Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng an ninh ở thủ đô viêng chăn, nước cộng hoà dân chủ nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.77 KB, 108 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động vẫn chưa từ bỏ
âm mưu xâm lược từ bên ngoài, hoặc gây bạo loạn lật đổ từ bên trong để phá
hoại công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở các nước chậm phát triển. Hơn nữa, trong điều kiện tồn cầu hóa kinh tế,
mỗi các quốc gia không thể phát triển được nếu không mở cửa hội nhập kinh
tế với các nước khu vực và thế giới. Vì thế, các thế lực thù địch thường lợi
dụng ưu thế này để thực hiện âm mưu "diễn biến hồ bình" của chúng. Do đó,
vấn đề nghiên cứu, nhận thức đúng đắn về phát triển kinh tế gắn với củng cố
quốc phòng - an ninh trong quá trình thực hiện cơng cuộc đổi mới nền kinh tế
nước Cộng hoà dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào hiện nay nói chung, ở Thủ
đơ Viêng Chăn nói riêng là vấn đề đang đặt ra hết sức cấp thiết. Kinh tế và
quốc phịng - an ninh là hai lĩnh vực có mối quan hệ biện chứng với nhau và
hỗ trợ lẫn nhau. Quốc phòng - an ninh theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ hoạt
động xây dựng và bảo vệ đất nước, giữ gìn trật tự và an tồn xã hội, tạo điều
kiện cho các thành phần kinh tế hoạt động đạt hiệu quả kinh tế cao. Kinh tế
theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ hoạt động tái sản xuất ra của cải vật chất
cho xã hội. Sự phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng - an ninh là
sự kết hợp giữa hai hoạt động đó nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội
tối ưu cho cả hai.
Nhận thức rõ âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch, những
năm qua, việc phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng - an ninh đã
được Đảng, Nhà nước và chính quyền Thủ đơ Viêng Chăn đặc biệt quan tâm.
Qua tổ chức thực hiện chủ trương phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc
phịng - an ninh ở Thủ đơ Viêng Chăn theo phương châm lấy phát triển kinh tế


2
làm trung tâm, làm cho mỗi bước phát triển kinh tế là một bước phát triển về


xã hội, dân cư và cũng là một bước tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh.
Đến nay chúng ta đã đạt được một số kết quả bước đầu góp phần giữ vững sự
ổn định và phát triển.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện phát triển kinh tế với
củng cố quốc phịng - an ninh ở Thủ đơ Viêng Chăn cũng đã bộc lộ nhiều mặt
hạn chế, từ nhận thức đến tổ chức thực hiện, ảnh hưởng không tốt đến yêu cầu
tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh. Vì vậy, việc nghiên cứu "Phát
triển kinh tế gắn với củng cố quốc phịng - an ninh ở Thủ đơ Viêng Chăn,
nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào" là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước Lào hiện
nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng - an ninh đã có
nhiều tác giả nghiên cứu dưới góc độ khác nhau, đã có một số cơng trình được
xuất bản thành sách hoặc đăng tải tạp chí, hoặc một số luận văn thạc sĩ, luận
án tiến sĩ đề cập tương đối toàn diện như: “Vấn đề kết hợp kinh tế với quốc
phòng ở nước ta”, Trần Xuân và Nguyễn Anh Bắc, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1980; “Mấy vấn đề về đảm bảo kinh tế cho quốc phòng ở nước
ta”của Nguyễn Đường và Nguyễn Anh Bắc, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,
1986; “Kết hợp kinh tế với quốc phòng ở nước ta hiện nay”, Trần Trung Tín,
luận án tiến sĩ, bảo vệ năm 1998; “Quân đội nhân dân Lào với sự nghiệp xây
dựng kinh tế đất nước trong giai đoạn hiện nay” của Khăm Pha Mon Vông
Xay, luận án tiến sĩ kinh tế, bảo vệ năm 2004; “Kết hợp kinh tế với quốc
phòng trong giai đoạn hiện nay ở Nghệ An” của Nguyễn Văn Trạch, luận văn
Thạc sĩ, bảo vệ năm 1999; “Kết hợp kinh tế với củng cố quốc phòng ở vùng biên
giới Tây Nguyên” của Trần Thị Len, luận văn Thạc sĩ kinh tế, bảo vệ năm 2006.


3
Ngồi ra trên một số tạp chí cịn có những bài viết về kết hợp kinh tế với

quốc phòng - an ninh như: “Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh, thực
trạng và một số giải pháp chủ yếu” của Đại tá Phan Thanh Vân, Tạp chí Quốc
phịng toàn dân, số 1/1999; “Hà Tĩnh phát triển kinh tế - xã hội củng cố quốc
phòng, an ninh trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố” của Đặng
Duy Báu, Tạp chí Quốc phịng tồn dân, số 10/1996; “Lai Châu khắc phục
khó khăn, đẩy mạnh phát triển kinh tế -xã hội, củng cố quốc phịng - an ninh”,
Tạp chí Quốc phịng tồn dân, số 5/2004; “Quảng Bình đẩy mạnh kết hợp
phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh” của Đại tá
Nguyễn Hữu Cường, Tạp chí Quốc phịng tồn dân, số 7/2003; “Kết hợp đối
ngoại với quốc phòng - an ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
ngày nay” của Lê Cơng Phục, Tạp chí Quốc phịng tồn dân, số 9/2006...
Những cơng trình và bài viết trên đã làm rõ thực trạng và giải pháp việc
kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, quan tâm nghiên cứu đến
vấn đề quan hệ biện chứng giữa kinh tế và quốc phịng, phân tích các giải
pháp nhằm thực hiện tốt việc kết hợp kinh tế với củng cố quốc phòng - an
ninh ở một số lĩnh vực các tỉnh ở Việt Nam và Lào. Tuy nhiên đến nay vẫn
nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị mà học viên lựa chọn: “Phát triển
kinh tế gắn với củng cố quốc phòng - an ninh ở Thủ đơ Viêng Chăn, nước
Cộng hồ Dân chủ Nhân dân Lào” là mới, chưa được nghiên cứu ở bất cứ
cơng trình khoa học nào ở Việt Nam và Lào.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế gắn với củng cố
quốc phòng - an ninh ở Thủ đô Viêng Chăn để làm cơ sở cho việc phân tích,
đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ quan niệm, sự cần thiết khách quan và các nhân tố ảnh hưởng
tới việc phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng - an ninh.



