1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn là một nhân tố có tác động rất lớn trong nền kinh tế; vốn đóng vai
trị hết sức quan trọng trong mọi lĩnh vực sản xuất vật chất. Việc huy động các
khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức đã góp phần khơng nhỏ
trong việc thu hút nguồn vốn vào ngân hàng để cho vay thực hiện tái đầu tư
thúc đẩy sản xuất phát triển; đây chính là hoạt động truyền thống, chủ yếu của
Ngân hàng Thương mại (NHTM). Chính vì vậy kết quả huy động vốn của các
tổ chức tín dụng (TCTD) đạt được cao hay thấp có ảnh hưởng không chỉ đối
với sự tồn tại và phát triển của bản thân TCTD đó mà nó cịn tác động trực
tiếp đến nền kinh tế của đất nước.
NHTM giữ vai trò quan trọng trong việc tập trung và phân phối lại
nguồn vốn cho nền kinh tế. Đặc biệt với các nước có thị trường tài chính chưa
phát triển như ở Việt Nam, ngành ngân hàng đã chủ động có nhiều biện pháp
để huy động vốn một cách có hiệu quả.
Hoạt động huy động vốn của NHTM góp phần phục vụ cho mục tiêu
phát triển kinh tế đất nước, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh được tăng
trưởng. Mặt khác, huy động vốn có vai trị quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của mỗi ngân hàng, huy động vốn tốt thì sẽ đảm bảo cho nhu cầu
kinh doanh có hiệu quả cho chính ngân hàng.
Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới và để đáp ứng đủ
nhu cầu vốn cho sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, đòi hỏi các NHTM phải
có một khối lượng vốn lớn, đủ để cung cấp cho nhu cầu vốn đầu tư. Muốn
vậy NHTM ngoài nguồn vốn tự có cần phải có nhiều biện pháp để huy động
được nguồn vốn trong dân cư và các tổ chức khác.
Hiện nay nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức còn rất lớn,
nhưng việc tuyên truyền vận động các đối tượng gửi tiền vào ngân hàng chưa
2
được rộng khắp và đạt hiệu quả. Các NHTM muốn chiếm lĩnh thị trường về
huy động vốn thì cần phải đa dạng hóa hình thức huy động, có chính sách lãi
suất linh hoạt được khách hàng chấp nhận và phải mở rộng mạng lưới giao
dịch để thuận lợi cho người gửi tiền. Đặc biệt là công tác tuyên truyền quảng
bá, giới thiệu sản phẩm dịch vụ, áp dụng công nghệ tin học ngân hàng tiên
tiến để phục vụ tốt cho mọi đối tượng khách hàng.
Thực tiễn công tác huy động vốn, quản lý nguồn vốn trong hệ thống
ngân hàng và nhu cầu vốn đối với nền kinh tế hiện nay đang là những vấn đề
bức xúc cần phải được giải quyết và có những giải pháp hữu hiệu để huy động
vốn được tốt hơn, hiệu quả hơn.
Huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam là một huyện thuần nông nghèo,
đất đai bạc màu, là một huyện chịu nhiều thiệt hại trong chiến tranh, hơn 70%
dân số sống bằng nghề nông, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ, làng nghề truyền thống mới được khôi phục và trên đà phát triển, đòi
hỏi nguồn vốn đầu tư lớn. Thời gian qua, ngồi nguồn vốn đầu tư từ ngân
sách thì nguồn vốn huy động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn (NHNo&PTNT) đã đáp ứng được nhu cầu vay vốn của các thành phần
kinh tế trên địa bàn huyện Thăng Bình.
Tuy nhiên, hoạt động huy động vốn trong những năm gần đây là vơ
cùng khó khăn, nhất là từ năm 2006 cho đến nay mặc dù nguồn vốn huy
động tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Thăng Bình bình quân hàng năm
tăng nhưng tốc độ tăng rất thấp. Nguyên nhân là do kinh tế của huyện
Thăng Bình phát triển chưa cao so với một số huyện, thành phố khác trong
tỉnh Quảng Nam, bên cạnh đó có sự xuất hiện của nhiều NHTM trên địa
bàn. Từ đó vấn đề cạnh tranh giữa các ngân hàng trong hoạt động huy động
vốn ngày càng diễn ra mãnh liệt; chi nhánh NHNo&PTNT huyện Thăng
Bình khó giữ được vị thế trên địa bàn và sẽ kinh doanh khơng hiệu quả nếu
trong thời gian đến khơng có những chiến lược huy động vốn một cách có
3
hiệu quả, không tạo được nguồn vốn ổn định và tiếp tục tăng trưởng, thì
vấn đề tiếp tục đầu tư tín dụng để phát triển kinh tế địa phương là hết sức
khó khăn.
Do vậy, NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thăng Bình muốn huy động
được nguồn vốn trong dân cư trong các tổ chức và chiếm được thị phần lớn
trên địa bàn thì phải có những giải pháp hữu hiệu để huy động vốn, giữ được
khách hàng, nhất là khách hàng truyền thống. Từ đó ngân hàng mới đảm bảo
được nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế.
Xuất phát từ tình hình thực tế và bức bách như vậy, việc nghiên cứu để
tìm ra những giải pháp hữu hiệu trong cơng tác huy động vốn tại chi nhánh là
những vấn đề hết sức quan trọng. Do vậy bản thân tôi quyết định chọn đề tài:
“Huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nơng thơn chi
nhánh huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài, đến nay đã có một số cơng trình nghiên cứu, bài
viết được cơng bố với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau:
- Năm 1997, Ngân hàng nhà nước Việt Nam xuất bản: “Ngân hàng Việt
Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước” của nhiều tác giả đã đề cập đến các giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút
mọi nguồn vốn vào ngân hàng để góp phần vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
- Hà Thị Sáu: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn trong
dân, Tạp chí Ngân hàng tháng 7/2002 đã đưa ra một số vấn đề để tăng cường
công tác huy động vốn trong khu vực dân cư.”
- Đề án huy động vốn trong dân cư của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam, (Tam Kỳ, 2004). Phản ảnh về thực
trạng, xác định mục tiêu và đề ra giải pháp huy động vốn trong dân cư giai
đoạn 2004-2010.
4
- Trần Quang Hiền (2005) Giải pháp mở rộng huy động vốn tại chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Nghệ An, Luận
văn Thạc sĩ kinh tế, Hà Nội
- Nguyễn Văn Lâm: “Vốn và đầu tư vốn của các tổ chức tín dụng phục
vụ cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn”, Tạp chí Ngân
hàng tháng 2/2006.
