Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Luận văn hợp tác xã nông nghiệp ở huyện hoà vang thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.14 KB, 103 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhận thức đúng đắn về vai trò chiến lược, tầm quan trọng của kinh tế
tập thể trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN là một vấn đề
quan trọng, nhưng việc nghiên cứu, đánh giá đúng tình hình thực tế kinh tế
tập thể của cả nước nói chung cịn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hơn trong
giai đoạn hiện nay. Bởi vì, chỉ có trên cơ sở thực tế khách quan ấy, Đảng và
Nhà nước mới đề ra những giải pháp thích hợp, tích cực nhằm đổi mới, phát
triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh tế tập thể ngang tầm nhiệm vụ và
sứ mệnh loại hình kinh tế này. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X chỉ rõ:
Tiếp tục đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể.
Tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể để khuyến
khích phát triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về
hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh bao gồm
các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới. Chú trọng phát triển và nâng
cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã cổ
phần... [13, tr.236].
Huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng thuộc vùng Trung Trung Bộ, với
tiềm năng đất đai hiện có, tương lai phát triển của ngành nơng nghiệp thành
phố Đà Nẵng là chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất nơng nghiệp theo hướng
sản xuất hàng hố phù hợp với hệ sinh thái của mỗi vùng: thoát dần độc canh
cây lúa theo hướng đa dạng hoá cây trồng, tăng nhanh sản xuất cây công
nghiệp, cây thực phẩm, cây ăn quả và phát triển chăn nuôi. Do vậy, phải quan
tâm phát triển kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp.
Từ sau khi thực hiện Chỉ thị 68/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương
Đảng khố VII về chuyển đổi hoạt động của HTX nông nghiệp theo Luật


2
HTX. Ở thành phố Đà Nẵng đã có bước chuyển biến về số lượng và chất


lượng hoạt động của HTX thích ứng với cơ chế thị trường, góp phần phát
triển kinh tế hộ, trên 90% số HTXNN kinh doanh có lãi.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số HTX tồn tại hình thức, nhiều HTX
lúng túng trong hoạt động SX-KD, năng lực nội tại còn hạn chế chưa tương
xứng vai trị, vị trí tiềm năng của nó. Đề án số 38/ĐA- UB ngày 15 tháng 7
năm 2002 của UBND thành phố Đà Nẵng về tiếp tục đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể ở thành phố Đà Nẵng đánh giá:
Kinh tế hợp tác, HTX từ khi chuyển đổi theo luật HTX, trừ
một số HTX nông nghiệp sau khi chuyển đổi hoạt động tương đối
hiệu quả còn lại đa số lúng túng trong phương hướng hoạt động,
nhiều hợp tác xã nông nghiệp hoạt động yếu kém, chỉ làm được một
số khâu dịch vụ, chưa làm tốt chức năng kinh doanh tổng hợp và
dịch vụ sản xuất nông nghiệp, một số hợp tác xã hoạt động cầm
chừng, chủ yếu dựa vào hoạt động dịch vụ như điện, thuỷ nơng,
phân bón, thuốc trừ sâu để hoạt động, tình hình nợ cịn dây dưa kéo
dài khơng thu được, nguồn vốn không đáp ứng cho hoạt động sản
xuất kinh doanh [9, tr.2].
Do vậy, tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học
kinh nghiệm của những mô hình HTX hoạt động có hiệu quả, đồng thời đề
xuất những giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc đang đặt ra
về kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở huyện Hoà Vang, thành phố Đà
Nẵng là một việc làm thiết thực, cấp bách mà thực tiễn đang đặt ra góp
phần đẩy nhanh q trình CNH, HĐH nơng nghiệp nơng thơn ở nước ta
hiện nay.
Với lý do đó, tác giả chọn đề tài: “Hợp tác xã nông nghiệp ở huyện
Hoà Vang thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành


3
Kinh tế - Chính trị nhằm góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá

trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan tới đề tài
Đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể mà nòng cốt là
các hợp tác xã là vấn đề lớn, mang tính chiến lược ln được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm. Sự quan tâm đó thể hiện thơng qua đường lối, chủ trương
chính sách và sự đầu tư nhiều mặt của Đảng và Nhà nước cho khu vực kinh tế
tập thể nói chung và HTX nói riêng.
Trong q trình cách mạng XHCN ở nước ta, đặc biệt từ khi có Chỉ thị
68/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khố VII và Luật HTX (ban
hành năm 1996) về chuyển đổi hoạt động của HTX nông nghiệp cho đến nay
được nhiều cơ quan, nhiều nhà khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ, phạm
vi và mức độ khác nhau, cụ thể như:
- Nguyễn Văn Bính, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng (2001): “Kinh tế
hợp tác - HTX ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển”, Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội.
- Hồ Văn Vĩnh (2004): Cơ sở lý luận và thực tiễn của mơ hình phát
triển HTX nơng nghiệp ở nước ta. Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Hồ Văn Vĩnh (2005): Phát triển hợp tác xã nông nghiệp trong thời kỳ
cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta. Tạp chí cộng sản số 8.
- Vũ Văn Phúc (2004) “Vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển hợp
tác xã nông nghiệp ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI.
- Phạm Thị Cầm, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ (2003) “Kinh tế hợp
tác trong nông nghiệp nước ta hiện nay” Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Hà (2000) “Kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.


