chủ thể quản lý
hành động sẽ tăng tính chủ động và năng động đối với những hoạt động của
mình, đồng thời cũng chịu trách nhiệm hoàn toàn trước cấp quản lý về những
hoạt động đó. Tự chủ bao gồm 3 lĩnh vực quan trọng sau:
+ Tự chủ về quản lý chuyên môn, thực hiện nhiệm vụ.
+ Tự chủ về quản lý nhân sự, bộ máy.
+ Tự chủ về quản lý tài chính.
Cơ chế tự chủ là các chủ thể có quyền "tự quyết" thực sự, được quyền
hành động trong khuôn khổ pháp luật, tăng tính chủ động và năng động của
chủ thể hành động. Trên cơ sở đó, Nhà nước trao quyền tự chủ cho các cơ sở
bằng các hình thức của lý thuyết trao quyền và uỷ quyền nhưng không làm
giảm quyền lực thực thụ của Nhà nước trong quản lý.
Tự chủ tài chính là các chủ thể có quyền "tự quyết", được quyền hành
động trong khuôn khổ của pháp luật đối với các hoạt động tạo lập, phân phối
và sử dụng các nguồn tài chính của đơn vị mình.
Một nguyên tắc để quản lý tốt hoạt động chi ngân sách là cần kết hợp
chặt chẽ giữa hai yếu tố thẩm quyền và trách nhiệm.
Để cung cấp dịch vụ cơng một cách nhanh chóng và có hiệu quả, các
đơn vị sử dụng ngân sách cần được giao quyền một cách rõ ràng, được phân
bổ các nguồn lực một cách phù hợp và có trách nhiệm đối với việc sử dụng
các nguồn lực được giao để thực hiện các nhiệm vụ của mình.
19
Do đó, khi các đơn vị sự nghiệp có thu thực hiện tự chủ tài chính, phải
gắn tự chủ với việc tự chịu trách nhiệm. Tự chịu trách nhiệm của một chủ thể
là việc chủ thể đó tự đánh giá và tự giám sát việc thực hiện các quy định của
cấp có thẩm quyền, sẵn sàng giải trình và cơng khai hố các hoạt động của
mình, đồng thời chịu trách nhiệm về kết quả của hoạt động đó.
1.3.2. Nội dung cơ chế tự chủ tài chính
1.3.2.1. Nội dung các nguồn thu
Nguồn tài chính
Một là, kinh phí do ngân sách nhà nước cấp gồm:
- Kinh phí hoạt động thường xuyên thực hiện chức năng, nhiệm vụ đối
với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động (sau khi đã cân đối nguồn
thu sự nghiệp);
- Kinh phí thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ.
- Kinh phí thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ viên chức
đơn vị sự nghiệp của Nhà nước.
- Kinh phí thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia.
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước cấp có thẩm quyền
giao
- Kinh phí thực hiện chính sách tinh giản biên chế theo chế độ do Nhà
nước quy định.
- Vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua sắm trang thiết bị, sửa
chữa lớn tài sản cố định phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có
thẩm quyền phê duyệt trong phạm vi dự toán được giao hàng năm.
- Vốn đối ứng dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Kinh phí khác (nếu có)
Hai là, nguồn thu sự nghiệp gồm:
20
- Phần được để lại từ số phí, lệ phí cho đơn vị sử dụng theo quy định
của Nhà nước.
- Thu từ dịch vụ cung cấp hàng hoá, dịch vụ.
- Thu sự nghiệp khác (nếu có)
Ba là, nguồn thu khác của đơn vị sự nghiệp gồm:
- Nguồn vốn khấu hao cơ bản tài sản cố định và tiền thu thanh lý tài sản
được để lại theo quy định.
- Nguồn viện trợ, dự án tài trợ trong và ngoài nước.
- Nguồn vốn vay của các cá nhân, tổ chức tín dụng trong và ngoài
nước.
- Nguồn vốn tham gia liên doanh, liên kết của các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
- Lãi được chia từ hoạt động liên doanh, liên kết.
- Nguồn khác (nếu có)
Đơn vị sự nghiệp có thu tự chủ trong việc quyết định các khoản thu,
mức thu
Đơn vị sự nghiệp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thu phí,
lệ phí phải thực hiện thu đúng, thu đủ theo mức thu và đối tượng thu do Nhà
nước quy định. Trường hợp Nhà nước quy định khung thu thì đơn vị căn cứ
nhu cầu chi phục vụ cho hoạt động, khả năng đóng góp của xã hội để quyết
định mức thu cụ thể cho phù hợp với từng loại hoạt động, từng đối tượng,
nhưng không được vượt quá khung do cơ quan có thẩm quyền quy định. Đơn
vị thực hiện chế độ miễn, giảm cho các đối tượng chính sách - xã hội theo quy
định của Nhà nước.
Đối với sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được cơ quan nhà nước đặt hàng
thì mức thu theo đơn giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
Trường hợp sản phẩm chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định
21
giá thì chi phí được xác định trên cơ sở dự tốn chi phí được cơ quan tài chính
cùng cấp có thẩm định chấp thuận.
Đối với những hoạt động cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo hợp đồng
cho các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước; các hoạt động liên doanh,
liên kết; đơn vị được quyết định các khoản thu, mức thu cho phù hợp, bảo
đảm đủ bù đắp chi phí, có tích luỹ.