- Luận văn Thạc sĩ khoa học kinh tế của Trần Đức Thuấn: “Huy động
vốn để phát triển kinh tế ở Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp”, Hà Nội,
1998. Mục tiêu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc huy
động vốn để đề xuất một số giải pháp huy động các nguồn vốn tiền tệ cho
phát triển các ngành kinh tế - kỹ thuật ở Đà Nẵng thật sự là thành phố trung
tâm của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
- Nguyễn Thị Thu Trang (2007) Áp dụng phương thức huy động vốn
linh hoạt tại một số Ngân hàng Thương Mại Mỹ và Hàn Quốc, Tạp chí khoa
học và đào tạo Ngân hàng, Hà Nội.
Mặc dù các công trình nghiên cứu trên có liên quan đến đề tài huy động
vốn rất phong phú, đa dạng nhưng chưa có một cơng trình nào nghiên cứu
một cách chi tiết, cụ thể và có hệ thống về hoạt động huy động vốn tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh huyện Thăng Bình tỉnh
Quảng Nam.
Từ thực tế đó, là người công tác trong ngành NHNo&PTNT, tôi chọn
đề tài này với mong muốn được nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiển
góp phần tìm ra những giải pháp để đẩy mạnh hoạt động huy động vốn tại
NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Làm rõ một số vấn đề lý luận về công tác huy động vốn của NHNo&
PTNT, trên cơ sở nghiên cứu thực trạng hoạt động huy động vốn, luận văn đề
5
xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động huy động vốn tại chi
nhánh NHNo&PTNT huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về huy động vốn
của Ngân hàng Nơng nghiệp và Phát triển Nơng thơn.
- Phân tích thực trạng nguồn vốn, huy động vốn, kết quả hoạt động kinh
doanh, kết quả huy động vốn và kinh nghiệm trong hoạt động huy động vốn
tại NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất những giải pháp cho hoạt động huy động vốn tại NHNo&
PTNT chi nhánh huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Huy động vốn từ dân cư, từ các thành phần kinh tế và các đoàn thể xã
hội tại NHNo&PTNT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động huy động vốn của NHNo&PTNT trên địa bàn huyện Thăng
Bình thời gian từ năm 2005-2009, đề xuất giải pháp cho thời kỳ 2010-2015 và
những năm tiếp theo.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa vào những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, chính sách pháp luật của nhà nước ta về hoạt động ngân hàng trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, kế thừa các vấn đề
lý luận chuyên môn chuyên ngành ngân hàng để trên cơ sở đó xác định quan
điểm về vốn, huy động vốn và những giải pháp để huy động vốn có hiệu quả,
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
6
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như : phương pháp điều
tra, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp phân tổ, so sánh, tổng hợp,
khảo sát rút kinh nghiệm về vấn đề huy động vốn tại NHNo&PTNT chi nhánh
huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam để phục vụ nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn đã góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về huy
động vốn của Ngân hàng Thương mại nói chung, NHNo&PTNT nói riêng.
- Phân tích đánh giá thực trạng hoạt động huy động vốn tại NHNo&
PTNT chi nhánh huyện Thăng Bình thời gian từ năm 2005-2009 nhằm rút ra
những bài học kinh nghiệm về công tác huy động vốn tại chi nhánh.
- Đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động huy động vốn tại
NHNo&PTNT chi nhánh huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam giai đoạn 20102015 và những năm tiếp theo.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo nội dung
của luận văn gồm 03 chương, 09 tiết.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG VIỆC HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VỐN, HUY ĐỘNG VỐN
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG
1.1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Vốn
Hoạt động của NHTM ln gắn liền với cơng tác huy động vốn. NHTM
có huy động được vốn thì mới duy trì được hoạt động kinh doanh của mình, đáp
ứng nhu cầu vay vốn để phát triển kinh tế. Vậy ta hiểu như thế nào là vốn?
Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp,
việc tạo nguồn vốn và đầu tư vốn là công việc của nhà nước, nghĩa là nhà
nước đóng vai trị vừa là người cấp phát vốn đầu tư cho các thành phần kinh
tế, vừa là người tiêu thụ các sản phẩm mà các thành phần kinh tế đó sản xuất
ra. Vốn của doanh nghiệp chủ yếu do ngân sách của nhà nước cấp hoặc vay
ngân hàng. Thực tế cho thấy, nhu cầu vốn của các doanh nghiệp là rất lớn
trong khi nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp lại có hạn, việc huy động vốn
trong dân cư không thu hút được do nhiều nguyên nhân như: chính sách huy
động chưa hợp lý, thủ tục gửi tiền còn rườm rà, lãi suất quá thấp, phong cách
giao dịch của cán bộ ngân hàng còn nhiều bất cập… Cơ chế bao cấp đã làm cho
đồng tiền không được lưu thơng, do vậy sử dụng khơng có hiệu quả, mặt khác cơ
chế huy động vốn và sử dụng vốn trong thời kì này chưa được quan tâm.
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, với chính sách phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhà nước đã khuyến khích các thành phần
kinh tế tự chủ trong kinh doanh, cụ thể là tự bỏ vốn đầu tư. Điều đó làm cho
vốn trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu và là điều kiện tiên quyết của một
quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh. Tất cả các doanh nghiệp nhà nước
8
khơng thể tự nhiên mà có được vốn vì khơng được cấp vốn như thời bao cấp
nữa, vì vậy các doanh nghiệp phải tìm cách huy động vốn (mua vốn) trên thị
trường. Từ đó người huy động vốn phải trả lãi cho người có vốn trên thị
trường một khoản phí để có được quyền sử dụng vốn trong thời gian nhất
định. Thông qua thị trường và hoạt động huy động vốn, vốn được lưu chuyển
rộng rãi, từ đó nó mới có thể thể hiện được bản chất và vai trị của mình.