4
+ Phân tích, đánh giá tình hình thực hiện phát triển kinh tế gắn với củng
cố quốc phòng - an ninh ở Thủ đô Viêng Chăn trong thời gian qua.
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản trong việc thực hiện phát triển kinh tế
gắn với củng cố quốc phịng - an ninh ở Thủ đơ Viêng Chăn trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị, cho nên
đối tượng nghiên cứu là các quan điểm, các giải pháp phát triển kinh tế gắn
với củng cố quốc phòng - an ninh không bàn rộng đến việc phát triển kinh tế
gắn với các lĩnh vực khác.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên các phương pháp nghiên cứu cơ bản của
kinh tế chính trị Mác - Lênin: trừu tượng hố khoa học, kết hợp lơgíc với lịch
sử; đồng thời sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng
hợp, quy nạp và diễn dịch cùng một số phương pháp khác đang được vận
dụng trong khoa học kinh tế.
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các quan điểm, các giải pháp phát triển kinh tế gắn với củng
cố quốc phòng - an ninh; Nghiên cứu thực trạng và giải pháp phát triển kinh
tế gắn với củng cố quốc phòng - an ninh ở địa bàn Thủ đơ Viêng Chăn nước
Cộng hồ Dân chủ Nhân dân Lào.
Nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phịng an ninh ở Thủ đơ Viêng Chăn, chủ yếu từ năm 2000 đến nay.
6. Những đóng góp của luận văn
Làm rõ các quan hệ kinh tế trong phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng
- an ninh trên địa bàn Thủ đô Viêng Chăn, chỉ rõ những nhân tố ảnh hưởng
đến phát triển kinh tế gắn liền với củng cố quốc phòng - an ninh ở Thủ đô
Viêng Chăn.



5
Phân tích đánh giá thực trạng, đề xuất một số giải pháp cơ bản thực hiện
phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng - an ninh ở Thủ đơ Viêng Chăn
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ
GẮN VỚI CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG - AN NINH
1.1. QUAN NIỆM VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN
VỚI CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG - AN NINH

1.1.1. Quan niệm về phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng
- an ninh
1.1.1.1. Quan niệm về phát triển kinh tế
Kinh tế là phạm trù dùng để phản ánh một lĩnh vực đặc biệt quan trong
của đời sống xã hội – lĩnh vực sản xuất vật chất. Theo Từ điển tiếng Việt,
“kinh tế là tổng thể nói chung những quan hệ sản xuất của một hình thái kinh
tế - xã hội nhất định” [28, tr.530]. Xét theo nghĩa chung nhất, nội hàm của
khái niệm kinh tế bao hàm hai mặt, gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, trong đó lực lượng sản xuất với tư cách là tổng thể những tư liệu sản
xuất và sức lao động hiện có của xã hội luôn thể hiện qua hệ giữa con người
với tự nhiên, phản ánh trình độ chinh phục thiên nhiên của con người; cịn
quan hệ sản xuất phản ánh hình thái xã hội của sản xuất, thể hiện quan hệ giữa
người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của
cải vật chất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có tác động qua lại biện
chứng lẫn nhau, mà trong đó lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định và đến
lượt nó quan hệ sản xuất có tác động trở lại một cách mạnh mẽ với lực lượng



6
sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy quá trình sản xuất phát triển và ngược lại.
Sự tương tác giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được thực
hiện thông qua các hoạt động kinh tế của con người và kết quả của các hoạt
động đó. Trong từng điều kiện lịch sử cụ thể, ở phạm vi quốc gia, kết quả
tương tác đó thể hiện quy mô của nền kinh tế cũng như tăng trưởng kinh tế,
biểu hiện tập trung thông qua các chỉ số như tổng sản phẩm quốc nội (GDP),
GDP/đầu người, tổng sản phẩm quốc dân (GNP)… và tốc độ tăng hàng năm
của các chỉ số đó. Tuy nhiên, để phát triển xã hội không những chỉ cần tới
tăng trưởng kinh tế, mà quan trọng hơn là làm thế nào để đạt được mức tăng
trưởng kinh tế cao, ổn định, gắn với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu thế
tiến bộ và nâng cao đời sống của dân cư, từ đó bên cạnh khái niệm tăng
trưởng kinh tế đã xuất hiện và được sử dụng ngày càng rộng rãi khái niệm
phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế là sự tiến bộ về mọi mặt của nền kinh tế trong một
thời kỳ nhất định, được biểu hiện ở sự tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng tiến bộ và chất lượng cuộc
sống của nhân dân được nâng cao.
Phát triển kinh tế bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao và ổn định trong thời gian dài;
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế – xã hội theo hướng tiến bộ. Đối với các
nước đang phát triển, đó là q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế – xã hội theo
hướng công nghiệp hố, hiện đại hố và đơ thị hố.
- Năng lực nội sinh của nền kinh tế ngày càng được gia tăng, đặc biệt là
tính tích cực, năng động, sáng tạo của con người, năng lực khoa học, công
nghệ quốc gia và sức cạnh tranh của nền kinh tế;
- Chất lượng cuộc sống của nhân dân được nâng cao do thành quả của
tăng trưởng và phát triển kinh tế.



7
Như vậy, phát triển kinh tế là xu thế tất yếu của nhân loại nói chung và
từng quốc gia nói riêng trong quá trình tạo lập những điều kiện vật chất cần
thiết cho sự phát triển của xã hội nói chung và từng lĩnh vực nói riêng.
1.1.1.2. Quan niệm về quốc phịng - an ninh
- Quốc phịng:
Có thể đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về quốc phòng, nhưng tất cả
các khái niệm đều đặt vấn đề trọng tâm của quốc phịng là tồn bộ hoạt động
giữ gìn, bảo vệ đất nước và dân tộc.
Quốc phịng là cơng việc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể
hoạt động đối nội, đối ngoại và quân sự, chính trị, kinh tế, văn hố, khoa
học... của Nhà nước và nhân dân đó phịng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh
tồn diện; trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, nhằm giữ vững hồ bình,
đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng
chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức [8, tr.19].
Quốc phịng là “công việc giữ nước của một quốc gia, bao gồm tổng thể
các hoạt động đối nội và đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị,
quân sự, văn hoá, xã hội... của một quốc gia nhằm mục đích bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền của tồn vẹn lãnh thổ, tạo mơi trường thuận lợi đó xây
dựng đất nước” [11, tr.146]. Trong cơng tác quốc phịng, qn đội nhân dân là
lực lượng nịng cốt. Quốc phịng khơng chỉ kết hợp chặt chẽ với an ninh để
bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ, mà còn phải kết hợp chặt chẽ với kinh tế đó
bảo vệ và xây dựng đất nước. Tổ chức quốc phòng của Nhà nước phụ thuộc
trực tiếp vào chế độ chính trị - xã hội, truyền thống dân tộc và hoàn cảnh cụ
thể của mỗi nước.
- An ninh:
Trong chính trị quốc tế, an ninh là một khái niệm cơ bản và cũng là một
giá trị cơ bản. Mọi người thường cho rằng, an ninh là điều kiện tiền đề để