4

- Trần Minh Tâm (2000) về “Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành
Thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ Kinh tế,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Đặng Hùng Anh “Phát triển kinh tế hợp tác nông nghiệp trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang", Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Huy Oánh (2005) “Tìm hiểu quan điểm của Mác-Ănghen,
Lênin về sở hữu tập thể và kinh tế tập thể”, Thơng tin những vấn đề kinh tế
chính trị học, số 05, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Kỷ yếu khoa học đề tài cấp bộ năm 2003 - 2004 “Mơ hình phát triển
hợp tác xã nơng nghiệp trong tiến trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng
nghiệp, nơng thơn hai thập niên đầu thế kỷ XXI”, Khoa Quản lý kinh tế, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Các cơng trình đã đề cập đến vấn đề HTX với những nội dung chủ yếu
như:
- Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của kinh tế hợp tác và HTX.
- Đánh giá thực trạng hoạt động của kinh tế hợp tác và HTX trước
và sau đổi mới nói chung và sau khi thực hiện chuyển đổi HTX nói riêng,
đánh giá việc thực hiện luật HTX của một số địa phương và trên phạm vi
cả nước.
- Phân tích những đặc trưng của mơ hình HTX kiểu mới, trình bày
những kinh nghiệm hoạt động và những kiến nghị, giải pháp, chính sách cụ
thể về phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt HTX nơng nghiệp.
Nhưng ở huyện Hồ Vang, thành phố Đà Nẵng cho đến nay chưa có
một đề tài nào tập trung nghiên cứu cụ thể về hoạt động của kinh tế tập thể
nói chung và HTX nơng nghiệp nói riêng. Vì vậy, trong khuôn khổ luận
văn này, tác giả muốn kế thừa thành quả nghiên cứu của các cơng trình
trên, đồng thời vận dụng tinh thần Nghị quyết TW 5 khoá IX và Luật


5

HTX 2003 vào nghiên cứu, khảo sát, đánh giá hoạt động của các HTX
nông nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, từ đó đề xuất những kinh
nghiệm các mơ hình HTX hoạt động có hiệu quả và những giải pháp tiếp
tục phát triển HTX nơng nghiệp ở huyện Hồ Vang, thành phố Đà Nẵng
trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng mơ hình hợp tác xã nơng
nghiệp ở huyện Hồ Vang thành phố Đà Nẵng. Từ đó đề xuất những giải pháp
phát triển hợp tác xã nơng nghiệp ở huyện Hồ Vang thành phố Đà Nẵng thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về HTX nông nghiệp và sự cần thiết
phát triển HTX nông nghiệp là một tất yếu khách quan.
Thứ hai, phân tích đánh giá thực trạng hình thành và phát triển các mơ hình
Hợp tác xã nơng nghiệp ở huyện Hồ Vang thành phố Đà Nẵng thời gian qua.
Thứ ba, đề xuất những giải pháp phát triển kinh tế HTX nơng nghiệp ở
huyện Hồ Vang thành phố Đà Nẵng thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là HTX nông nghiệp ở huyện Hồ
Vang
- Phạm vi nghiên cứu là một số mơ hình hợp tác xã nơng nghiệp ở
huyện Hồ Vang thành phố Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm


6
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, các Nghị quyết của Đảng bộ

địa phương.
5.2. Cơ sở phương pháp luận: Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Bên cạnh đó, luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, xử lý số
liệu điều tra chọn mẫu và các số liệu thường niên của Phòng Nơng nghiệp
& PTNT các huyện Hồ Vang, Liên minh HTX và các phương pháp khác.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ sự cần thiết phát triển hợp tác xã nơng
nghiệp với tư cách là hình thức có hiệu quả của kinh tế tập thể trong nơng
nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển hợp tác xã nơng nghiệp ở
huyện Hồ Vang thành phố Đà Nẵng thời gian qua, luận văn chỉ ra những
thành công và hạn chế trong phát triển hợp tác xã nơng nghiệp ở huyện Hồ
Vang, thành phố Đà Nẵng cùng các nguyên nhân của những hạn chế.
Luận văn đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp
tục phát triển hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trong nơng nghiệp thành phố
Đà Nẵng nói chung và huyện Hồ Vang nói riêng thời gian tới với tư cách là tài
liệu tham khảo giúp địa phương trong thực tiễn lãnh đạo phát triển kinh tế tập
thể trong nông nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết.
- Chương 1: Hợp tác xã nông nghiệp và sự cần thiết phát triển hợp tác
xã nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
- Chương 2: Thực trạng hợp tác xã nơng nghiệp ở huyện Hồ Vang
thành phố Đà Nẵng.


7
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát

triển hợp tác xã nông nghiệp ở huyện Hoà Vang thành phố Đà Nẵng.


8
Chương 1
HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP VÀ SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN
HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP

1.1.1. Khái niệm và đặc trưng về hợp tác xã
1.1.1.1. Khái niệm về hợp tác xã
Hợp tác xã là hình thức phổ biến của kinh tế tập thể trong nền kinh tế ở
nước ta nói chung và ở huyện Hồ Vang thành phố Đà Nẵng nói riêng. Vì vậy,
để hiểu rõ về hợp tác xã cần làm rõ nội hàm khái niệm kinh tế tập thể.
Kinh tế tập thể là kiểu kết cấu kinh tế xã hội dựa trên cơ sở hình thức
sở hữu tập thể của người lao động về các điều kiện sản xuất kinh doanh chủ
yếu mà trước hết là về tư liệu sản xuất.
Sở hữu tập thể được hình thành trong lịch sử phát triển xã hội dưới tác
động của phát triển sản xuất thông qua nhu cầu hợp tác giữa các chủ thể sản
xuất kinh doanh, tuy nhiên sở hữu tập thể của những người lao động trực tiếp
chỉ được hình thành một cách phổ biến trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vì
vậy sự hình thành và phát triển của kinh tế tập thể được các nhà kinh điển
Mác - Lênin coi là một trong những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH
và là con đường đưa sản xuất nhỏ, lạc hậu, phân tán của người nông dân, thợ
thủ công lên sản xuất lớn XHCN.
Thực tiễn lịch sử cho thấy kinh tế tập thể được hình thành và phát triển
rộng rãi ở các nước trong phe XHCN trước đây như Liên Xô, các nước
XHCN Đông Âu, Trung Quốc. Ở nước ta, kinh tế tập thể được hình thành ở
miền Bắc sau hồ bình lập lại 1954 và trên phạm vi cả nước sau thống nhất
đất nước 1975 với các hình thức đa dạng từ thấp đến cao như tổ đổi công, tổ

hợp tác, hợp tác xã cấp thấp, hợp tác xã cấp cao.