C.Mác đã nghiên cứu và khái quát phạm trù vốn thông qua nghiên cứu
phạm trù tư bản. Nguồn gốc chủ yếu của tư bản (vốn) là lao động. Để tái sản
xuất mở rộng địi hỏi phải tích lũy vốn. C.Mác đã khái quát phạm trù vốn là:
“tư bản” qua định nghĩa hết sức cô đọng: “Tư bản là giá trị mang lại giá trị
thặng dư”. C.Mác chỉ ra rằng: Thực chất của tư bản tích lũy là việc chuyển
hóa một phần ngày càng lớn giá trị thặng dư thành tư bản và sử dụng phần đó
vào q trình tái sản xuất mở rộng. Trong quá trình vận động, bất kỳ tư bản
nào cũng vận động trải qua các giai đoạn: mua - sản xuất - bán hàng hóa,
tương ứng với mỗi giai đoạn, tư bản mang một hình thái: Tư bản tiền tệ - Tư
bản sản xuất - Tư bản hàng hóa. Ba hình thái tư bản này sắp xếp kề nhau
trong không gian và vận động liên tục trong thời gian. Bộ phận thứ nhất tồn
tại dưới dạng tiền và luôn sẵn sàng đi vào lưu thông để mua các yếu tố của
sản xuất, bộ phận thứ hai gồm sức lao động và tư liệu sản xuất theo quan hệ tỷ
lệ thích hợp sẵn sàng đi vào quá trình sản xuất, bộ phận thứ ba là những hàng
hóa đem ra thị trường bán để thu tiền về và tiếp tục cho chu trình mới.
Từ những luận điểm của Mác về tuần hồn của tư bản có thể rút ra
được kết luận:
Vốn là những đại lượng giá trị là kết tinh lao động xã hội, vốn là một
bộ phận của thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất,
phân phối và tiêu dùng. Vốn phải được biểu hiện dưới dạng hình thái giá trị
của tài sản tức là vốn phải được đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản
nhất định.
9
Vốn là các tài sản trong xã hội được đưa vào đầu tư nhằm mang lại hiệu
quả trong tương lai.
Mặt khác vốn không chỉ biểu hiện thành tiền (tiền giấy, vàng, bạc, đá
quý…) và phản ảnh giá trị những tài sản hữu hình (máy móc, thiết bị, đất đai,
nhà cửa...) mà còn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản vơ hình (uy
tín, trình độ, phát minh, sáng chế, thơng tin, cơng nghệ,…). Chính vì sự biểu
hiện dưới các hình thức phong phú và đa dạng đó mà vốn cần phải được khai
thác, sử dụng có hiệu quả mới đem lại lợi nhuận cao.
Do vậy trong nền kinh tế thị trường dù hoạt động trong lĩnh vực nào thì
vốn cũng là một yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của nó. Trong lĩnh vực
hoạt động ngân hàng để có được kết quả kinh doanh có hiệu quả thì cơng tác
huy động vốn cần phải được đặt lên hàng đầu, là yếu tố quyết định nhất và
phải được quan tâm đúng mức.
Ngày nay trong công cuộc xây dựng đất nước, muốn thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đất nước ta cũng như bất kỳ
nước nào trên thế giới đều cần phải có vốn.
Như vậy ta có thể thấy rằng vốn có vai trò to lớn trong việc tạo ra của
cải vật chất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Huy động vốn có hiệu quả,
cung ứng vốn đầy đủ và kịp thời cho nền kinh tế là một trong những điều kiện
quan trọng thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển.
Tuy nhiên trong mỗi quyết định đầu tư cụ thể lại địi hỏi khơng chỉ
lượng vốn đủ lớn mà cịn u cầu một hay nhiều loại vốn khác nhau. Thực
tiễn luôn đặt ra yêu cầu phân chia và xác định rõ ràng từng loại vốn để có giải
pháp huy động, sử dụng và quản lý vốn có hiệu quả.
Tùy theo cách tiếp cận và đặc điểm vận động của vốn trong q trình
đầu tư sản xuất - kinh doanh mà có những cách phân loại vốn khác nhau:
- Căn cứ vào đặc điểm chu chuyển của vốn ta có vốn cố định và vốn
lưu động.
10
- Căn cứ vào biên giới lãnh thổ quốc gia ta chia vốn thành 2 loại: vốn
trong nước và vốn ngoài nước.
- Căn cứ vào quan hệ sở hữu trong quy trình sử dụng vốn, người ta
phân chia vốn thành 2 loại: vốn chủ sở hữu và vốn vay.
- Căn cứ vào thời gian tham gia của vốn vào quá trình hoạt động sản
xuất, kinh doanh người ta chia thành các loại: vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và
vốn dài hạn.
Ngồi ra cịn có một số cách thức phân loại vốn khác như: vốn đầu tư
trực tiếp, vốn đầu tư gián tiếp, vốn với mục đích sinh lời trực tiếp và vốn để
đảm nhiệm các dịch vụ công cộng, vốn thực (tư bản thật), vốn ảo (tư bản ảo).
Việc phân chia vốn thành nhiều loại khác nhau nhằm mục đích hiểu rõ
bản chất của phạm trù vốn - vốn là hình thái giá trị, là thứ hàng hóa đặc biệt,
có mối liên hệ mật thiết với thời gian. Cùng với việc hiểu rõ bản chất của vốn ta
còn nhận thức được tính đa dạng, nhiều vẻ và phức tạp của vốn trong nền kinh tế
thị trường. Đó là những căn cứ khoa học giúp các chủ thể kinh doanh nắm bắt
kịp thời và chủ động trong kế hoạch huy động, quản lý, sử dụng các loại vốn,
đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Như vậy,vốn của NHTM đóng vai trị quan trọng khơng chỉ trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng mà còn đóng vai trị trong q trình phát triển
kinh tế - xã hội.
1.1.1.2. Nguồn vốn của Ngân hàng Thương mại
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền mà ngân hàng tạo lập
và huy động được để đầu tư cho vay và đáp ứng các nhu cầu khác trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng.
Nguồn vốn của NHTM bao gồm: vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay
và các nguồn vốn khác.
* Vốn tự có:
Là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được thuộc sở hữu của
ngân hàng. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài để hình thành
11
nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Có thể hiểu vốn ngân hàng theo hai
cách tiếp cận sau:
Về khía cạnh kinh tế, nguồn vốn của ngân hàng là vốn do các chủ sở
hữu đóng góp và vốn được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận
được giữ lại. Theo pháp luật Việt Nam, vốn ngân hàng trong trường hợp này
được gọi là vốn chủ sở hữu hay còn gọi là vốn điều lệ và các quỹ dự trữ.
