1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành Thủy sản sau hơn 20 năm kiên trì thực hiện đường lối đổi mới,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, Thủy sản nước ta đã đạt được những thành tự to
lớn, có những bước tiến vững chắc, phát triển với tốc độ cao theo hướng hàng
hóa, năng suất, chất lượng và hiệu quả, có nhiều mặt hàng xuất khẩu chiếm vị
thế cao trên thị trường thế giới. Ngành Thủy sản đã có những đóng góp quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân, tạo công ăn, việc làm cho hàng triệu người
lao động nông thôn và đứng thứ 6 trong 10 nước xuất khẩu Thủy sản mạnh
trên thế giới. Theo Tổ chức nông lương Liên Hiệp Quốc (FAO), suốt giai
đoạn 1999-2000, Thủy sản của Việt Nam luôn đứng thứ 11 trên thế giới về
xuất khẩu Thủy sản, đến năm 2008 đã vươn lên thứ 6 về xuất khẩu Thủy sản
trên thế giới, đứng thứ 5 về sản lượng Nuôi trồng Thủy sản (sau Trung Quốc,
Ấn Độ, Inđônêxia, Philippin) và đứng thứ 12 về sản lượng khai thác Thủy sản
trên thế giới Việt Nam đã có vị trí quan trọng trong nghề cá thế giới và được
xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, tạo lên bộ
mặt cho ngành và các địa phương phát triển về Thủy sản.
Song nghề cá nước ta mang tính đặc thù của nghề cá nhân dân, quy
mô sản xuất nhỏ lẻ, quản lý theo ngư hộ, ít đầu tư cho cơng nghệ mơi
trường…những nhận thức của chính người sản xuất Thủy sản về các vấn đề
liên quan tới phát triển bền vững nghề cá cịn rất thấp. Tình trạng tự phát,
thiếu quy hoạch trong sản xuất thể hiện rõ trong nhiều lĩnh vực hoạt động,
tình trạng dịch bệnh Thủy sản phát sinh và phân tán nhanh, nguồn lợi bị khai
thác hủy diệt. Cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý và còn chuyển đổi chậm. Tính
cạnh tranh sản phẩm hàng hóa Thủy sản của nước ta trong khu vực và trên thị
trường thế giới còn yếu, thị trường Thủy sản chưa vững chắc, cơ sở vật chất
kỹ thuật ngành Thủy sản còn lạc hậu.
2
Trong khung cảnh Việt Nam ra nhập WTO, bối cảnh thế giới về kinh
tế, chính trị đã thay đổi, xu hướng phát triển Thủy sản của các nước ngày
càng đa dạng và cạnh tranh quyết liệt. Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ
đã và đang diễn ra từng giờ trên tất cả mọi mặt của đời sống xã hội khắp thế
giới. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là đưa ngành Thủy sản trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, sản xuất hàng hóa lớn, có tính cạnh tranh cao và phát
triển bền vững theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước cơng nghiệp, thì vấn đề phát triển kinh tế Thủy sản là hết sức cần thiết.
Vì vậy tơi chọn đề tài “Phát triển kinh tế Thủy sản trong hội nhập kinh tế
quốc tế” làm luận văn Thạc sĩ- chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua đã có một số cơng trình nghiên cứu, bài viết xoay
quanh vấn đề này, tiêu biểu như:
+ Nguyễn Thành Hưng, Doanh nghiệp Nhà nước, khai thác, chế biến
Thủy sản trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ, chuyên
ngành Kinh tế, Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2001.
+ Lê Kim Chung, Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành Thủy sản ở
Dun Hải Nam Trung Bộ, Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Kinh tế, Học viện
Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2003.
+ Đỗ Nam Phong, Kinh tế tập thể trong ngành Thủy sản tỉnh Bến Tre,
Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế, Học viện Chính trị-Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh, 2005.
+ Lê Thị Thanh Huyền, Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp chế
biến Thủy sản xuất khẩu ở Đà Nẵng, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Kinh
tế, Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2007.
+ Thông tin chuyên đề số 78, ngày 17/02/2006 của Văn phòng Trung
ương Đảng cộng sản Việt Nam về “Thực trạng sản xuất và xuất khẩu Thuỷ
sản trong những năm qua”.