8
nhân loại tồn tại có trật tự. Từng cá nhân con người cũng như quốc gia dân
tộc muốn sinh tồn và phát triển thì phải được bảo vệ và đảm bảo an tồn. Một
xã hội có an ninh là xã hội có đủ khả năng bảo vệ được cho mọi thành viên xã
hội. Vậy, có thể nói rằng an ninh là “trạng thái của một quốc gia có sự ổn định
của mọi mặt, các lợi ích quốc gia được tồn vẹn không bị xâm phạm hoặc đe
doạ xâm phạm” [11, tr.146].
Ở Lào và Việt Nam, bảo vệ an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường
xuyên của toàn dân và của cả hệ thống chính trị do lực lượng an ninh làm nịng
cốt, bảo vệ an ninh ln kết hợp chặt chẽ với quốc phòng. Nền quốc phòng ở
Lào và Việt Nam đang xây dựng và phát triển là nền quốc phịng tồn dân, “của
dân, do dân và vì dân”, theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ,
tự lực, tự cường, ngày càng hiện đại, gắn chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với
quốc phòng – an ninh (QP-AN), dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều
hành của Nhà nước, do nhân dân lao động làm chủ, nhằm giữ vững hồ bình, ổn
định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo loạn lật đổ
của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ đất nước.
1.1.1.3. Quan niệm về phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng an ninh
Kinh tế và QP-AN là những lĩnh vực của đời sống xã hội có tính độc lập
tương đối song có mối quan hệ gắn kết chặt chẽ với nhau. Phát triển kinh tế
tạo ra những điều kiện vật chất ngày càng lớn cho việc đảm bảo, củng cố QPAN; ngược lại những thành quả trong lĩnh vực QP-AN lại trở thành điều kiện
thuận lợi cho phát triển kinh tế. Do vậy, phát triển kinh tế gắn với củng cố
QP-AN là quan điểm, chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, là sự vận
dụng và phát triển quy luật “dựng nước đi đôi với giữ nước”.


9
Gắn kinh tế với QP-AN không phải là vấn đề riêng của thời đại ngày

nay, cũng không phải là vấn đề riêng của một nước, một địa phương, mà là
vấn đề xưa nay đã có và các nước điều thực hiện, song nội dung, phương
thức, mục tiêu của sự kết hợp này thay đổi tuỳ theo sự thay đổi của một loạt
nhân tố, như bối cảnh trong nước, quốc tế, trình độ phát triển kinh tế, chế độ
kinh tế - xã hội, học thuyết QP-AN.
Phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trọng tâm đối với các quốc gia
đang phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế phát triển sẽ
làm thay đổi cả về chất và lượng của lực lượng sản xuất cùng với sự phát triển
và hoàn thiện quan hệ sản xuất, qua đó có tác động lớn đến QP- AN. Các nhà
kinh điển Mác - Lênin đã khẳng định: kinh tế - xã hội, QP-AN là những mặt
hoạt động khác nhau. Mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động riêng và
chịu sự chi phối của hệ thống quy luật riêng, song giữa chúng lại có mối quan
hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó kinh tế là yếu tố suy cho đến cùng
quyết định đến QP-AN, ngược lại, QP-AN cũng tác động trở lại đến kinh tế.
Phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc QP-AN phải “theo phương châm phát
triển kinh tế - xã hội là nền tảng để bảo vệ Tổ quốc, ổn định chính trị, củng cố
QP-AN vững mạnh là điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội” [9, tr.227-228].
Có thể nói, phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN là hoạt động chủ
động của một quốc gia trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật của hai
lĩnh vực kinh tế và QP-AN nhằm tăng cường sức mạnh QP-AN của đất nước
trong quá trình phát triển kinh tế, đồng thời ngăn chặn, hạn chế các tác động
tiêu cực của chiến tranh, bạo lực, âm mưu thủ đoạn đối với phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN trong q trình cơng
nghiệp hố, hiện đại hố (CNH, HĐH) ở nước ta là: Hoạt động tích
cực, chủ động của Nhà nước và nhân dân trong việc gắn kết chặt chẽ
hoạt động phát triển kinh tế - xã hội với hoạt động QP-AN vào một


10
chỉnh thể thống nhất trong tiến trình CNH, HĐH đất nước, góp phần

tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc [11, tr.146].
Sự kết hợp đó là hoạt động của tồn xã hội, song vai trò quyết định
thuộc về Nhà nước trong việc đề ra chiến lược và tổ chức thực hiện nhằm gắn
kết hai lĩnh vực này với nhau.
Phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN là làm sao cho cả hai nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được phát triển cân đối, nhịp nhàng, hợp lý.
Việc tổ chức thực hiện phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN phải bảo
đảm cho cả kinh tế và QP-AN đi đúng quy luật khách quan của nó, khơng
được tuỳ tiện buộc kinh tế phải đi theo một phương hướng “không kinh tế” để
phục vụ cho QP-AN hoặc ngược lại, hạn chế và hạ thấp yêu cầu của QP- AN,
buộc QP-AN phải tuân theo những điều kiện hạn chế hiện có của kinh tế.
Nghĩa là mối quan hệ giữa kinh tế với QP-AN địi hỏi trong xây dựng kinh tế
phải tìm ra những phương hướng, biện pháp, hình thức tổ chức, tự bản thân
nó có tác dụng tích cực lớn nhất thúc đẩy củng cố QP-AN; trong xây dựng QP
-AN, chọn những phương hướng, biện pháp phù hợp nhất với khả năng kinh
tế, giảm bớt đến mức thấp nhất những căng thẳng không cần thiết cho kinh tế,
có tác dụng thúc đẩy kinh tế vượt lên mạnh mẽ.
Chính vì vậy, “phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN là phạm trù
khách quan. Nó xuất hiện trong mối quan hệ kinh tế - xã hội nhất định, nó
phản ánh sự hoạt động tích cực của Nhà nước trên cơ sở nhận biết quy luật
kinh tế và QP-AN nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa phát triển kinh tế và
củng cố QP-AN, thúc đẩy cho nhau phát triển” [52, tr.3]. Đảng và Nhà nước
Lào xác định kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường, củng cố QP
-AN trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo
được xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn.