Về khía cạnh quản trị, vốn tự có của ngân hàng bao gồm vốn chủ sở
hữu, vốn thặng dư và các tài sản nợ khác có thể coi như vốn tự có. Luật các tổ
chức tín dụng đã quy định: Vốn tự có gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các
quỹ dự trữ, một số tài sản “nợ” khác của tổ chức tín dụng theo quy định của
Ngân hàng nhà nước. Vốn tự có là căn cứ để tính tốn các tỷ lệ bảo đảm an
tồn trong hoạt động ngân hàng [30, tr.6].
* Vốn huy động:
Là những giá trị tiền tệ mà NHTM huy động được từ các tổ chức kinh
tế và cá nhân trong xã hội, thơng qua việc thực hiện các nghiệp vụ tín dụng,
thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn kinh doanh.
Các khoản tiền gửi tạm thời nhàn rỗi này không thuộc quyền sở hữu của
NHTM, nhưng NHTM được quyền sử dụng chúng. Đây là nguồn vốn chủ yếu
nhất có tỷ trọng chiếm từ 80% trong tổng cơ cấu nguồn vốn hoạt động của ngân
hàng; NHTM dùng nguồn vốn này để cấp tín dụng hay đầu tư vào các nghiệp vụ
sinh lợi trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, khi sử dụng vốn
NHTM ln phải dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả. Vốn huy động
của NHTM bao gồm các loại tiền gửi và các nguồn huy động khác.
Trong nghiệp vụ huy động vốn, các NHTM cung cấp nhiều sản phẩm
tiền gửi khác nhau như: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết
kiệm...Hiện nay, các NHTM đang áp dụng các lọai huy động tiền gửi là: tiền
gửi thanh toán, tiền gửi các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy
tờ có giá. Luật pháp cũng quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của ngân hàng
12
trong việc nhận tiền gửi. Theo luật các tổ chức tín dụng Việt Nam quy định về
tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền
gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức tiền
gửi khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không được hưởng lãi và được hoàn
trả cho người gửi tiền [30, tr.6].
* Vốn đi vay:
Là khoản tiền vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng
huy động vốn bị hạn chế, thiếu vốn đáp ứng các nhu cầu tín dụng; khi đó ngân
hàng có thể đi vay của Ngân hàng Trung ương (NHTƯ ), NHTM khác và các
tổ chức tín dụng. Vốn đi vay là nguồn chủ yếu để chống rủi ro thanh khoản
của các ngân hàng. Để đảm bảo thanh khoản trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng, các ngân hàng thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời. Các
ngân hàng thường vay mượn của nhau và vay các tổ chức tín dụng khác trên
thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có số dư tiền gửi vượt yêu cầu
chưa sử dụng sẽ cho các ngân hàng khác vay để có nguồn thu từ lãi suất cao
hơn. Khoản vay có thể có đảm bảo hoặc cho vay khơng có đảm bảo tùy theo
mức độ tín nhiệm giữa các ngân hàng, hoặc mối quan hệ giữa các ngân hàng
với nhau.
Ngoài ra các ngân hàng cịn có thể vay qua các hình thức phát hành
giấy tờ có giá (các cơng cụ nợ) như: kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu trên các thị
trường vốn. Các khoản vay này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bổ sung cho
các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung, dài hạn, là giải
pháp tình thế cho ngân hàng trong hồn cảnh khó khăn. Nguồn vốn của
NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động được dùng để
cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
* Vốn khác:
Là toàn bộ giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được thông qua việc
cung cấp các phương tiện thanh toán và cung cấp các dịch vụ ủy thác đầu tư,
13
vốn phát sinh từ nghiệp vụ đại lý, nghiệp vụ ủy nhiệm. NHTM có thể sử dụng
tạm thời các khoản vốn này vào hoạt động kinh doanh của mình.
Nguồn đi vay thường có chi phí rất thấp và tỷ trọng nguồn vốn này cao
hay thấp phụ thuộc vào chất lượng dịch vụ và uy tín của khách hàng.
Như vậy, thực chất đại bộ phận nguồn vốn của ngân hàng là một bộ
phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối
và tiêu dùng mà người chủ sở hữu của chúng gửi vào ngân hàng để thực hiện
các mục đích khác nhau.
Có thể nói một cách khác, việc chuyển nhượng của khách hàng (cá
nhân, pháp nhân) về quyền sử dụng vốn tiền tệ cho ngân hàng để nhận lại một
khoản thu nhập. Như vậy, ngân hàng thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại
dưới hình thức tiền tệ làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ kích
thích hoạt động kinh tế phát triển, đồng thời chính các hoạt động đó quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Nhìn chung nguồn vốn chi phối tồn
bộ các hoạt động và quyết định tới việc thực hiện chức năng của các NHTM.
1.1.2. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào muốn hoạt động kinh doanh được thì
phải có vốn, bởi vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng
kinh doanh. Riêng đối với các NHTM là doanh nghiệp kinh doanh một loại
hàng hóa đặc biệt là “tiền tệ” với đặc thù hoạt động kinh doanh là “đi vay để
cho vay”. NHTM hoạt động với mục đích chung là vì lợi nhuận và vì sự tăng
trưởng khơng ngừng của nguồn vốn, đây là yếu tố không thể thiếu được để
tiến hành và phát triển các hoạt động kinh doanh. Cho nên nguồn vốn đối với
NHTM lại càng có vai trị hết sức quan trọng, trong đó nguồn vốn mà NHTM
đi huy động chiếm phần lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh hiện nay.
1.1.2.1. Vốn là cơ sở để Ngân hàng Thương mại tổ chức mọi hoạt
động kinh doanh
Ngân hàng khơng có vốn thì khơng thể thực hiện được các nghiệp vụ
kinh doanh. Bởi vì đặc trưng của hoạt động ngân hàng là “nhận tiền gửi và
14
kinh doanh tiền gửi” hoạt động của ngân hàng gắn bó mật thiết với hệ thống
tiền tệ và hệ thống thanh tốn. Vốn khơng chỉ là phương tiện kinh doanh
chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của ngân hàng, vốn là nhân tố
quan trọng nó phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh.
Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức hoạt động kinh doanh, ngân hàng không
thể thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh nếu khơng có vốn.
Có thể nói vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân
hàng; do đó ngồi vốn ban đầu cần thiết, tức là đủ vốn điều lệ theo luật định
thì ngân hàng vẫn phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong
suốt quá trình hoạt động của mình.