3
+ Bài viết của Tiến sĩ Tạ Quang Ngọc, Bộ trưởng Bộ Thủy sản Việt
Nam “Để Việt Nam sớm trở thành quốc gia mạnh về biển và giàu lên từ biển”
trong Tạp chí cộng sản, tháng 7/2007.
Với những cơng trình trên đây ở nhiều cách tiếp cận khác nhau, đã đề
cập được những mặt tích cực và hạn chế về phát triển kinh tế Thủy sản nói
chung và của từng địa phương nói riêng. Tuy nhiên do giới hạn lịch sử, đến
nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về phát triển kinh
tế Thủy sản trong hội nhập kinh tế quốc tế dưới góc độ kinh tế chính trị và
mức độ của một luận văn thạc sỹ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Phân tích thực trạng phát triển kinh tế Thủy sản ở Việt Nam trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đánh giá những thành công, hạn chế và nguyên
nhân của những hạn chế, từ đó đề xuất những quan điểm định hướng và giải
pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển kinh tế Thủy sản đến năm 2020.
- Nhiệm vụ
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận căn bản về kinh tế thủy sản trong
hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn một số quốc gia có điều kiện
tương đồng về phát triển kinh tế Thủy sản trong hội nhập kinh tế quốc tế và
rút ra bài học cho Việt Nam.
+ Phân tích đánh giá tiềm năng lợi thế của Việt Nam về phát triển kinh
tế thủy sản và Thực trạng phát triển kinh tế Thủy sản ở Việt Nam trong hội
nhập kinh tế quốc tế, đúc rút những thành công, hạn chế và nguyên nhân.
+ Đề xuất quan điểm định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
kinh tế Thủy sản ở Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng
Luận văn tập trung nghiên cứu kinh tế thủy sản với tư cách là ngành
kinh tế đặc thù bao gồm các tiểu ngành nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thủy
sản và các dịch vụ có liên quan.
4
- Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về số liệu thống kê và chủ yếu phục vụ cho quá trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tinh thần Đại hội IX và X, cho nên luận văn chỉ
tập trung nghiên cứu phát triển kinh tế Thủy sản ở Việt nam từ năm 2005 đến
2009. Trên cơ sở đó đề xuất quan điểm định hướng và giải pháp nhằm phát
triển kinh tế Thủy sản đến 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Luận văn sử dụng phương pháp luận khoa học kinh tế chính trị và kết
hợp với các phương pháp nghiên cứu khác để nghiên cứu như: phân tích, tổng
hợp, so sánh, thống kê, hệ thống…
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa lý luận về phát triển kinh tế Thủy sản trong hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Đánh giá khái quát, khách quan, thực trạng phát triển kinh tế Thủy
sản ở Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2009.
- Đề xuất giải pháp trước mắt và lâu dài, có tính khả thi nhằm phát
triển kinh tế thủy sản Việt nam đến năm 2020.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm có 3 chương, 08 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế
Thuỷ sản trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế Thuỷ sản Việt Nam trong hội
nhập kinh tế quốc tế.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát triển kinh tế
Thuỷ sản Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ THỦY SẢN TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. KINH TẾ THỦY SẢN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ TỚI PHÁT TRIỂN THỦY SẢN
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của kinh tế Thủy sản
- Khái niệm
Ngành nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các tiểu ngành
trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và Thủy sản. Trong quá trình phát triển, các
tiểu ngành của nơng nghiệp có mối quan hệ với nhau và có quan hệ với các
ngành khác của nền kinh tế, song giữa chúng vẫn có tính độc lập tương đối,
có sự khác biệt. Căn cứ để phân biệt các tiểu ngành nói trên của nơng nghiệp
là sự khác biệt về đối tượng lao động, công cụ lao động, phương pháp công
nghệ và sản phẩm sản xuất ra của mỗi tiểu ngành.