11
1.1.2. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc

phòng - an ninh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Kinh tế và QP-AN là hai lĩnh vực riêng biệt có nhu cầu và đặc thù hoạt
động khác nhau. Nhưng thực chất giữa kinh tế - xã hội và QP-AN có sự gắn
bó, có quan hệ tương tác đó là quan hệ giữa ổn định và phát triển, là vấn đề
mọi quốc gia đều quan tâm. Sự kết hợp giữa hai lĩnh vực hoạt động với nhau
là nhằm tối ưu hố lợi ích của cả hai lĩnh vực trong từng điều kiện lịch sử cụ
thể. Ph.Ăngghen cho rằng: “công tác tổ chức và phương pháp chiến đấu của
quân đội sẽ giành được thắng lợi hoặc thất bại là phụ thuộc vào điều kiện vật
chất” [17, tr.228]. Việc gắn phát triển kinh tế với củng cố QP-AN ngày nay
trong quá trình đi lên CNXH ở nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào và trong
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng là cần thiết bởi những lý
do sau đây:
1.1.2.1. Phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng - an ninh mới
có thể đảm bảo thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào đã có chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá, vận hành theo
cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, dưới sự quản lý của Nhà nước
của dân, do dân và vì dân, coi đó là vấn đề tất yếu và xuyên suốt thời kỳ thời
kỳ quá độ “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đảm
bảo ổn định và trật tự an toàn vững chắc là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu của
chúng ta và cũng là điều kiện thuận lợi cần thiết cho quá trình phát triển kinh
tế - xã hội và sinh sống của nhân dân” [47, tr.65-66]. Vì vậy, trong chiến lược
xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội là trọng tâm giữ vai trò quyết
định, tạo điều kiện cho việc củng cố và tăng cường QP-AN; ngược lại QP
-AN vững mạnh là điều kiện giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tạo mơi


12
trường thuận lợi cho xây dựng đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền

và toàn vẹn lãnh thổ. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, phát triển kinh tế - xã
hội mang nội dung đấu tranh chính trị sâu sắc. Muốn đạt được tăng trưởng
kinh tế theo hướng củng cố độc lập, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, xây dựng
CNXH phải lấy lợi ích kinh tế là động lực, phát triển kinh tế làm cơ sở, bảo
đảm QP -AN là điều kiện, phải đánh giá đúng mối tương quan giữa các yếu tố
đó để có quan điểm phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN đảm bảo sự hài
hồ các lợi ích của quốc gia, dân tộc, “để làm tròn nhiệm vụ nặng nề vinh
quang trên thì phải tiếp tục giữ vững đường lối QP-AN toàn dân, toàn diện
sâu sắc và rộng mở” [47, tr.66].
1.1.2.2. Phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng - an ninh để
đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, nhanh chóng và bền vững
Trong cơng cuộc phát triển kinh tế đã làm nảy sinh các vấn đề xã hội
và địi hỏi khơng ngừng tăng cường củng cố nhiệm vụ QP-AN. Kinh tế
phát triển càng mạnh thì nhu cầu giữ gìn kỷ cương và bảo đảm an tồn
cho bản thân nó càng lớn, nhu cầu tăng cường hoạt động QP-AN càng
cao, và chính sự phát triển kinh tế - xã hội cũng tạo tiềm lực sức mạnh của
cơng tác QP-AN. Một đất nước có nền kinh tế phát triển sẽ điều kiện ngày
càng thuận lợi hơn cho hoạt động QP-AN, trong đó bao gồm cả việc đảm
bảo các điều kiện về ăn, ở, mặc, đời sống văn hố tinh thần của lực lượng
vũ trang. Trình độ phát triển của kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến sự lớn
mạnh của QP-AN, như sự duy trì về số lượng, trang bị vũ khí, biên chế tổ
chức lực lượng vũ trang, tác động đến chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật
QP-AN. Kinh tế có nhiệm vụ cung cấp nguồn nhân lực, tài chính, kỹ
thuật và cơng nghệ cho quốc phịng, quy định khả năng phòng thủ của
đất nước và khả năng động viên kinh tế cho chiến tranh khi tình huống
địi hỏi; đến lượt nó một nền QP-AN vững mạnh sẽ tạo lá chắn an toàn,


13
tạo mơi trường thuận lợi và hồn tồn ổn định để triển khai đồng bộ các

hoạt động kinh tế.
Chỉ trên cơ sở một nền hồ bình, an ninh của đất nước được bảo
đảm thì mọi tài nguyên, thành quả lao động của nhân dân chẳng những
không bị phá hoại do chiến tranh, mà còn được khai thác sử dụng một
cách có hiệu quả; mọi trí tuệ, tài năng, mọi nguồn lực vật chất, tinh thần
trong nhân dân mới được khai thác tốt nhất vào công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng
bằng, văn minh [29, tr.39].
Vì vậy, muốn phát triển kinh tế bền vững thì khơng thể khơng gắn với
củng cố QP-AN, do QP-AN có vai trị rất lớn trong việc bảo đảm sự ổn định
chính trị, trật tự an tồn xã hội, tạo mơi trường kinh tế thuận lợi, khuyến khích
các thành phần kinh tế trong nước phát triển, thu hút tiềm lực kinh tế nước
ngoài về vốn, khoa học - công nghệ hiện đại để đẩy mạnh sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
1.1.2.3. Phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng - an ninh mới
có thể tạo được thế trận quốc phịng - an ninh toàn dân
Thực tiễn cho thấy, một nền quốc phịng vững mạnh phải là nền quốc
phịng tồn dân và an ninh được đảm bảo tốt nhất khi đó là an ninh nhân dân.
thế trận bảo vệ Tổ quốc là sự thống nhất và kết hợp hài hoà giữa thế trận quốc
phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân dân. Trong sự nghiệp giữ và bảo vệ
đất nước, để tạo ra thế trận quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân cần có
sự tham gia của nhiều chủ thể, cả nhà nước và nhân dân, trong đó lực lượng
vũ trang là nòng cốt với những nguồn lực to lớn. Phát triển kinh tế đóng vai
trị quyết định, vai trị cung cấp nguồn lực cho sự hình thành thế trận quốc
phịng tồn dân và an ninh nhân dân. Bởi vì, kinh tế có vai trị quyết định đến
bản chất, nguồn gốc của QP-AN, quyết định đến sự thành bại của chiến tranh.