1.1.2.2. Vốn quyết định khả năng thanh tốn và đảm bảo uy tín của
ngân hàng trên thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô
hoạt động địi hỏi ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị trường là điều trọng yếu.
Uy tín đó phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán, chi trả
cho khách hàng của ngân hàng phải đảm bảo tốt, khả năng thanh toán của ngân
hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Do vậy loại trừ các
nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân
hàng nói chung và vốn khả dụng nói riêng, với tiềm năng vốn lớn thì ngân hàng
có thể hoạt động kinh doanh với quy mô lớn và ngày càng mở rộng, tiến hành
các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả để giữ được chữ tín với khách hàng đồng
thời nâng cao khả năng thanh toán trên thị trường của ngân hàng. Với một ngân
hàng có quy mơ vốn nhỏ, khi nhu cầu vay vốn trên thị trường là rất lớn, một mặt
ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu vay, mặt khác với quy mô nhỏ ngân hàng
nếu cho vay tối đa nguồn vốn huy động được, nguồn dự trữ thanh tốn ít sẽ dẫn
đến mất khả năng thanh tốn làm mất uy tín đối với khách hàng. Doanh số hoạt
động sẽ không tăng và ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh nhất
là hoạt động kinh doanh trong cơ chế kinh tế thị trường như hiện nay.
15
Như vậy, bằng công cụ lãi suất, các ngân hàng có thể cạnh tranh (trên
phương diện giá cả) một cách có hiệu quả. Một điều mà chúng ta dễ dàng
nhận thấy, nếu một ngân hàng có nguồn vốn lớn sẽ tạo điều kiện giúp cho
ngân hàng tự chủ được nguồn tài chính để hoạt động kinh doanh một cách đa
năng trên thị trường. Ngân hàng không chỉ đơn thuần thực hiện nghiệp vụ cho
vay mà cịn mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết kinh doanh các dịch vụ
thuê mua, mua bán nợ…Chính các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp
phần phân tán rủi ro trong kinh doanh và tạo thêm vốn cho ngân hàng.
1.1.2.3. Vốn quyết định quy mô hoạt động kinh doanh của ngân
hàng
Vốn của ngân hàng quyết định việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín
dụng. Về quy mơ hoạt động được thể hiện ở tổng giá trị tài sản của ngân hàng,
đó là giá trị các khoản vay đầu tư. Các ngân hàng nhỏ có phạm vi hoạt động
kinh doanh, khoản mục đầu tư, doanh số cho vay hàng năm thấp, kém đa
dạng, do đó đã ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn của các tổ chức kinh tế
và tầng lớp dân cư, khơng có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn vay đối với mọi
khách hàng. Họ sẽ mất khách hàng và khơng tận dụng được cơ hội kinh
doanh. Cịn các ngân hàng có một nguồn vốn lớn thì phạm vi đầu tư tín dụng
của các ngân hàng đó khơng những được mở rộng trong phạm vi quốc gia mà
còn mở rộng ra cả thị trường nước ngoài. Nguồn vốn lớn còn giúp ngân hàng
hoạt động kinh doanh với nhiều loại hình khác nhau, đồng thời nâng cao uy
tín trên thị trường. Vì vậy, vốn có vai trị quyết định trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
1.1.2.4. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Thực tế chứng minh: quy mơ, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật
hiện đại của NHTM là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Công tác huy động
vốn được đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc mở rộng
quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mơ, khối lượng tín
16
dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay thậm chí quyết định mức lãi suất
ưu đãi cho khách hàng. Những điều kiện thuận lợi áp dụng cho khách hàng sẽ
thu hút được lượng khách hàng lớn đến với ngân hàng, doanh số hoạt động sẽ
tăng lên, ngân hàng có nhiều thuận lợi trong kinh doanh. Đây cũng là điều kiện
để bổ sung thêm vốn tự có của ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và
quy mô hoạt động của ngân hàng trên mọi lĩnh vực và có đủ khả năng tài chính
để kinh doanh đa năng trên thị trường. Ngân hàng không chỉ đơn thuần là dịch
vụ cho vay truyền thống mà còn mở rộng các hình thức dịch vụ mới tạo thêm
vốn cho ngân hàng, đồng thời tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
1.2. NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN,
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NGÂN HÀNG
1.2.1. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, chức năng
và các hoạt động chủ yếu
1.2.1.1. Tổng quan về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nơng
thơn Việt Nam
NHNo&PTNT Việt Nam là loại hình doanh nghiệp đặc biệt thực hiện
kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Tiền thân của NHNo&PTNT Việt
Nam là Ngân hàng Phát triển Việt Nam (NHPTViệt Nam).
Được thành lập theo Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ) trên cơ sở Chính phủ cho phép áp dụng mơ
hình NH hai cấp ở Việt Nam. NHPT Việt Nam tiếp nhận từ Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) tất cả các chi nhánh NHNN huyện, phịng tín dụng nơng nghiệp,
quỹ tiết kiệm NHNN huyện, thị xã, quỹ tiết kiệm NHNN tỉnh, thành phố.
Ngày 14/11/1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng (nay là Thủ tướng
chính phủ) ký quyết định số 400/CT thành lập Ngân hàng Nông nghiệp Việt
Nam (NHNoViệt Nam) thay thế NHPT Việt Nam. NHNo Việt Nam là một
NHTM đa năng, hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
17
NHNoViệt Nam là một pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình trước pháp luật.
Theo quyết định số 160/QĐ-NHNN ngày 30/7/1994 của Thống đốc
NHNN Việt Nam về việc chấp thuận mơ hình đổi mới hệ thống quản lý của
NHNo Việt Nam, theo đó được xác định: NHNo Việt Nam có hai cấp: cấp
tham mưu và cấp trực tiếp kinh doanh. Đây thực sự là bước ngoặt về tổ chức
bộ máy của NHNo Việt Nam và cũng là nền tảng cơ bản cho hoạt động kinh
doanh của NHNo&PTNT Việt Nam sau này.
Ngày 15/11/1996, được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền, Thống đốc
NHNN Việt Nam ký quyết định số 280/NHNN đổi tên NHNo Việt Nam thành
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT
Việt Nam) theo mô hình Tổng cơng ty 90, hoạt động theo Luật các TCTD và
chịu sự quản lý trực tiếp của NHNN Việt Nam.