Ngày nay có nhiều cách tiếp cận khác nhau về ngành thủy sản: theo
từng mặt quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất hay đồng thời cả quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất của ngành. Theo giác độ kinh tế chính trị cần
nghiên cứu quan hệ sản xuất ngành thủy sản trong sự tác động qua lại của lực
lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Từ đó có thể hiểu kinh tế Thủy sản là ngành kinh tế đặc thù, được hình
thành và phát triển trên cơ sở phân công lao động trong nông nghiệp. Kinh tế
Thủy sản là tổng thể quan hệ sản xuất của ngành thủy sản dựa trên trình độ
phát triển nhất định của lực lượng sản xuất; biểu hiện bằng những hình thức
sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu, hình thức tổ chức sản xuất, phân phối, trao
đổi trong các lĩnh vực nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy sản cùng cơ chế
quản lý tương ứng của Nhà nước đối với ngành Thủy sản.
Tùy theo mỗi giai đoạn phát triển kinh tế đất nước, sự phát triển của
kinh tế thủy sản có những đặc trưng riêng về chế độ sở hữu, các quan hệ phân
6
phối, trao đổi sản phẩm, chế độ quản lý và hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
trong ngành thủy sản quan hệ sở hữu rất đa dạng. từ đó các hình thức tổ chức
sản xuất được hình thành và phát triển cũng rất đa dạng phù hợp với trình độ
phát triển lực lượng sản xuất của ngành. Mỗi hình thức sở hữu, mỗi hình thức
tổ chức sản xuất vừa có tính độc lập tương đối, lại vừa có sự tác động qua lại
với nhau, nương tựa và liên kết với nhau trong quá trình phát triển. Mặc dù,
nền tảng của kinh tế thủy sản nước ta hiện nay là chế độ sở hữu đa dạng gồm
sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân với nhiều thành phần kinh tế,
nhưng trong đó cơng hữu là chủ yếu, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
định hướng phát triển cho các thành phần kinh tế khác, làm chỗ dựa cho các
thành phần kinh tế khác phát huy hiệu quả cao hơn.
- Đặc điểm của kinh tế Thủy sản:
Thủy sản là một bộ phận của nông nghiệp theo nghĩa rộng, kinh tế
Thủy sản vừa mang đặc điểm chung của sản xuất nông nghiệp, vừa có tính
chất đặc thù. Những đặc điểm chủ yếu của kinh tế Thủy sản bao gồm:
Thứ nhất, đối tượng sản xuất là các sinh vật sống trong nước
Các loài động thực vật sống trong môi trường mặt nước là đối tượng
sản xuất của ngành Thủy sản. Môi trường mặt nước cho sản xuất Thủy sản
gồm có biển và các mặt nước trong nội địa. Đối tượng lao động của ngành
Thủy sản có đặc điểm:
Về trữ lượng, khó xác định một cách chính xác từ lượng Thủy sản có
trong một ao hồ hay ngư trường. Đặc biệt ở các vùng mặt nước rộng lớn, các
sinh vật có thể di chuyển tự do trong ngư trường hoặc di cư từ vùng này đến
vùng khác khơng phụ thuộc vào ranh giới hành chính. Hướng di chuyển của
các luồng tôm cá chịu tác động của nhiều nhân tố như thời tiết, khí hậu, dịng
chảy đặc biệt là nguồn thức ăn tự nhiên.
Các loài sinh vật trong nước sinh trưởng và phát triển chịu sự tác động
nhiều của điều kiện thời tiết, khí hậu, dịng chảy, địa hình thủy văn. Trong
7
hoạt động khai thác, đánh bắt hải sản, tính mùa vụ của từng loại thủy sản như:
sinh sản theo mùa, di cư theo mùa phụ thuộc vào thời tiết khí hậu, điều kiện
thủy văn đã tạo nên tính phức tạp về mùa vụ cả về không gian và thời gian.
Điều này đã tạo nên cơ sở khách quan của việc hình thành và phát triển nhiều
ngành nghề khai thác khác nhau của ngư dân.
Các sản phẩm Thủy sản sau khi thu hoạch hoặc đánh bắt đều rất dễ
ươn thối, hư hỏng vì chúng đều là những sản phẩm sinh vật đã bị tách ra khỏi
môi trường sống. Để tránh tổn thất trong sản xuất và nâng cao chất lượng sản
phẩm địi hỏi phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các khâu từ khai thác, nuôi
trồng đến chế biến và kinh doanh tiêu thụ sản phẩm; từ khai thác đến đầu tư
tái tạo nguồn lợi, đầu tư cơ sở hạ tầng dịch vụ một cách đồng bộ.