14
Đối với các nước mà nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu thì việc hiện đại hố

lực lượng qn đội là điều khơng thể làm được. V.I Lênin viết:
Khó khăn chủ yếu của chúng ta trong cuộc chiến tranh này
không phải là vấn đề về mặt nhân lực, cái đó chúng ta có đầy đủ,
mà là về mặt tiếp tế. Khó khăn chủ yếu trên tất cả các mặt trận là
tiếp tế không đủ, thiếu quần áo ấm và thiếu giầy, áo ca-pốt và cũng
là những thứ mà quân lính của chúng ta thiếu nhiều nhất, chính vì
thiếu những thứ đó mà nhiều lần những cuộc tấn cơng đã cầm chắc
thắng lợi trong tay nhưng lại bị thất bại [16, tr.379].
Kinh tế là một nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh của đất nước, nếu
chính trị và tinh thần là một chỗ mạnh cơ bản, nhưng kinh tế lại chậm phát
triển thì đó là một nhược điểm. Vì vậy, để đảm bảo thực hiện tốt thế trận QP-AN
toàn dân vững mạnh là thế trận được xây dựng, tổ chức bố trí, triển khai lực
lượng, phương diện và tiềm lực mọi mặt của đất nước trên toàn lãnh thổ phù
hợp với ý định chiến lược bảo QP-AN, thì nhất thiết phải trên cơ sở một nền
kinh tế phát triển, cho nên phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN là tất yếu.
1.2. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI CỦNG CỐ QUỐC
PHÒNG - AN NINH VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG

1.2.1. Nội dung phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng - an ninh
Phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN trong giai đoạn hiện nay địi
hỏi phải có nhiều điểm mới. Chúng ta có mối quan hệ thân thiết truyền thống
với các nước trên thế giới, các quan hệ ngoại giao buôn bán, ngày càng được
mở rộng, vị thế của đất nước ngày càng được nâng cao, song cũng có nhiều
thách thức khiến chúng ta phải luôn luôn cảnh giác sẵn sàng đối phó với mọi
tình huống. Do vậy, phải tận dụng và phát huy những yếu tố nội lực, tập trung
phát triển kinh tế để tăng cường tiềm lực QP-AN, nội dung cụ thể của việc
phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN cũng luôn được đổi mới. Phát triển


15

kinh tế gắn với củng cố QP-AN ở Lào cũng như ở Thủ đô Viêng Chăn hiện
nay thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
1.2.1.1. Kết hợp chiến lược quốc phòng - an ninh trong quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
Là sự kết hợp trong xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội với xây dựng tiềm lực thế trận QP-AN trên các vùng lãnh thổ ở từng địa
bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cả chiều rộng và chiều sâu. Luôn
coi trọng chất lượng nâng cao khả năng hoạt động của lực lượng vũ trang và
nhân dân địa phương để tạo sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển của từng địa
phương và cả nước. Phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN trong quy
hoạch, kế hoạch xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp, các thành
phố, thị xã với các khu vực phòng thủ và phòng thủ then chốt của các tỉnh,
huyện, bản trong từng vùng lãnh thổ đảm bảo tính tồn diện cả về chính trị,
kinh tế, văn hố, xã hội và QP-AN cụ thể là:
- Phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN trong tiến trình quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, trước hết phải xác định được nguồn lực trực tiếp tác
động đến QP-AN như vị trí, địa lý, khí hậu, nhân lực... để trên cơ sở đó có
định hướng quy hoạch, định hướng hoạt động, đưa ra các giải pháp cụ thể cho
các ngành, các lĩnh vực kinh tế, đồng thời đảm bảo cho QP-AN nhu cầu về
xây dựng lực lượng, tiềm năng và thế trận vững mạnh.
- Phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN trong quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, tức là phải gắn quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội quốc gia với nội dung quy hoạch xây dựng củng cố QP
-AN, quy hoạch đầu tư nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH, HĐH, đồng thời chú trọng phân bố đầu tư bảo đảm cho sự phát triển
đồng đều giữa các vùng miền cả nước.


16
- Phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN trong quy hoạch phát triển

kinh tế - xã hội của các vùng lãnh thổ. Đó là sự gắn kết chặt chẽ phát triển
kinh tế vùng chiến lược, với xây dựng vùng chiến lược QP-AN nhằm tạo thế
bố trí chiến lược mới cả về kinh tế lẫn QP-AN trên từng vùng miền nhằm mục
đích phịng thủ bảo vệ Tổ quốc tồn diện.
Các vùng chiến lược khác nhau có sự khác nhau về đặc điểm và yêu cầu
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, QP-AN, nên nội dung kết hợp cụ thể
trong mỗi vùng có thể có sự khác nhau. Song điểm chung về phát triển kinh tế
gắn với củng cố QP-AN ở các vùng lãnh thổ, cũng như địa bàn mỗi tỉnh,
thành phố được thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Một là, xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể để phát triển kinh tế xã hội gắn với củng cố QP-AN của vùng, cũng như trên địa bàn toàn tỉnh,
thành. Việc phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN trong chiến lược phát
triển vùng phải được thể hiện ngay từ việc xác định chiến lược phát triển vùng
phải được thực hiện ngay từ mục tiêu phát triển, trong sử dụng các nguồn lực
và trong xác định các giải pháp chiến lược để thực hiện mục tiêu.
Hai là, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu kinh tế địa
phương phải gắn với khu vực phịng thủ then chốt, các cụm chiến đấu liên
hồn, các bản chiến đấu trên địa bàn của các tỉnh, huyện.
Ba là, việc phân công lại lao động của vùng, cơ cấu kinh tế địa phương
phải gắn với xây dựng các khu vực QP-AN trên từng địa bàn, lãnh thổ cho
phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế và kế hoạch phòng thủ tác chiến bảo
vệ Tổ quốc và trị an. Bảo đảm ở đâu có đất, có sơng ở đó có dân và lực lượng
QP-AN để bảo vệ cơ sở, bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, gắn xây dựng cơ sở hạ tầng với xây dựng các cơng trình QPAN, phòng thủ nhân sự, thiết bị chiến trường,... Bảo đảm tính “lưỡng dụng”
trong mỗi cơng trình được xây dựng.


17
Năm là, gắn xây dựng các cơ sở, kinh tế vững mạnh toàn diện, rộng khắp
với xây dựng các căn cứ, hậu cần, kỹ thuật và hậu phương vững chắc cho mỗi
vùng và ở các địa phương để sẵn sàng đối phó khi có chiến tranh xâm lược.