Với tên gọi NHNo&PTNT Việt Nam, ngoài chức năng của một NHTM,
NHNo&PTNT được xác định thêm nhiệm vụ đầu tư phát triển đối với khu
vực nông nghiệp, nông thôn thông qua việc mở rộng đầu tư vốn trung, dài hạn
để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất, nơng lâm nghiệp, thủy hải
sản góp phần thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước.
Từ năm 1990 đến nay, NHNo&PTNT được chuyển từ một ngân hàng
hoạt động trong cơ chế bao cấp, sang cơ chế thị trường vừa làm chức năng
thương mại vừa làm chức năng phát triển. Hoạt động huy động vốn để đầu tư
tín dụng của hệ thống NHNo&PTNT trong thời gian qua được hướng vào
phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Vốn điều lệ NHNo&PTNT Việt Nam lúc mới thành lập là 200 tỷ đồng.
Hiện nay NHNo&PTNT Việt Nam là NHTM lớn nhất với tổng nguồn vốn
huy động là 445.388 tỷ đồng. Tổng dư nợ là 380.063 tỷ đồng với hơn 35 triệu
khách hàng của các thành phần kinh tế. Là một ngân hàng đầu tư phát triển
18
mạnh hệ thống sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, trong đó tập trung phát
triển các sản phẩm dịch vụ thuộc thế mạnh vốn có như thanh tốn trong nước,
thanh toán quốc tế. Đến nay NHNo&PTNT Việt Nam phát hành 5,3 triệu thẻ và
với 1.702 máy ATM, trở thành ngân hàng số 1 Việt Nam về số lượng thẻ ATM,
là ngân hàng đi đầu cung cấp nhiều sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại.
Hiện nay trên toàn quốc có hơn 2200 chi nhánh, với hơn 35 ngàn cán
bộ nhân viên, mạng lưới hoạt động được trải rộng trên các tỉnh, thành, từ
nông thôn đến thành thị, vùng sâu, vùng xa đều có chi nhánh, phịng giao dịch
NHNo&PTNT hoạt động. Ngoài ra NHNo&PTNT đã thiết lập được quan hệ
với trên 900 ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế ở 110 vùng quốc gia lãnh
thổ. NHNo&PTNT Việt Nam cũng là ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam đã
tiếp nhận và triển khai hàng trăm dự án của Ngân hàng thế giới (WB), Ngân
hàng Phát triển châu Á(ADB), Cơ quan phát triển Pháp (AFD)… Doanh số
thanh toán hàng xuất nhập khẩu, doanh số mua bán ngoại tệ đều tăng năm sau
cao hơn năm trước. Với quy mô hoạt động rộng lớn NHNo&PTNT Việt Nam
đã khẳng định là ngân hàng chủ đạo, chủ lực trong thị trường tài chính nơng
thơn, đồng thời là NHTM đa năng, giữ vị trí hàng đầu trong hệ thống NHTM
ở Việt Nam.
1.2.1.2. Chức năng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Việt Nam
Điều 20 Luật các TCTD có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/10/1998
quy định: NH là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện tồn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và
mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm Ngân hàng Thương mại,
Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng Chính sách, Ngân hàng
Hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác [30, tr.12].
Như vậy, NHNo&PTNT cũng là một NHTM và là loại hình doanh
nghiệp đặc biệt thực hiện kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tạo lập nguồn vốn
19
và cung cấp các dịch vụ cho công chúng. NHNo&PTNT đồng thời cũng thực
hiện nhiều chức năng trong nền kinh tế như chức năng của một NHTM đó là:
* Chức năng trung gian tài chính
Đây là chức năng nhận tiền gửi và cho vay được thực hiện thông qua
việc chuyển tiền tiết kiệm thành tiền đầu tư. Như vậy khi chuyển thành đầu tư
địi hỏi phải có sự tiếp xúc với hai bộ phận, đó là những cá nhân và tổ chức
trong nền kinh tế và là các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức
là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập. Vì thế họ là những
người cần bổ sung thêm vốn.
Những cá nhân dư thừa vốn cũng có thể trực tiếp đầu tư bằng cách mua
các công cụ tài chính như: cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp hoặc chính
phủ thơng qua thị trường tài chính. Nhưng thị trường tài chính trực tiếp đơi
khi khơng đem lại hiệu quả cao nhất cho người đầu tư vì khó tìm kiếm thơng
tin, chi phí tìm kiếm thơng tin và giao dịch lớn, chất lượng thơng tin khơng
cao và phải có sự trùng khớp về nhu cầu giữa một người thừa vốn và người
thiếu vốn về số lượng, thời hạn… Chính vì thế NHNo&PTNT với tư cách là
một trung gian tài chính đứng ra nhận tiền gửi tiết kiệm và cung cấp vốn cho
nền kinh tế với số lượng và thời hạn phong phú, đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu
về vốn của khách hàng có đủ điều kiện vay vốn. Với mạng lưới giao dịch rộng
khắp, các dịch vụ đa dạng, cung cấp thông tin nhiều chiều, NHNo&PTNT
thực sự giải quyết được những hạn chế của thị trường tài chính, trực tiếp góp
phần nâng cao hiệu quả luân chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường.
Chính với chức năng này, thời gian qua NHNo&PTNT đã góp phần
quan trọng vào việc điều hịa lưu thơng tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền,
kiềm chế lạm phát.
* Chức năng tạo tiền
Chức năng tạo tiền được thực hiện thơng qua các hoạt động tín dụng và
đầu tư của NHNo&PTNT trong mối quan hệ với NHTƯ, đặc biệt là trong quá
20
trình thực thi chính sách tiền tệ, mà mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định
giá trị đồng tiền, tạo sự tăng trưởng kinh tế và tạo được nhiều việc làm. Do đó
khối lượng tiền cung ứng phải vừa đủ và không được phép vượt, nếu tiền
cung ứng tăng quá nhanh, tất yếu sẽ xảy ra vấn đề lạm phát và gây ra những
hậu quả xấu mà nền kinh tế phải gánh chịu.
NHNo&PTNT hoạt động như một kênh dẫn vốn để thơng qua đó tiền
cung ứng được tăng lên hay giảm xuống nhằm đạt được các mục tiêu là ổn
định giá trị đồng tiền và tăng trưởng kinh tế.