9
Trải qua nhiều thăng trầm trong phát triển, đến nay kinh tế tập thể đang
là một trong những thành phần kinh tế có vai trị quan trọng cùng với kinh tế
nhà nước trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân [13, tr.83].
Từ nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH, Đảng ta
đã nêu lên quan niệm về kinh tế tập thể một cách đầy đủ trong Văn kiện Hội
nghị lần thứ 5 BCHTW khố IX:
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng
cốt là hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập
thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh
doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế,
không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn (trừ một số lĩnh vực có
quy định riêng); phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ
tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách
nhiệm. Thành viên kinh tế tập thể bao gồm cả thể nhân và pháp
nhân, cả người ít vốn và người có nhiều vốn, cùng góp vốn và góp
sức trên cơ sở tơn trọng ngun tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có
lợi và quản lý dân chủ [12, tr.30].
Từ khái niệm trên có thể rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, kinh tế tập thể là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở
hữu tập thể.
Thứ hai, phân phối theo lao động, vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ
của xã viên.
Thứ ba, nguyên tắc hoạt động là tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và
quản lý dân chủ.
Thứ tư, trong điều kiện nước ta hiện nay nòng cốt của kinh tế tập thể là
các HTX.



10
Thứ năm, HTX với tư cách là hình thức biểu hiện của kinh tế tập thể
vừa dựa trên sở hữu của các thành viên, vừa dựa trên sở hữu tập thể; là hình
thức liên kết rộng rãi khơng những đối với người lao động mà cả các hộ
SXKD, các doanh nghiệp nhỏ và vừa; phân phối không những theo lao động
mà cả theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động với tư cách pháp
nhân trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
HTX xuất hiện trong nền kinh tế thị trường TBCN (giữa thế kỷ XIX)
trong thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh để có thể tồn tại và phát triển những
người sản xuất nhỏ cần phải hợp sức, hợp vốn với nhau chống lại sự chèn ép,
khống chế và bần cùng hoá của các nhà tư bản. Do vậy đã tạo cơ sở cho sự
liên kết, hợp tác giữa những người lao động tự nguyện dân chủ, bình đẳng.
Trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hợp tác xã, song
nhìn chung khi đề cập đến hợp tác xã. Tháng 3/1996 tại kỳ họp thứ 9, Quốc
hội khoá IX đã ban hành Luật HTX để tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và
hoạt động của HTX trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
Cụ thể Luật HTX định nghĩa: "HTX là một tổ chức kinh tế tự chủ do những
người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra
theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể và của từng xã viên
nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế xã hội của
đất nước.
Sự ra đời của Luật HTX là một dấu mốc quan trọng trong sự phát triển
của các HTX, tạo điều kiện thuận lợi cho mơ hình HTX tiếp tục phát triển.
Đến này 26/11/2003 tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khố XI đã thơng qua Luật
HTX sửa đổi, bổ sung (Luật HTX năm 2003). Theo luật HTX năm 2003 thì
HTX được định nghĩa như sau:



11
HTX là một tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia
đình, pháp nhân sau đây gọi chung là xã viên có nhu cầu, lợi ích
chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật
này để phát huy sức mạnh tập thể và của từng xã viên nhằm giúp
nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư
cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài
chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn
khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật [26, tr.6].
Như vậy, HTX là một trong những hình thái biểu hiện cụ thể của kinh
tế tập thể ở nước ta hiện nay, xét về nội hàm thì kinh tế tập thể là khái niệm
rộng hơn, song với tư cách là hình thái biểu hiện thì HTX khơng những bao
hàm những đặc tính của kinh tế tập thể mà cịn bao hàm những đặc tính cụ
thể, đặc thù thể hiện trình độ phát triển nhất định của kinh tế tập thể. Trước
đây do nhận thức không đầy đủ về kinh tế tập thể và HTX, cho nên chúng ta
đã đồng nhất HTX với kinh tế tập thể, buộc các HTX phải cố gắng làm cho
các đặc tính của kinh tế tập thể như sở hữu tập thể, phân phối theo lao động,
quản lý tập trung… trở thành bao trùm toàn bộ với thời gian ngắn. Những
biện pháp hành chính mệnh lệnh để xác lập nhanh chóng kinh tế tập thể đã
làm thui chột động lực, giới hạn phạm vi hoạt động và giảm hiệu quả của các
HTX.
1.1.1.2. Những đặc trưng về hợp tác xã
Các hợp tác xã hoạt động theo Luật HTX năm 1996 và luật HTX năm
2003 được gọi chung là HTX kiểu mới. Do vậy với nhận thức mới về HTX



12
ngày nay đã hình thành quan niệm mới về kinh tế HTX thơng qua những đặc
trưng của mơ hình HTX kiểu mới, bao gồm:
Thứ nhất, Về thành viên tham gia HTX bao gồm cả thể nhân và pháp
nhân (người lao động, hộ gia đình, trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ) cả
người có ít vốn và người có nhiều vốn, có thể góp sức, góp vốn cổ phần xây
dựng nên, trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có
lợi và quản lý dân chủ.
Thứ hai, HTX khơng tập thể hố mọi tư liệu sản xuất của các thành
viên, mà dựa trên sở hữu tập thể và sở hữu của các thành viên; sở hữu tập thể
bao gồm các loại quỹ không chia, tài sản trước đây được giao lại cho tập thể
sử dụng làm tài sản khơng chia, những tài sản do q trình tích luỹ của HTX
tạo nên.
Thứ ba, tổ chức và hoạt động của HTX không bị giới hạn quy mô, lĩnh
vực, địa bàn, HTX hoàn toàn tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh và
tự chịu trách nhiệm trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, liên
doanh, liên kết với các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thứ tư, hình thức phân phối trong HTX vừa theo lao động, vừa theo
vốn góp và theo mức độ tham gia dịch vụ. HTX là một tổ chức kinh tế hoạt
động lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành viên, lợi ích
tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên.
Thứ năm, mơ hình HTX linh hoạt, đa dạng về hình thức, phù hợp với
đặc điểm của từng vùng, từng ngành với nhiều trình độ phát triển từ thấp đến
cao, từ làm dịch vụ đầu vào, đầu ra. Phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh
của các thành viên, đến mở mang ngành nghề, vươn lên kinh doanh tổng hợp
và hình thành được các doanh nghiệp của HTX, từ HTX phát triển thành liên
hiệp các HTX.