Thứ hai, thủy vực và tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế
Các loại mặt nước bao gồm: sông, hồ, ao, mặt nước ruộng, cửa sông,
biển…gọi chung là thủy vực được sử dụng vào nuôi trồng và đánh bắt Thủy
sản. Tương tự như ruộng đất sử dụng vào sản xuất nông nghiệp, thủy vực là tư
liệu sản xuất đặc biệt, chủ yếu khơng thể thay thế của ngành Thủy sản. Khơng
có thủy vực sẽ khơng có sản xuất thủy sản.
Tuy nhiên, thủy vực thường được sử dụng theo hướng đa mục tiêu
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng chúng. Ví dụ các ao hồ chứa nước thường
được sử dụng để nuôi cá kết hợp với trữ nước tưới phục vụ nông nghiệp; các
con sơng có thể phục vụ giao thơng thủy, ni cá lồng bè ở ven sông, cung
cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất của cư dân…, do đó trong quy hoạch các
loại hình thủy vực và định hướng sử dụng thủy vực cho ngành Thủy sản cần
chú ý những thủy vực có mục đích sử dụng chính vào ni trồng Thủy sản,
chú trọng việc bảo vệ môi trường nước, kể cả nước biển, thường xuyên cải tạo
thủy vực tăng nguồn dinh dưỡng cho các thủy sinh vật nhằm nâng cao năng
suất sinh học của thủy vực, sử dụng thủy vực một cách tiết kiệm, đặc biệt cần
hạn chế chuyển đổi mục đích sử dụng thủy vực là các ao, hồ, các thùng đấu…
sang đất xây dựng cơ bản hay mục đích khác.
8
Thứ ba, ngành Thủy sản là ngành sản xuất vật chất có tính hỗn hợp,
tính liên ngành cao.
Với tính cách là một ngành sản xuất vật chất, ngành Thủy sản bao
gồm nhiều hoạt động sản xuất cụ thể có tính chất tương đối khác nhau nhưng
có mối liên quan chặt chẽ với nhau như: khai thác, nuôi trồng, chế biến và các
dịch vụ thủy sản. Khi trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, các hoạt động sản
xuất cụ thể nói trên chưa có sự tách biệt rõ ràng, thậm chí cịn lồng vào nhau.
Trong điều kiện như vậy, khối lượng sản phẩm sản xuất ra cịn ít với chất
lượng thấp và chủ yếu đáp ứng nhu cầu thị trường nhỏ hẹp. Ngày nay, dưới
sự tác động mạnh mẽ của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao
động xã hội làm cho các hoạt động sản xuất Thủy sản được chun mơn hóa
ngàng càng cao. Các hoạt động chun mơn hóa khai thác, ni trồng, chế
biến và dịch vụ Thủy sản có trình độ và quy mơ phát triển tùy thuộc nhu cầu
thị trường và mỗi hoạt động lại dựa trên nền tảng nhất định về cơ sở vật chất
kỹ thuật và phương pháp công nghệ, tạo nên những ngành chun mơn hóa
hẹp có tính chất độc lập tương đối.
Tính hỗn hợp và tính liên ngành cao của hoạt động sản xuất có tính
chất khác nhau như nói trên tạo thành cơ cấu sản xuất của ngành Thủy sản.
Dưới tác động của phân công lao động xã hội và chun mơn hóa sản xuất,
hình thành nên cơ cấu kinh tế Thủy sản gồm:
- Nuôi trồng Thủy sản: bộ phận sản xuất có tính chất nơng nghiệp,
thường được gọi là ngành Ni trồng Thủy sản, có chức năng duy trì, bổ sung tái
tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản để cung cấp sản phẩm trực tiếp cho tiêu
dùng, xuất khẩu và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và ngành khai thác.