Đối với các vùng kinh tế trọng điểm, tức là nơi có mật độ dân cư và tính
chất đơ thị hố cao, gắn liền với khu công nghiệp lớn. Đây là nơi tập trung các
đầu mối giao thông quan trọng, các sân bay, phà, kho tàng, dịch vụ... Vì vậy,
đối với khu này việc phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN cần tập trung
vào các vấn đề sau:
Một là, trong quy hoạch, kế hoạch xây dựng các thành phố, các khu
công nghiệp trong vùng kinh tế trọng điểm cần lựa chọn quy mô phù hợp để
thuận lợi cho quản lý, giữ gìn an ninh chính trị trong thời bình, hạn chế hậu
quả tiến cơng hoả lực của địch khi có chiến tranh.
Hai là, phải gắn chặt chẽ xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với kết cấu
hạ tầng QP-AN toàn dân. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với xây dựng
các cơng trình phịng thủ, các thiết bị chiến trường, các cơng trình phịng thủ
dân sự... Về lâu dài, ở các thành phố, đô thị, các khu kinh tế tập trung cần có
quy hoạch từng bước xây dựng hệ thống “cơng trình ngầm lưỡng dụng”. Phải
bảo vệ, bảo tồn các địa hình, địa vật, các khu vực có giá trị về phịng thủ, khi
bố trí các cơ sở sản xuất, các cơng trình kinh tế, phê duyệt các dự án đầu tư
nước ngồi. Khắc phục tình trạng chỉ chú ý quan tâm lợi thế, hiệu quả kinh tế
trước mắt mà quên đi nhiệm vụ QP-AN và ngược lại khi bố trí các khu vực
phịng thủ, các cơng trình QP-AN, chỉ chú ý đến yếu tố bảo đảm QP-AN mà
khơng tính đến lợi ích kinh tế.
Ba là, trong q trình xây dựng khu cơng nghiệp tập trung, đặc khu kinh
tế phải có sự gắn kết với quy hoạch xây dựng lực lượng QP-AN, các tổ chức
chính trị đồn thể ngay trong các tổ chức kinh tế đó, đặc biệt tại những nơi
hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài.


18
Bốn là, việc xây dựng phát triển các khu kinh tế trọng điểm phải nhằm
đáp ứng phục vụ nhu cầu dân sinh thời bình và cả cho việc chuẩn bị đáp ứng
nhu cầu chi viện cho chiến trường khi chiến tranh xảy ra. Kết hợp kinh tế tại

chỗ với xây dựng căn cứ hậu phương của từng vùng kinh tế trọng điểm để sẵn
sàng chủ động di dời, sơ tán đến nơi an tồn khi có tình huống chiến tranh
xâm lược.
Đối với vùng biên giới, Thủ đô Viêng Chăn giáp với Thái Lan, có sơng
Mê Kơng với đường biên giới dài khoảng 170 km, một số huyện biên giới cịn
có trình độ phát triển kinh tế thấp, trình độ dân trí khơng cao, đời sống dân cư
cịn khó khăn, kinh tế, văn hoá, xã hội, QP-AN dễ bị kẻ thù lợi dụng để lơi
kéo, kích động, thực hiện âm mưu diễn biến hồ bình, bn lậu, bn bán ma
t một số nơi tình hình rất phức tạp. Vì vậy, trước mắt cũng như lâu dài, việc
phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN ở vùng biên giới của Thủ đô Viêng
Chăn là cực kỳ quan trọng và nên tập trung vào một số nội dung sau:
Một là, phải quan tâm đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, củng cố QP-AN
ở vùng cửa khẩu, các vùng giáp biên giới với Thái Lan.
Hai là, tập trung xây dựng các bản, hoặc cụm bản trọng điểm về kinh tế
- xã hội và QP-AN. Trước hết, cần tập trung xây dựng và phát triển hệ thống
cơ sở hạ tầng, mở mới và nâng cấp các tuyến đường biên giới.
Ba là, thực hiện tốt chương trình xố đói giảm nghèo; đối với những nơi
cịn khó khăn, cần kết hợp nhiều nguồn lực, mọi lực lượng cả Trung ương và
địa phương để cùng lo cùng làm; đặc biệt là với các địa bàn chiến lược trọng
yếu dọc biên giới, cần có chính sách động viên và sử dụng lực lượng vũ trang,
lực lượng quân đội làm nòng cốt xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, nhằm
tạo thế và lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường sức mạnh QPAN.


19
1.2.1.2. Phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng - an ninh trong
một số ngành, lĩnh vực chủ yếu
Trong cơ cấu kinh tế ngành của quốc gia bao gồm: công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ và trong từng ngành lại có nhiều ngành nhỏ như ngành cơng
nghiệp có cơng nghiệp nặng, cơng nghiệp nhẹ; trong nơng nghiệp có trồng

trọt, chăn ni; trong dịch vụ có giao thơng vận tải, thông tin liên lạc, y tế,
thương mại,... Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng CNH, HĐH là
quá trình thay đổi tỷ trọng của các ngành kinh tế theo hướng công nghiệp và
dịch vụ ngày càng chiếm tuyệt đối lao động trong nông nghiệp. Việc phát
triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
cần chú ý một số nội dung sau:
Một là, phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN trong công nghiệp.
Công nghiệp là ngành kinh tế quan trọng của quốc gia, cung cấp máy
móc, nguyên nhiên liệu cho các ngành kinh tế khác và cho chính nó cũng như
cho cơng nghiệp quốc phịng; sản xuất sản phẩm tiêu dùng cho xã hội, phục
vụ xuất khẩu; sản xuất ra vũ khí, trang thiết bị quân sự đáp ứng nhu cầu của
hoạt động QP-AN. Nội dung phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN trong
phát triển công nghiệp là thực hiện các khâu việc như:
- Kết hợp ngay từ khâu quy hoạch bố trí các đơn vị kinh tế cho ngành
cơng nghiệp. Bố trí một cách hợp lý trên các vùng lãnh thổ, quan tâm đến
vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát triển, thực hiện cơng nghiệp hố,
hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn.
- Ưu tiên đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp liên quan đến QP
-AN như: cơ khí, chế tạo, điện tử, cơng nghiệp, điện tử kỹ thuật cao, luyện
kim, hoá chất... để vừa đáp ứng nhu cầu trang bị cơ giới cho nền kinh tế, vừa
có thể sản xuất ra một số sản phẩm kỹ thuật công nghệ cao phục vụ QP-AN.


20
- Phát triển công nghiệp quốc gia theo hướng mỗi nhà máy, xí nghiệp
vừa có thể sản xuất hàng dân dụng, vừa có thể sản xuất hàng quân sự. Kết hợp
trong đầu tư nghiên cứu, sáng chế, chế tạo, sản xuất các mặt hàng có tính
lưỡng dụng cao trong các nhà máy và ở một số cơ sở công nghiệp nặng.
- Các nhà máy cơng nghiệp quốc phịng thời bình, ngoài việc sản xuất ra
hàng quân sự phải tham gia sản xuất hàng dân sự chất lượng cao, phục vụ tiêu