13

Thứ sáu, trong tổ chức quản lý HTX, chức năng quản lý của Ban quản
trị với chức năng điều hành của chủ nhiệm có sự phân biệt rõ ràng. Chủ
nhiệm có thể là xã viên HTX hoặc người ngồi HTX do Ban quản trị th.
Những đặc trưng mơ hình HTX kiểu mới được nêu ở trên là những tiêu
chí giúp chúng ta làm cơ sở để đổi mới hoạt động HTX, đồng thời là cơ sở để
phân biệt với HTX kiểu cũ (trước đổi mới), với các loại hình doanh nghiệp khác.
Để thể hiện được các đặc trưng của HTX kiểu mới, góp phần phát huy
hiệu quả của HTX với tư cách là hình thức quan trọng của kinh tế tập thể, các
HTX được tổ chức hoạt động theo những nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc tự nguyện: Mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ
điều kiện theo quy định của Luật HTX, tán thành Điều lệ HTX đều có quyền
tự quyết định gia nhập HTX hoặc xin ra khỏi HTX.
Nguyên tắc này thể hiện: Tuyệt đối không được cưỡng ép nơng dân bất
kỳ dưới hình thức nào, mà phải để người nông dân tự suy nghĩ thấy những lợi
ích thiết thực của mình mà tự nguyện hợp tác với nhau. Ph.Ăngghen từng nêu
luận điểm: Cần để cho nông dân suy nghĩ trên luống cày của họ và ông đã
khẳng định kiên quyết rằng khi giai cấp vô sản giành được chính quyền thì
tuyệt đối khơng được tước đoạt những người tiểu nơng dù bất kỳ dưới hình
thức nào. Nhà nước vô sản phải bằng những biện pháp hết sức tỷ mỷ khuyến
khích họ.
Bằng hoạt động thực tiễn của mình với nhãn quan khoa học V.I.Lênin
có những đóng góp quan trọng về KTHT, về con đường đưa những người tiểu
nông, những người sản xuất nhỏ đi theo CNXH trong thời kỳ quá độ. Người
rất coi trọng nguyên tắc tự nguyện, kiên quyết phản đối dùng biện pháp hành
chính trong việc Hợp tác hố nơng dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng nguyên tắc tự nguyện, Người luôn
nhắc nhở chúng ta: "Không được cưỡng ép ai hết, phải tuyên truyền giải thích


14

cho nơng dân thấy lợi ích tổ đổi cơng, ai muốn vào thì vào, tuyệt đối khơng
được ép buộc ai" [24].
Thực hiện nguyên tắc tự nguyện nhưng lại biết tổ chức, giáo dục, biết
đấu tranh, đặc biệt là biết tổng kết những điển hình tiên tiến để cho nơng dân
noi theo, học tập; tự nguyện khơng có nghĩa là bng xi, bỏ mặc mà khơng
có tác động gì của Nhà nước, của chúng ta, nhưng cũng khơng chạy theo
thành tích, nơn nóng, “HTX cả làng” như trước đây, mà phải coi trọng lợi ích
thiết thực của xã viên.
- Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và cơng khai:
Xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra giám sát HTX và có quyền
ngang nhau trong biểu quyết, thực hiện cơng khai phương hướng sản xuất,
kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề khác quy định trong Điều lệ
HTX. Dân chủ trong quản lý gắn liền với bình đẳng của mọi xã viên HTX.
Bởi vì, HTX là tổ chức của dân, do dân tự tổ chức, quản lý, phục vụ
nhu cầu chung của xã viên mà từng thành viên tự thực hiện khơng hiệu quả,
mang lại hết thảy lợi ích cho xã viên, là tổ chức mà xã viên vừa là chủ sở hữu,
vừa là người sử dụng sản phẩm, dịch vụ của HTX hoặc là người lao động
trong HTX. Đây là nguyên tắc đặc biệt quan trọng, có tác động trực tiếp đến
sự tồn tại và phương hướng phát triển lành mạnh của HTX.
Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và cơng khai trong HTX khác với các
loại hình doanh nghiệp khác, trong doanh nghiệp tư nhân tư bản, quyền
quyết định thuộc về chủ sở hữu nào chiếm cổ phần chi phối hay còn gọi cổ
phần khống chế. Trong hội đồng quản trị của các doanh nghiệp nhà nước,
làm việc theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Trong kinh tế HTX, ban
quản trị cũng làm việc theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Nhưng
trên hội đồng quản trị cịn có đại hội xã viên. Đại hội này có quyền lực
cao nhất. Đại hội xã viên khác với đại hội cổ đơng của xí nghiệp. Ở đại