Chức năng tạo tiền là chức năng cực kỳ quan trọng của NHTM nói
chung, NHNo&PTNT nói riêng; chức năng này được thể hiện trong q trình
NH cấp tín dụng cho nền kinh tế và hoạt động đầu tư của ngân hàng, trong
mối quan hệ với NHTƯ. Từ một lượng tiền cơ sở do NHTƯ phát hành qua hệ
thống NHTM sẽ được tăng lên gấp bội khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Như vậy sức mạnh của hệ thống NHNo&PTNT nhằm tạo tiền mang ý
nghĩa kinh tế to lớn. Hệ thống tín dụng năng động là điều kiện cần thiết cho sự
phát triển kinh tế theo một hệ số tăng trưởng vững chắc. Nếu tín dụng ngân hàng
khơng tạo được tiền đề mở ra những điều kiện thuận lợi cho q trình sản xuất
và những hoạt động của nó thì trong nhiều trường hợp, sản xuất không thực hiện
được và nguồn tích lũy từ lợi nhuận, các nguồn khác sẽ bị hạn chế.
* Chức năng cung cấp và quản lý các phương tiện thanh tốn
Thơng qua chức năng làm trung gian tài chính, ngân hàng làm tăng
lượng tiền trong lưu thông và cung cấp cho những người đầu tư những chứng
khốn có độ rủi ro thấp hơn, do đó sẽ an toàn hơn khi nhà đầu tư nắm giữ
những chứng khốn sơ cấp do doanh nghiệp, cơng ty phát hành.
Cùng với sự phát triển công nghệ của các NHTM khác, NHNo&PTNT
được cung cấp công nghệ ngân hàng tiên tiến, các phương tiện thanh toán
phong phú, đa dạng và rất thuận tiện cho khách hàng: các loại séc chuyển
tiền, chuyển khoản, thẻ tín dụng, card điện tử… Sự xuất hiện các phương tiện
21
thanh toán này tạo điều kiện dễ dàng cho các doanh nghiệp trong giao dịch
thương mại, mua bán hàng hóa an tồn, nhanh chóng và chi phí thấp.
* Chức năng cung cấp các dịch vụ tài chính
Ngồi các dịch vụ truyền thống là huy động vốn và cho vay,
NHNo&PTNT ngày nay cung cấp cho khách hàng một danh mục dịch vụ khá
đa dạng và phong phú như dịch vụ thanh tốn, dịch vụ mơi giới, bảo lãnh, tư
vấn, bảo hiểm… Do nhu cầu phát triển của nền kinh tế cùng với sự phát triển
của khoa học kỹ thuật, các loại dịch vụ ngân hàng cũng phát triển và mang lại
nhiều tiện ích cho khách hàng, tỷ trọng thu nhập từ nguồn thu phí dịch vụ của
các ngân hàng hiện đại từ 40-50% trên tổng thu của ngân hàng. Đồng thời
việc phát triển các dịch vụ này cũng làm tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng chu
chuyển vốn trong nền kinh tế, làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông do đó
tiết kiệm được chi phí in ấn kiểm đếm tiền.
Trong điều kiện hiện nay, hoạt động của NHNo&PTNT có sự cạnh
tranh khốc liệt, do vậy NHNo&PTNT thường đưa ra nhiều sản phẩm dịch vụ
mới để làm tăng tiện ích sử dụng của mọi khách hàng. Đây là một yếu tố cạnh
tranh để quyết định sự sống còn của NHNo&PTNT. Muốn tồn tại các ngân
hàng rất tích cực đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ tin
học, khoa học kỹ thuật vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng mình một
cách tiên tiến, hiện đại và có hiệu quả. Các loại hình dịch vụ ngân hàng nếu
đáp ứng đầy đủ cho khách hàng sử dụng thì khả năng huy động vốn đạt rất
cao. Đây là một trong những biện pháp huy động vốn hữu hiệu nhất.
1.1.1.3. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn
* Huy động vốn
Huy động vốn được coi là hoạt động cơ bản có tính chất sống cịn đối
với bất kỳ một NHTM nào, vì hoạt động huy động vốn tạo ra nguồn vốn chủ
yếu cho các NHTM kinh doanh. NHNo&PTNT là một NHTM do vậy hoạt
22
động huy động vốn cũng được đặc biệt quan tâm. Hiện nay NHNo&PTNT
được phép huy động vốn bằng nhiều hình thức:
+ Nhận tiền gửi
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư, của tổ chức đoàn thể xã hội:
Đây là một trong những nguồn vốn lớn mà ngân hàng huy động được.
Thơng thường khi khách hàng gửi tiền thì nhận được một sổ tiết kiệm trong
đó nhân viên ngân hàng xác định toàn bộ số tiền gửi vào, rút ra, gửi thêm vào
hoặc nhận tiền lãi.
Việc phân chia các khoản tiền gửi tiết kiệm của dân cư có thể theo
nhiều tiêu thức khác nhau. Nhưng thường người ta phân chia các khoản tiền
gửi tiết kiệm của dân cư theo tiêu thức thời gian, tức là gồm tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
- Tiền ký gửi của các tổ chức cá nhân:
Là những khoản tiền mà khách hàng đem ký gửi vào ngân hàng. Việc
sử dụng những khoản tiền ký gửi được thực hiện theo những thỏa thuận giữa
khách hàng và ngân hàng.
- Nhận tiền gửi của các TCTD khác
Ngồi hình thức nhận tiền gửi kiệm từ dân cư, tiền ký gửi các tổ chức
cá nhân để nhằm tăng thêm nguồn vốn huy động, NHNo&PTNT còn nhận
tiền gửi từ các TCTD khác như Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH) và
các NHTM khác. Nhận tiền gửi của các TCTD khác thơng qua các hình thức:
+ Phát hành các loại phiếu nợ: trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ
Chứng chỉ, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng là hoạt động huy động vốn
rất cơ động. Bằng các cơng cụ này các ngân hàng có thể tạo ra một khối lượng
vốn lớn một cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu vốn cấp bách; điều này
đặc biệt khi nền kinh tế có xảy ra lạm phát. Chứng chỉ, trái phiếu, kỳ phiếu
ngân hàng phát hành ra vừa có tác dụng duy trì khối lượng vốn vừa có tác
dụng chống lạm phát. Các ngân hàng phải trả lãi suất cao hơn cho các hình
thức huy động này so với lãi suất tiền gửi huy động. Như vậy, khi thực hiện
23
huy động vốn dưới các hình thức này, các ngân hàng phải căn cứ vào đầu ra
để quyết định về khối lượng huy động, mức lãi suất và thời hạn, phương pháp
huy động vốn. Nguồn vốn này chỉ được huy động trong một thời gian nhất
định, khi được đủ khối lượng vốn theo dự kiến ngân hàng sẽ ngừng việc phát
hành chứng chỉ, trái phiếu, kỳ phiếu.