dùng trong nước và xuất khẩu. Cần tập trung xây dựng một số nhà máy mũi
nhọn, có thể tham gia nghiên cứu, sáng chế và sản xuất một số mặt hàng quân
sự đáp ứng trang bị cho lực lượng vũ trang, trong đó tập trung vào một số
ngành như: cơ khí luyện kim, cơ khí chế tạo, điện tử, tin học, hoá dầu.
- Mở rộng liên doanh, liên kết giữa ngành cơng nghiệp Lào (bao gồm cả
cơng nghiệp quốc phịng) với công nghiệp của các nước tiên tiến trên thế giới;
ưu tiên những ngành, lĩnh vực có tính lưỡng dụng cao. Thực hiện chuyển giao
công nghệ hai chiều, từ công nghiệp quốc phịng vào cơng nghiệp dân dụng
và ngược lại.
Hai là, phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN trong nơng, lâm, ngư nghiệp.
Hiện nay Lào vẫn cịn hơn 80% dân số ở nông thôn và làm nghề nông,
lâm, ngư nghiệp. Phần lớn lực lượng, của cải huy động cho xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc là từ khu vực này. Phát triển kinh tế gắn với tăng cường củng cố
QP-AN trong các lĩnh vực này có vai trị rất quan trọng. Vì vậy, phát triển
phải khơng ngừng khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai, rừng và lực lượng
lao động “tiến hành định cư cho phù hợp với từng lĩnh vực (miền núi và miền
xi) có sự kết hợp giữa lao động với tài nguyên của từng vùng và phù hợp
với nếp sống của từng bộ tộc, gắn phát triển kinh tế với QP-AN” [44, tr.102]
để phát triển đa dạng ngành trong nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng cơng
nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn, làm ra nhiều sản phẩm hàng
hố có giá trị cao phục vụ tiêu dùng trong nước, xuất khẩu và có lượng dự trữ


21
dồi dào về mọi mặt cho QP-AN. Gắn phát triển trong nông, lâm, ngư nghiệp
với việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội như: xố đói giảm nghèo, nâng cao
dân trí, chăm sóc sức khoẻ, đền ơn đáp nghĩa, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho nhân dân, xây dựng nông thôn mới văn minh và hiện đại. Bảo đảm
an ninh lương thực và an ninh nông thôn, góp phần tạo thế trận phịng thủ,
“thế trận lịng dân” vững chắc. Phải đẩy mạnh phát triển trồng rừng gắn với

công tác định canh định cư, xây dựng các cơ sở chính trị vững chắc ở các
vùng rừng núi biên giới.
Ba là, phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN trong các ngành dịch
vụ: giao thông, bưu điện, y tế và xây dựng cơ bản.
- Trong giao thông vận tải, Đảng NDCM Lào rất chú trọng phát triển
ngành giao thơng vận tải, coi đó là địn bẩy quan trọng cho quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, QP-AN, vậy “phải mở rộng mạng lưới giao thông vận
tải, cả tuyến đường chiến lược, nối liền với nước ngoài và để phục vụ cho QP
-AN” [44, tr.85]. Phát triển và hiện đại hố hệ thống giao thơng vận tải đồng
bộ cả đường bộ, đường sắt, đường không, đường sông, đáp ứng nhu cầu đi lại,
vận chuyển hàng hoá trong nước và mở rộng giao lưu với bên ngoài. Trong
thiết kế, thi cơng các cơng trình giao thơng vận tải, đặc biệt là các tuyến vận
tải chiến lược, phải tính đến cả nhu cầu hoạt động thời bình và thời chiến,
nhất là cho các phương tiện cơ động của lực lượng vũ trang có trong tải lớn và
lưu lượng vận chuyển liên tục. Ở những đầu nút giao thông, những nơi dự
kiến địch có thể đánh phá trong chiến tranh, phải có kế hoạch làm nhiều
đường vịng tránh. Bên cạnh các cây cầu lớn qua sông, phải làm sẵn những
bến phà, bến vượt ngầm. Mở rộng nâng cấp sân bay phải chú ý cả sân bay ở
tuyến sau, ở sâu trong nội địa, sân bay giã chiến và có kế hoạch sử dụng cả
đường cao tốc làm đường băng cất hạ cánh cho máy bay khi có chiến tranh và
xây dựng kế hoạch động viên giao thông vận tải cho thời chiến.


22
- Trong bưu chính viễn thơng, đây là một nhu cầu cần thiết và quan
trọng, nên trong lĩnh vực này là gắn chặt chẽ giữa ngành bưu điện quốc gia
với ngành thông tin Quân đội, Công an để phát triển hệ thống thông tin quốc
gia hiện đại, đảm bảo nhanh chóng, chính xác, an tồn thơng tin liên lạc phục
vụ lãnh đạo chỉ huy, điều hành đất nước trong mọi tình huống, cả thời bình và
thời chiến. Có phương án thiết kế xây dựng và bảo vệ hệ thống thông tin liên

lạc một cách vững chắc trong mọi tình huống. Phát triển hệ thống thông tin
đồng bộ, kết hợp cả thông tin hiện đại với thông tin truyền thống như hữu
tuyến, ký ám tín hiệu, thơng tin chạy chân. Các phương tiện thông tin liên lạc
và điện tử cần phải được bảo đảm bí mật và có khả năng chống nhiễu cao,
phịng chống chiến tranh thơng tin điện tử của địch. Nâng cao cảnh giác trong
hợp tác với nước ngoài về xây dựng, mua sắm các thiết bị thông tin điện tử,
phải lựa chọn đối tác, có phương án chống âm mưu phá hoại của địch. Xây
dựng kế hoạch động viên thông tin liên lạc cho thời chiến.
- Trong xây dựng cơ bản, đây là lĩnh vực sẽ có nhiều phát triển cả về bề
rộng, quy mơ trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Những
cơng trình này khơng dễ gì có thể phá đi làm lại, cho nên việc thực hiện kết
hợp trong ngành xây dựng phải được tiến hành ngay từ đầu, từ khảo sát điều
tra, thiết kế, quy hoạch dự án đầu tư đến thi cơng xây dựng. Khi xây dựng bất
cứ cơng trình nào, ở đâu, quy mơ nào cũng phải tính đến yếu tố tự bảo vệ và
có thể chuyển hố phục vụ được cả cho QP-AN, cho phòng thủ tác chiến và
phòng thủ dân sự.
- Trong lĩnh vực y tế, cần gắn chặt chẽ giữa ngành y tế dân sự với y tế
quân sự trong nghiên cứu, ứng dụng, trong đào tạo nguồn nhân lực, trong
khám chữa bệnh cho nhân dân, bộ đội và cho người nước ngồi. Xây dựng
mơ hình quân dân y kết hợp trên các địa bàn, đặc biệt là ở miền núi, biên giới.