15

hội cổ đơng người có quyền quyết định là người cổ đông nào sở hữu số cổ
phần chi phối. Nhưng trong kinh tế HTX, xã viên đều bình đẳng về quyền
biểu quyết, khơng kể xã viên đó góp nhiều hay góp ít vốn cho HTX. Đây
là sự biểu quyết theo nguyên tắc đối nhân chứ không phải theo nguyên tắc
đối vốn.
Tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về quản lý HTX được thể hiện qua
khái niệm làm chủ của xã viên HTX: "Các HTX phải làm như thế nào để các xã
viên đều thấy rằng mình là người làm chủ tập thể HTX. Có quyền bàn bạc và
quyết định những cơng việc của HTX. Có như thế thì xã viên sẽ đoàn kết chặt
chẽ, phấn khởi sản xuất và HTX sẽ tiến bộ không ngừng", "Mỗi xã viên phải làm
chủ, HTX là nhà, xã viên là chủ". Đồng thời, Người nhấn mạnh: "Quản lý phải
thật dân chủ, tài chính phải công khai, sổ sách phải minh bạch" [24, tr.75].
- Nguyên tắc tự chủ, chịu trách nhiệm và cùng có lợi.
HTX tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh
doanh, tự quyết định về phân phối thu nhập, đảm bảo HTX và xã viên cùng có
lợi. Sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và trang trải các khoản lỗ của HTX,
lãi được trích một phần chia theo vốn góp và cơng sức đóng góp của xã viên,
phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX.
Tự chủ, chịu trách nhiệm và cùng có lợi. Đây là nguyên tắc nói về lợi
ích kinh tế của kinh tế hợp tác đưa lại cho nơng dân, trong đó lợi ích xã viên,
HTX, nhà nước cơ bản thống nhất với nhau, không có mâu thuẫn đối kháng,
khơng có bóc lột, cùng có lợi thể hiện: HTX là hợp vốn, hợp sức với nhau,
vốn nhiều thì sức mạnh, khó nhọc ít mà lợi ích nhiều; lợi ích không chỉ là lợi
ích trước mắt mà cịn lợi ích lâu dài cho bà con nơng dân.
- Nguyên tắc hợp tác và phát triển cộng đồng.


16
"Xã viên phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác
với nhau trong HTX, trong cộng đồng xã hội, hợp tác giữa các HTX trong

nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật" [27, tr,27].
Đây là nguyên tắc mang tính đặc trưng của HTX kiểu mới, gắn kết lợi
ích kinh tế của các thành viên HTX với lợi ích của xã hội và phát triển cộng
đồng. Bởi HTX là tổ chức kinh tế tập thể, mọi hoạt động kinh tế của các thành
viên tham gia phải luôn thực hiện với phương châm hợp tác, giúp đỡ nhau để
vượt qua khó khăn, tạo việc làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất tinh
thần của các xã viên tham gia.
Những nguyên tắc trên được hình thành trên cơ sở bản chất kinh tế - xã
hội của HTXNN. Là tiêu chuẩn để xác định một tổ chức kinh doanh có phải là
HTX hay khơng; để phân biệt HTX với tổ chức kinh doanh khác trong nền
kinh tế thị trường, những nguyên tắc này thể hiện nổi bật trong HTXNN và xã
hội nông thôn, và thể hiện lợi ích thiết thân của các thành viên tham gia kinh
tế hợp tác.
1.1.2. Khái niệm và đặc trưng về hợp tác xã nông nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm về hợp tác xã nông nghiệp
Hợp tác xã nông nghiệp là một loại hình kinh tế tập thể trong nơng
nghiệp do những người nơng dân tự nguyện thành lập nhằm mục đích trợ giúp
các hoạt động sản xuất nông nghiệp của họ thông qua cung cấp các dịch vụ
giá rẻ do lợi thế về quy mơ và chun mơn hố hoạt động. “HTXNN ra đời
trên nền tảng kinh tế hộ nông dân” [27, tr.19].
1.1.2.2. Đặc trưng của hợp tác xã nông nghiệp trong điều kiện hiện nay
Ngoài những đặc điểm của HTX kiểu mới nói chung, HTXNN cịn có
những đặc điểm đặc thù về kinh tế - xã hội của nông nghiệp, nông thôn như:


17
+ HTXNN là tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân chủ yếu ở
nông thôn - lực lượng lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong xã hội ở các
nước đang phát triển nói chung và ở nước ta nói riêng.
+ HTXNN là một tổ chức kinh tế của những người hạn chế về trình độ

dân trí, vốn, cơ sở vật chất- kỹ thuật so với các loại hình doanh nghiệp khác.
Do đó, địi hỏi sự giúp đỡ của Nhà nước về cơ sở vật chất, về tổ chức quản lý
đối với HTXNN là một tất yếu.
+ Đối tượng sản xuất của nông nghiệp là cây trồng, vật ni. Nên trong
q trình hoạt động kinh doanh của mình, HTXNN vừa bị chi phối bởi các
quy luật kinh tế, vừa bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên nên thường làm cho
các HTXNN phải chịu rủi ro lớn, hiệu quả kinh tế và lợi nhuận thấp nên tích
luỹ ít và chậm. Qua đặc điểm này cho thấy, những lĩnh vực sản xuất, những
khâu công việc trực tiếp tác động vào cây trồng vật ni thì việc tổ chức sản
xuất, tổ chức lao động trong từng hộ nhìn chung là phù hợp và tỏ ra có sức
sống, có hiệu quả kinh tế cao hơn là tổ chức sản xuất tập thể trong các HTX
quy mô lớn.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, HTX nông nghiệp
kiểu mới ra đời là vì kinh tế nơng hộ, chứ khơng phải để thay thế kinh tế nông
hộ, ngược lại kinh tế nông hộ là "tế bào" là cơ sở tồn tại của kinh tế HTX
nông nghiệp kiểu mới.
Tuỳ theo đặc điểm của mỗi nước và nhu cầu cụ thể của những người
tham gia, do đặc điểm của từng ngành nghề, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh
doanh mà HTX được xây dựng theo một mơ hình nào đó nhằm đáp ứng nhu
cầu đặt ra, vì vậy các loại hình HTX rất đa dạng.
Nhìn chung về loại hình HTX trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta và thực tiễn hoạt động của HTX nông nghiệp kiểu mới,
chúng ta có thể khái qt HTX nơng nghiệp với các mơ hình sau:


18
Loại thứ nhất, HTX nông nghiệp làm dịch vụ: loại hình HTX nơng
nghiệp được tách hẳn để làm chức năng dịch vụ nông nghiệp, bao gồm dịch
vụ các yếu tố đầu vào như: HTX cung ứng vật tư (giống, phân bón, thuốc trừ
sâu...); dịch vụ các khâu cho sản xuất nông nghiệp như: dịch vụ làm đất, tưới

tiêu, bảo vệ thực vật...; dịch vụ quá trình tiếp theo của sản xuất nông nghiệp
như: dịch vụ chế biến, bảo quản, thu mua, tiêu thụ sản phẩm…Những hình
thức này khá phổ biến trong nơng nghiệp, vì nó giảm được chi phí cho hộ xã
viên, bảo đảm các quyền tự chủ của hộ, mở ra nhiều có hội tiếp cận thị
trường.
Do đặc điểm của sản xuất nơng nghiệp, hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự
chủ nên hoạt động dịch vụ của HTX nơng nghiệp là hình thức thích hợp, phổ
biến có hiệu quả thiết thực hiện nay. Tuy nhiên theo tính chất của từng ngành,
từng vùng, từ yêu cầu hợp tác và phân cơng lao động để lựa chọn các hình
thức thích hợp.
Ngay trong mơ hình HTX dịch vụ cũng được phân thành nhiều hình
thức như HTX dịch vụ chuyên khâu, HTX kinh doanh dịch vụ tổng hợp (thực
hiện nhiều khâu dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp, kể cả dịch vụ cho đời sống
nông dân).
Loại thứ hai, HTX vừa làm dịch vụ vừa tổ chức sản xuất tập trung ở
các mức độ và quy mô khác nhau (thường gọi HTX sản xuất kinh doanh dịch
vụ tổng hợp).
Các HTX loại này thường tồn tại dưới dạng HTX chun mơn hố theo
sản phẩm. Đó là HTX chuyên ngành, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ.
Loại hình này phổ biến nhất là các HTX nuôi trồng thuỷ hải sản, chăn nuôi
gia súc tập trung, trồng rừng... Còn trong lĩnh vực trồng trọt, phổ biến hiện
nay hộ nông dân trực tiếp sản xuất, ngồi ra cịn có loại HTX hợp đồng bao
tiêu chế biến và tiêu thụ sản phẩm.


19
- Loại thứ ba, hợp tác xã chuyên ngành: tức các HTX này tập trung đầu tư
chuyên sâu vào các sản phẩm nơng nghiệp có chất lượng và hàm lượng công
nghệ cao, các sản phẩm sạch, sản phẩm sinh thái hoặc đầu tư chuyên canh,
chuyên ngành như HTX trồng hoa, cây cảnh, sản xuất rau an tồn, chăn ni,..

- Loại thứ tư, HTX trang trại; đây là mơ hình gồm nhiều trang trại liên
kết, hợp tác với nhau, tập trung vào các khâu dịch vụ, hỗ trợ các trang trại
thành viên trong việc cung ứng và tiêu thụ sản phẩm.
Với những loại hình HTX nơng nghiệp nêu trên tuỳ theo đặc điểm của
ngành, trình độ sản xuất các hộ nơng dân, điều kiện của từng địa phương mà
lựa chọn loại hình HTX sao cho có hiệu quả, thiết thực, đặc biệt HTX thực sự
là "bà đỡ" cho kinh tế hộ phát triển, góp phần đẩy nhanh q trình CNH,
HĐH nơng nghiệp, nông thôn.
1.2. SỰ CẦN THIẾT VÀ NHỮNG YÊU CẦU MỚI ĐẶT RA ĐỐI VỚI HỢP
TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP HIỆN NAY

1.2.1. Sự cần thiết phát triển hợp tác xã nông nghiệp hiện nay
+ Phát triển HTX nông nghiệp là yêu cầu khách quan và con đường
phát triển tất yếu của kinh tế hộ nông dân trong nền kinh tế thị trường
nước ta.
Trước thời kỳ đổi mới, việc tập trung quá mức vào thực hiện tập thể
hố nơng nghiệp đã làm thui chột kinh tế hộ nơng dân và vai trị của loại hình
kinh tế này. Chỉ từ sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (05/4/1988) cùng với
đổi mới tồn diện quản lý kinh tế nông nghiệp, kinh tế hộ nông dân mới thực
sự được khẳng định là đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó tiềm năng, động lực của
kinh tế hộ được khơi dậy và phát triển, hiệu quả của sản xuất nông nghiệp và
đời sống nông dân đã có những tiến bộ vượt bậc so với trước, nước ta đã trở
thành quốc gia xuất khẩu gạo của thế giới.


20
Sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của hộ nông dân ngày càng gắn chặt với
thị trường trong và ngoài nước. Những cơ hội lớn cho sự phát triển do hội
nhập kinh tế quốc tế mang lại diễn ra cùng với những thách thức không nhỏ
như cạnh tranh quyết liệt hơn; nguy cơ tụt hậu, nghèo đói gia tăng, cách biệt

mở rộng, đặc biệt hàng triệu hộ gia đình nơng dân, cơ sở sản xuất nhỏ và kể
cả khơng ít doanh nghiệp sẽ đứng trước nguy cơ phá sản và bị gạt ra ngồi rìa
sự phát triển. Để thích ứng với thị trường, hộ nông dân buộc phải không
ngừng nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên cơ sở thường xuyên cải tiến
kỹ thuật canh tác, nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời phải thâm canh,
đa dạng hoá sản xuất để tránh những rủi ro của thị trường đưa lại, đặc biệt
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu kinh tế giữa các vùng trong
nước và nước ta với nước ngoài như hiện nay.
Những thách thức đó đã đặt ra yêu cầu đối với những người lao động
riêng lẻ nói chung và hộ nơng dân nói riêng phải liên kết, hợp tác với nhau để
tồn tại và phát triển. Sản xuất hàng hoá càng phát triển bao nhiêu thì nhu cầu
hợp tác càng lớn bấy nhiêu. Sự hợp tác mang lại cho kinh tế hộ nông dân
thêm vốn, nhân lực, kinh nghiệm sản xuất, từ đó tạo ra thuận lợi để áp dụng
tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao năng suất lao động, mở rộng thị
trường… bởi lẽ đó là hình thức hiệu quả để chống lại sự chèn ép mua rẻ bán
đắt của tư thương, chống tình cảnh cho vay nặng lãi của những người kinh
doanh tiền tệ, chống tình trạng mua bán lúa non và các hình thức bóc lột khác.
Trong bối cảnh đó HTXNN đã trở thành một trong những hình thức
hợp tác hiệu quả giúp nông dân vượt qua thách thức của kinh tế thị trường.
HTXNN là nhịp cầu đưa kinh tế hộ nông dân từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
có sức cạnh tranh. HTXNN là sự bổ sung cho kinh tế hộ nông dân, phục vụ
đắc lực cho sự phát triển của kinh tế hộ nông dân.