- Huy động từ nguồn vay vốn
Trong trường hợp khả năng huy động vốn của ngân hàng bị thiếu hụt
khi nhu cầu thanh toán, chi trả cho khách hàng tăng cao thì bắt buộc các ngân
hàng phải vay mượn thêm. Nguồn đi vay được hình thành dựa trên mối quan
hệ vay mượn của NHTM với NHTƯ, với các TCTD khác.
Các NH thường vay NHTƯ khi khả năng chi trả của ngân hàng không
đáp ứng được nhu cầu trong thời gian ngắn. Các ngân hàng vay vốn của
NHTƯ dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu để bù đắp thiếu hụt trong
thanh toán, bổ sung vốn dự trử.
Quy trình vay mượn giữa NHNo&PTNT với các ngân hàng khác rất
đơn giản, khi đi vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc
thông qua đại lý. Khoản vay có thể có hoặc khơng có tài sản đảm bảo, dựa
trên cơ sở uy tín của ngân hàng.
* Hoạt động tín dụng
+ Cho vay:
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản, có ý nghĩa lớn đối với nền
kinh tế xã hội, vì thơng qua hoạt động này mà hệ thống NHTM cung cấp một
khối lượng vốn tín dụng rất lớn cho nền kinh tế, nhờ khối lượng vốn này mà
nền kinh tế sẽ phát triển nhanh hơn, bền vững hơn [9, tr.45].
Do đó, song song với công tác huy động vốn, NHNo&PTNT thực hiện
nghiệp vụ tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các tổ chức kinh tế, các
doanh nghiệp trong nền kinh tế. Hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lợi chủ
yếu đối với NHNo&PTNT.
24
Căn cứ vào thời hạn cho vay, các NHNo&PTNT cung cấp vốn cho nền
kinh tế một cách đa dạng và phong phú, thường xuyên phù hợp với điều kiện
kinh tế. Có hai loại cho vay: cho vay vốn lưu động và cho vay vốn cố định.
Mỗi một loại cho vay có một đặc điểm khác nhau và có thể phân thành
nhiều loại: cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; cho vay sửa chữa xây
dựng nhà ở; cho vay thương mại dịch vụ; cho vay phát triển tiểu thủ công
nghiệp; cho vay tiêu dùng và đời sống; cho vay các lĩnh vực khác vv…
+ Chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá:
Chiết khấu thương phiếu được hiểu là việc ngân hàng mua các thương
phiếu và chứng từ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán [8, tr.206].
Như vậy nếu khách hàng là người chủ sở hữu các thương phiếu và
chứng từ có giá, chưa thanh tốn, cần có tiền ngay thì có thể đến ngân hàng
xin chiết khấu, tức là xin nhận tiền trước theo cách khấu trừ tiền lãi và phải
chuyển quyền sở hữu chứng từ cho ngân hàng chiết khấu. Khi chứng từ đến
hạn ngân hàng sẽ xuất trình cho người trả tiền và người trả tiền thanh tốn
tồn bộ số tiền chứng từ cho ngân hàng chiết khấu.
+ Cho thuê tài chính (financial leasing)
Đây là loại hình tài trợ dưới hình thức cho thuê máy móc, thiết bị theo
yêu cầu của người đi thuê và được thực hiện thông qua công ty con của
NHNo&PTNT. Cho th tài chính là loại hình nghiệp vụ tín dụng trung, dài
hạn mới hình thành và phát triển từ những thập niên 90 của thế kỷ XX.
+ Bảo lãnh ngân hàng (bank guarantee)
Bảo lãnh ngân hàng là tín dụng bằng chữ ký, nhờ chứng thư bảo lãnh
của ngân hàng mà người được bảo lãnh có thể ký kết và thực hiện các hợp
đồng kinh tế, thương mại, hợp đồng tài chính một cách thuận lợi. Trong hoạt
động kinh tế, thương mại tài chính, các chứng thư bảo lãnh của ngân hàng đều
rất có uy tín, được tin tưởng khơng những trong phạm vi một nước mà cả trên
phạm vi quốc tế.
25
+ Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Đây là hoạt động quan trọng của ngân hàng, nhờ hoạt động này mà các
giao dịch thanh tốn của tồn bộ nền kinh tế được thực hiện thông suốt và
thuận lợi. Đồng thời qua hoạt động thanh toán và dịch vụ ngân quỹ góp phần
làm giảm lượng tiền mặt lưu hành trong nền kinh tế. Hoạt động dịch vụ thanh
toán và ngân quỹ NHNo&PTNT gồm:
- Mở tài khoản giao dịch cho khách hàng là pháp nhân hoặc cá nhân
trong và ngoài nước.
- Cung ứng các phương tiện thanh toán cho khách hàng.
- Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế.
- Thực hiện các dịch vụ thu hộ, chi hộ
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác
- Thực hiện dịch vụ ngân quỹ gồm thu phát tiền mặt, kiểm đếm, phân
loại, bảo quản, vận chuyển tiền mặt…)
- Khi được phép, NHNo&PTNT còn được tham gia hệ thống thanh toán
bù trừ trong nước và hệ thống thanh toán quốc tế.
* Hoạt động khác
NHNo&PTNT ngồi những hoạt động nói trên còn thực hiện các hoạt
động khác phù hợp với chức năng nghiệp vụ của một NHTM không bị luật
pháp nghiêm cấm gồm: góp vốn, mua cổ phần (góp vốn, mua cổ phần vào các
doanh nghiệp, góp vốn mua cổ phần các tổ chức tín dụng khác); thực hiện
việc mua bán chứng từ có giá trên thị trường; kinh doanh các loại hình bảo
hiểm (bảo hiểm tài sản, bảo an tín dụng, bảo hiểm thân thể…); cung ứng dịch
vụ tư vấn tài chính tiền tệ và các dịch vụ khác có liên quan.
1.2.3. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng Nơng nghiệp và
Phát triển Nơng thơn
Q trình huy động để tạo nguồn vốn của NHNo&PTNT được thể hiện
dưới các hình thức sau:
1.2.3.1. Nhận tiền gửi