1.3.2.2. Nội dung các khoản chi
Các khoản chi
Chi thường xuyên:
- Chi hoạt động thường xuyên theo chức năng nhiệm vụ được cấp có
thẩm quyền giao.
- Chi co các hoạt động cung cấp hàng hoá, dịch vụ (kể cả chi nộp thuế,
trích khấu hao tài sản cố định theo quy định).
- Chi hoạt động thường xun phục vụ cơng tác thu phí và lệ phí.
- Chi thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học đối với đơn vị sự nghiệp
khoa học.
Chi không thường xuyên:
- Chi thực hiện các đề tài nghiên cứu kế hoạch (đối với đơn vị sự nghiệp
khác).
- Chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia.
- Chi thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước đặt hàng (điều tra, quy
hoạch, khảo sát...) theo giá hoặc khung giá do Nhà nước quy định.
- Chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có vốn nước ngồi theo quy
định.
- Chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao.
- Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do Nhà nước quy định.
- Chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài
sản cố định thực hiện các dự án được cấp có thẩm quyền phê duỵet.
- Chi cho các hoạt động liên doanh, liên kết.
22
- Các khoản chi khác (nếu có)
Tự chủ về sử dụng nguồn tài chính:
Căn cứ vào nhiệm vụ được giao và nguồn tài chính; đơn vị được quyết
định một số mức chi cao hơn hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quy định theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Đơn vị được chủ động bố trí kinh phí nghiên cứu khoa học đã được cấp
có thẩm quyền giao kinh phí nghiên cứu cho từng đề tài khoa học trên cơ sở
đảm bảo chất lượng nghiên cứu, được hội đồng khoa học nghiệm thu kết quả
nghiên cứu.
Căn cứ tính chất cơng việc, thủ trưởng đơn vị thực hiện và quyết định
phương thức khốn chi phí cho từng phòng, ban, từng đơn vị trực thuộc.
Quyết định đầu tư, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc từ
nguồn vốn vay, quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp theo đề án được cấp có
thẩm quyền phê duyệt.
1.3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế tự chủ tài chính tại
đơn vị sự nghiệp có thu
1.3.3.1. Cơ chế quản lý tài chính
Cơ chế quản lý tài chính là tổng thể các phương pháp, cơng cụ và hình
thức tác động lên một hệ thống để liên kết phối hợp hành động giữa các bộ
phận thành viên trong hệ thống nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng của quản
lý. Quyết định sự thành cơng hay thất bại trong quản lý nói chung và trong
quản lý thu - chi tại đơn vị nói riêng, đó chính là phương pháp và cơng cụ
quản lý.
Cơ chế quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp có thu là một nhân tố có ảnh
hưởng quan trọng tới cơng tác tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp có thu.
Nó có vị trí rất quan trọng thể hiện ở những nội dung cơ bản sau đây:
23
Một là, cơ chế quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp có thu có vai trị
cân đối giữa việc hình thành, tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính (các
nguồn thu) nhằm đáp ứng các yêu cầu hoạt động (các khoản chi) của đơn vị
sự nghiệp có thu. Do đó, cơ chế phải được xây dựng phù hợp với loại hình
hoạt động của đơn vị nhằm tăng cường và tập trung nguồn lực tài chính, đảm
bảo sự linh hoạt, năng động và phong phú đa dạng về hình thức, giúp cho các
đơn vị sự nghiệp có thu hoàn thành tốt nhiệm vụ được Nhà nước giao.
Hai là, cơ chế quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp có thu tác động đến
q trình chi tiêu ngân quỹ quốc gia, ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện và
hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị sự nghiệp có thu. Vì vậy, cơ chế đó phải
khắc phục được tình trạng lãng phí các nguồn tài chính, đồng thời khuyến
khích sử dụng tiết kiệm trong chi tiêu và tôn trọng nhiệm vụ và hoạt động
nghiệp vụ chuyên môn của đơn vị sự nghiệp có thu.
Ba là, cơ chế quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp có thu đóng vai trị
như một cán cân cơng lý, đảm bảo tính cơng bằng hợp lý trong việc phân
phối, sử dụng các nguồn lực tài chính giữa các loại hình đơn vị sự nghiệp có
thu, nhằm tạo mơi trường bình đẳng, cũng như sự phát triển hài hoà giữa các
ngành, các lĩnh vực khác nhau trong khu vực sự nghiệp có thu.
Bốn là, cơ chế quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp có thu góp phần
tạo hành lang pháp lý cho quá trình tạo lập và sử dụng nguồn tài chính trong
các đơn vị sự nghiệp có thu. Nó được xây dựng trên quan điểm thống nhất và
hợp lý, từ việc xây dựng các định mức, tiêu chuẩn chi tiêu đến quy định về
cấp phát, kiểm tra, kiểm sốt q trình chi tiêu nhằm phát huy vai trị của cơ
chế tự chủ tài chính, đạt được mục tiêu của kinh tế vĩ mô. Mặt khác, cơ chế
quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp có thu quy định khung pháp lý về mơ hình
tổ chức, hoạt động của đơn vị sự nghiệp có thu. Chính vì vậy, xây dựng cơ
chế quản lý tài chính phải quan tâm về tổ chức bộ máy, đào tạo bồi dưỡng