21
+ Phát triển hợp tác xã nông nghiệp tạo thuận lợi đẩy nhanh q
trình CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thơn.
Phát triển HTXNN tạo nên sự phân công lao động và tổ chức lao động
mới, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông
thôn, đồng thời HTXNN trên cơ sở tích luỹ vốn đủ sức hoạt động sản xuất

kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng và có
điều kiện để ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất, đặc biệt
ứng dụng cơ giới hố, thuỷ lợi hố, cơng nghệ sinh học, điện khí hố, thị
trường hố, tạo điều kiện để tăng quy mơ sản xuất hàng hố lớn thích ứng với
nhu cầu thị trường, hạn chế và khắc phục dần tình trạng sản xuất nhỏ, phân
tán ở nước ta hiện nay.
+ Phát triển hợp tác xã nông nghiệp tạo điều kiện để xây dựng nơng
thơn mới.
Kinh tế tập thể là hình thức tổ chức kinh tế mang tính xã hội hố cao
hơn kinh tế cá thể hộ gia đình, là nhân tố quan trọng để xây dựng xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, giáo dục ý thức tập thể và đoàn kết cộng đồng.
Ngồi mục tiêu kinh tế, HTX nơng nghiệp còn thực hiện các mục tiêu
xã hội quan trọng. Hợp tác xã góp phần xây dựng tình đồn kết xóm làng, tinh
thần tương thân tương ái, xây dựng cộng đồng xã hội tốt đẹp ở nơng thơn, góp
phần xố đói giảm nghèo, bảo vệ an ninh trật tự xã hội, bảo tồn và phát huy
truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Hồ Chí Minh nói: "Hợp tác xã phát
triển là để cải thiện đời sống nông dân, làm cho nhân dân được ấm no, mạnh
khoẻ được học tập, làm cho dân giàu nước mạnh". Người còn căn dặn: "Mỗi
HTX phải như một gia đình, phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau" [24, tr.67].
HTX là hình thức tổ chức kinh tế quan trọng để người lao động, hộ xã viên
tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà nước, liên kết với doanh nghiệp thuộc các thành


22
phần kinh tế, thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng trong
tiến trình đi lên xây dựng CNXH.
+ Hợp tác xã là kiểu làm kinh tế phổ biến của nhiều nước trên thế giới.
Lâu nay khi nói đến vấn đề kinh tế HTX người ta lầm tưởng rằng đây là
loại hình kinh tế riêng có của CNXH. Nước nào đi lên CNXH thì phải phát
triển kinh tế HTX. Do đó, Việt Nam là nước phát triển theo định hướng

XHCN nên phát triển theo loại hình này.
Thực tế đã chứng minh rằng, HTX đầu tiên trên thế giới đã ra đời vào
năm 1761 tại Anh, rồi đến Đức vào năm 1846, Ấn Độ 1889 và ở Thái Lan vào
năm 1915. Mặc dù HTX ra đời trước CNXH hiện thực, nhưng được coi là
một loại hình kinh tế của CNXH và được áp dụng ở Việt Nam nó là một trong
những hình thức phù hợp để thực hiện xã hội hố đối với sản xuất nhỏ nói
chung và sản xuất nhỏ trong nơng nghiệp, nơng thơn nói riêng.
Thực tiễn cho thấy kinh tế HTX trên thế giới đã ra đời và tồn tại gần
200 năm, lúc mới hình thành HTX thường chỉ là những người nghèo ít vốn,
sản xuất nhỏ, một mình kinh doanh khó khăn, giá cả cao, khả năng cạnh tranh
thấp, họ muốn hợp tác lại với nhau để tăng khả năng cạnh tranh trong cơ chế
thị trường... Nhưng về sau HTX phát triển lên trở thành những tập đoàn kinh
tế mạnh. Theo báo cáo của Liên minh HTX quốc tế (ICA) hiện nay trên thế
giới đã có 95 nước có phong trào HTX, HTX có ở tất cả các châu lục và đã có
95 nước là thành viên của ICA.
Như vậy, sự hợp tác của những người sản xuất nhỏ, những người làm
ăn riêng lẻ để phát triển lực lượng sản xuất, phục vụ lợi ích cộng đồng, tăng
sức cạnh tranh, chống lại sự chèn ép của các doanh nghiệp lớn trong nền kinh
tế thị trường là một quy luật phổ biến của tất cả các nước trên thế giới.
Do vậy, V.I.Lênin thường nhắc nhở chúng ta phải kế thừa HTX trong
chủ nghĩa tư bản để xây dựng CNXH. Khi bàn về phát triển HTX trong thời


23
kỳ quá độ lên CNXH. V.I. Lênin nhấn mạnh: "Nếu khơng học tập, sử dụng
được kỹ thuật, văn hố và bộ máy do nền văn hoá tư sản, nền văn hố TBCN
tạo ra thì sẽ khơng thể thực hiện được CNXH. Trong các bộ máy đó có HTX,
trình độ phát triển tư bản chủ nghĩa trong nước càng cao bao nhiêu thì HTX
càng phát triển bấy nhiêu", "HTX là một di sản văn hoá to lớn mà chúng ta
phải coi trọng và sử dụng" [20].