23
Phát huy vai trò của y tế quân sự trong phịng chống, khám chữa bệnh cho
nhân dân thời bình và thời chiến.
Bốn là, phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần.
Phải tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế cùng phát triển. Coi trọng
kinh tế tư bản Nhà nước, phát triển và hoàn thiện hệ thống kinh tế hợp tác và
các thành phần kinh tế khác. Đồng thời khuyến khích, có chính sách ưu đãi

hướng các nhà đầu tư đầu tư vào những doanh nghiệp chủ chốt trong các
ngành kinh tế mũi nhọn có khả năng kết hợp phục vụ nhu cầu QP-AN.
Năm là, phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN trong hoạt động kinh
tế đối ngoại.
Phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN trong hoạt động đối ngoại là
nhằm khai thác tối đa vốn, thành tựu khoa học - cơng nghệ và thị trường nước
ngồi để xây dựng một nền kinh tế hàng hoá hướng về xuất khẩu, những vấn
đề bảo đảm nhu cầu trong nước và nhu cầu QP-AN. Phải có chiến lược kết
hợp lâu dài trong lựa chọn đầu tư, phân bổ vào ngành nào, địa bàn nào có lợi
cho phát triển kinh tế và QP-AN trước mắt và lâu dài. Xây dựng và quản lý
các khu chế xuất, các đặc khu liên doanh liên kết đầu tư với nước ngoài, bảo
vệ chủ quyền an ninh đất nước trên cơ sở Nhà nước có luật pháp rõ ràng. Giáo
dục bồi dưỡng ý thức tự tôn dân tộc, tinh thần cảnh giác đấu tranh bảo vệ độc
lập chủ quyền an ninh quốc gia cho cán bộ nhân viên làm trong các cơ sở kinh
tế đối ngoại.
Sáu là, gắn hoạt động khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, là kết
hợp mục tiêu yêu cầu, nhiệm vụ và lợi ích trong phát triển khoa học - công
nghệ của Nhà nước, các bộ, ngành địa phương với các hoạt động khoa học công nghệ của lực lượng vũ trang. Do đó, địi hỏi phải có chiến lược phát
triển khoa học - cơng nghệ quốc gia thống nhất, quy hoạch nội dung nghiên


24
cứu, lựa chọn công nghệ phục vụ cho các ngành cơng nghiệp chủ chốt, trong đó
có cơng nghiệp QP-AN. Phát triển và quản lý sử dụng các cơng trình nghiên cứu
phục vụ cho cả xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tránh lãng phí sức tiền của quốc
gia.
1.2.1.3. Phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng - an ninh trong
xây dựng lực lượng và thế trận quốc phòng - an ninh toàn dân
Xây dựng lực lượng và thế trận QP-AN toàn dân gồm nhiều nội dung
mà trước phải xây dựng về chính trị, trong đó có xây dựng về tư tưởng và tổ

chức. Cơng tác chính trị, tư tưởng và tổ chức chỉ có thể được thực hiện thắng
lợi khi bảo đảm cho mọi cán bộ, đảng viên và tồn thể nhân dân có những
phẩm chất nhất định, đó là: vững vàng về chính trị, có kiến thức và năng lực
trong cơng tác, hồn thành có chất lượng các nhiệm vụ cụ thể trong các hoạt
động KT - XH cũng như thực hiện nhiệm vụ QP-AN. Xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân bao gồm các lực lượng thường trực, lực lượng dự bị động
viên, lực lượng chủ lực địa phương và các lực lượng bán vũ trang. Xây dựng
thế trận QP-AN toàn dân vững chắc là phải xây dựng khu vực phòng thủ các
cấp đảm bảo các điều kiện sinh sống cho nhân dân, mọi người có việc làm và
thu nhập chính đáng. Từ đó mới có thể sử dụng được lực lượng và thế trận
QP-AN toàn dân vào mục đích kinh tế và tập trung vào chủ trương cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, phát triển kinh tế hàng hoá đa thành phần theo định
hướng XHCN.
Phát triển kinh tế gắn với củng cố QP-AN trong xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân: trước hết là phải gắn ngay trong xây dựng và bố trí lực lượng
vũ trang thường trực gồm cán bộ, chiến sỹ, công nhân viên QP-AN. Ngay từ
khâu tuyển chọn lực lượng vào quân đội, đến đào tạo, xây dựng, luân chuyển
đội ngũ cán bộ cho quân đội phải có quy hoạch và hướng sử dụng. Coi trọng
công tác quản lý, giáo dục để đảm bảo hiệu quả kinh tế cao và luôn giữ vững


25
phẩm chất, đạo đức, bản chất truyền thống lực lượng QP-AN nhân dân.
Những đơn vị quân đội chuyên làm kinh tế hoặc được giao nhiệm vụ làm
nòng cốt trong xây dựng các cụm kinh tế QP-AN, ngoài ý nghĩa sản xuất ra
của cải vất chất, tự cân đối một phần ngân sách QP-AN cịn có vai trị lớn lao
hơn là góp phần xây dựng nền móng của thế trận QP-AN toàn dân ở các vùng
trọng điểm. Những đơn vị này cần bố trí trên các địa bàn có lợi thế khai thác
tiềm năng kinh tế, phát triển chặt chẽ với các địa phương, phát huy vai trị đội
qn cơng tác thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát

triển KT - XH, củng cố QP-AN nhất là trên biên giới, vùng cao, vùng sâu,
vùng xa.
Đối với xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ và dân
phòng: Đây là vấn đề rất khó vì có phạm vi rộng, đối tượng liên quan nhiều
cho nên cần nhiều nội dung và hình thức linh hoạt để áp dụng. Dựa trên quy
hoạch đầu tư phát triển kinh tế - xã hội để phân phối hợp lý lực lượng dự bị
động viên vào các trung tâm, các vùng kinh tế trọng điểm, khu kinh tế đặc
biệt tạo sự tập trung tự nhiên và có chính sách thu hút hấp dẫn. Hàng năm có
kế hoạch đón nhận quân nhân hết nghĩa vụ, các đội thanh niên tình nguyện
đến các vùng kinh tế mới để lập nghiệp, xây dựng những làng quê mới, đảm
bảo cho họ có cuộc sống ổn định, đáp ứng yêu cầu vật chất, văn hố tinh
thần, thì mới giảm được chi phí trong quản lý huấn luyện, thu hút được lực
lượng dự bị động viên đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ khi cần thiết. Còn
lực lượng bán vũ trang, vũ trang tỉnh huyện, xã (gồm: bộ đội địa phương, lực
lượng biên phòng, lực lượng an ninh nhân dân, lực lượng dự bị động viên,
dân qn tự vệ) trong thời bình, họ có nhiệm vụ giữ gìn trật tự an ninh, bảo
vệ tồn vẹn lãnh thổ và được sử dụng vào một số mục đích kinh tế - xã hội ở
địa phương. Khi có chiến tranh, họ trở thành lực lượng nịng cốt để bảo vệ
nhân dân, bảo vệ Tổ quốc.


×