Nhưng trong CNTB, HTX thường hướng vào lợi ích của tiểu nơng, tiểu
thương và tiểu chủ nhằm chia lợi nhuận với giai cấp tư sản, không quan tâm
đến quần chúng lao động đông đảo. Các HTX này chỉ gồm những tầng lớp
có tiền để góp cổ phần, không tạo điều kiện cho người nghèo tham gia,
chúng ta kế thừa và từng bước chuyển các HTX tư sản đó thành HTX của
nhân dân lao động rộng rãi trong cả nước. V.I.Lênin khẳng định: "Chế độ
kinh tế hợp tác là bước quá độ để đưa kinh tế tiểu nông đi lên CNXH là con
đường đơn giản nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân. Là con
đường phát triển đến "Chế độ của những xã viên HTX văn minh “ thì mới "là
chế độ XHCN" [21].
1.2.2. Những yêu cầu mới đặt ra đối với hợp tác xã nông nghiệp
hiện nay
Trong những năm đến hoạt động của các HTX nơng nghiệp ngày càng
bị bó hẹp do đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, dịch vụ điện chuyển về cho
thành phố quản lý...Tuy nhiên, nhu cầu sử dụng sản phẩm nông nghiệp của cư
dân đô thị sẽ ngày một cao hơn cả về số lượng và chất lượng. Do vậy, sản
xuất nơng nghiệp của huyện Hồ Vang và thành phố Đà Nẵng cũng sẽ chuyển
hướng phát triển theo mơ hình nơng nghiệp đơ thị. Từ cơ sở đó, u cầu đề ra
để phát triển HTX nơng nghiệp trên địa bàn huyện Hoà Vang từ nay đến năm
2020 là:


24
- Tạo sự chuyển biến rõ rệt đối với kinh tế hợp tác xã trên tất cả các
mặt; củng cố, phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp bền vững, có vị trí
quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế.
- Phát huy hơn nữa vai trò của kinh tế hợp tác xã nông nghiệp trong
việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn và miền núi trên cơ sở xây dựng
mối liên hệ, liên kết giữa ngành nông nghiệp với các ngành công nghiệp chế
biến nông, lâm, thuỷ sản.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế hợp tác xã nông nghiệp phát triển,
đưa kinh tế hợp tác xã nơng nghiệp trở thành thành phần kinh tế có vai trị
quan trọng trong việc giải quyết việc làm, xố đói giảm nghèo...
- Kinh tế hợp tác xã nơng nghiệp được tăng cường một bước vững chắc
về tiềm lực tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực con người và trình độ
khoa học - cơng nghệ.
- Hình thành và xây dựng một hệ thống tổ chức kinh tế hợp tác xã nơng
nghiệp kiểu mới với nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với nhu cầu và sự tự
nguyện lựa chọn của nhiều thành phần.
Tóm lại: Phát triển hợp tác xã nông nghiệp không phải chỉ để giúp những
người sản xuất nhỏ có đủ sức cạnh tranh, chống lại sự chèn ép của doanh nghiệp
lớn mà về lâu dài cùng với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế
quốc dân. Phát triển hợp tác xã nơng nghiệp khơng chỉ vì mục đích kinh tế, mà
cịn có mục đích xã hội là tạo việc làm, tăng thu nhập, xố đói giảm nghèo,
tương trợ giúp đỡ nhau trong cuộc sống, góp phần xây dựng nơng thơn mới theo
định hướng XHCN... Vì lẽ đó, trong thời kỳ q độ lên CNXH, phát triển kinh tế
tập thể dưới hình thái HTX trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay và về
lâu dài là một nhu cầu tất yếu khách quan. Tuy nhiên, làm cho HTX nói chung
và HTXNN nói riêng phát huy được những vai trị to lớn của mình đã và đang là
thách thức lớn cần được nghiên cứu giải quyết.


25
1.3. KINH NGHIỆP MỘT SỐ TỈNH VỀ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP

1.3.1. Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam hiện có 175 HTX, trong đó có 120 HTX nông nghiệp, gần
3.000 Tổ hợp tác hoạt động trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề; lực lượng xã viên,
xã viên, tổ viên 230.000 người, số lao động làm việc thường xuyên ở các tổ hợp
tác, HTX 25.000 người.

Đối với HTX nông nghiệp, 5 năm qua các HTX nông nghiệp hầu hết đã
tiếp tục kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng nội dung, phương thức hoạt động
theo Luật HTX năm 2003. Hiện nay, dù đang phải chịu nhiều khó khăn từ mặt
trái của nền kinh tế thị trường, từ các yếu tố bất cập của mơ hình HTX kiểu cũ,
các yếu kém do những nguyên nhân khác nhau… nhưng các HTX nông nghiệp
Quảng Nam trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu quan trọng trên
nhiều phương diện, khẳng định sự trưởng thành của đội ngũ quản lý và sự gắn
bó, tin cậy ngày càng tăng của lực lượng xã viên và người lao động đối với thành
phần kinh tế này.
Hầu hết các HTX đã kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, tăng cường về
nguồn lực con người, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ cơng nghệ, tiềm lực tài
chính; phát huy được vai trị trợ giúp kinh tế hộ phát triển (kể cả hộ ngoài xã
viên), trợ giúp chính quyền cấp xã (phường) trong việc phát triển nông nghiệp ở
địa phương. Nhiều HTX tổ chức các hoạt động trợ giúp nông dân hợp tác, liên
kết sản xuất với doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài theo
hướng sản xuất nơng nghiệp hàng hố, mở mang các loại ngành nghề giải quyết
việc làm, tăng thu nhập cho hàng nghìn xã viên và người lao động, góp phần tích
cực tăng trưởng hiệu quả sản xuất của kinh tế hộ gia đình nơng dân. Tiêu biểu
như: HTX nơng nghiệp Đại Hiệp, HTX Điện Ngọc 1, HTX Điện Phước 1, 2,
HTX Điện Thọ 1, HTX Điện Hồng 2, HTX Điện Quang, HTX Duy Sơn 2, HTX
Duy Thành, HTX Đông Phú, HTX Tam An 2… có trên 80% số HTX thực hiện


×