- Công nghiệp Thủy sản: bộ phận sản xuất có tính chất cơng nghiệp
bao gồm khai thác và chế biến Thủy sản. Những hoạt động này có nhiệm vụ
khai thác nguồn lợi Thủy sản và chế biến chúng thành các sản phẩm đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của xã hội và xuất khẩu.
9
Ngồi ra, dịch vụ Thủy sản: đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, sản
xuất nước đá, sản xuất bao bì, ngư cụ… Cơ cấu ngành Thủy sản Việt Nam có
thể được minh họa đơn giản như sau:
Ngành Nuôi
trồng Thủy
sản
Nuôi thủy sản
nước ngọt
Ngành công nghiệp thủy sản
Ngành Khai
thác
Khai thác các
sản phẩm nuôi
trồng
Nuôi trồng
nước lợ
Nuôi trồng hải
Đánh bắt hải sản
sản
Ngành Chế biến
Các ngành phụ trợ và
phục vụ
Chế biến đơng
lạnh
Đóng sửa tàu thuyền
Sản xuất sửa chữa ngư cụ
Chế biến đồ hộp
Chế biến hàng
khô
Chế biến nước
mắm
Dịch vụ vận chuyển
Dịch vụ cảng, kho lạnh
Sản xuất nước đá
Sản xuất bao bì
sản xuất thức ăn cho ni
trồng
Thứ tư, sản xuất kinh doanh Thủy sản đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn, độ
rủi ro cao.
Hầu hết các hoạt động ni trồng, đánh bắt, chế biến Thủy sản địi hỏi
đầu tư ban đầu tương đối lớn. Trong hoạt động nuôi trồng, nếu không kể
những hoạt động nuôi cá trong ao hồ có sẵn, ni cá ruộng, ni lồng ở sơng
suối thì hầu hết các hoạt động đầu tư ni Thủy sản đều cần vốn lớn như: đào
ao thả cá trên đất canh tác hiệu quả thấp được chuyển đổi mục đích sử dụng;
đầu tư cải tạo đầm ni Thủy sản ở ven biển, cửa sông…Trong hoạt động
đánh bắt, nhất là đánh bắt xa bờ đòi hỏi vốn đầu tư đóng mới tàu thuyền lên
tới hàng tỷ đồng. Nhu cầu đầu tư vốn ban đầu tương đối lớn cho phát triển của
các hoạt động kinh tế như trên là vượt quá khả năng sự tích lũy và đầu tư của
từng chủ thể kinh tế trong ngành Thủy sản, đặc biệt là khả năng của các hộ.
Do vậy, để phát triển Thủy sản, Nhà nước phải xây dựng và thực hiện chính
sách cho vay vốn theo các chương trình phát triển riêng của ngành này như:
10
cho vay trong chương trình khai thác xa bờ, tín dụng đầu tư xây dựng các cơ
sở hậu cần phục vụ nghề cá theo quy hoạch…
Sản xuất nuôi trồng và đánh bắt Thủy sản phụ thuộc nhiều vào điều
kiện tự nhiên nhất là điều kiện thủy văn, bão, lũ. Đối với những nước như
nước ta có bờ biển dài, diễn biến bão, lũ phức tạp, nhiều trận bão, lũ lớn đã
gây thiệt hại nặng cho nghề nuôi trồng Thủy sản của cả một vùng hay một địa
phương. Trong nhiều trường hợp, thiên tai có thể gây thiệt hại cả đến tính
mạng của ngư dân, nhất là ngư dân làm nghề đánh bắt ngồi khơi.
- Vai trị chủ yếu của kinh tế Thủy sản:
Thứ nhất, kinh tế thủy sản cung cấp những sản phẩm thực phẩm quý cho
tiêu dùng của dân cư, cung cấp nguyên liệu cho phát triển một số ngành khác.
Các kết quả nghiên cứu của các chuyên gia dinh dưỡng đã khẳng định
hầu hết các loại thủy sản đều là loại thực phẩm giàu đạm, dễ tiêu hóa, phù hợp
với sinh lý dinh dưỡng ở mọi lứa tuổi. Càng ngày Thủy sản càng được tin
tưởng như một loại thực phẩm ít gây bệnh tật (tim mạch, béo phì, ung thư…)
và ít chịu ảnh hưởng của ơ nhiễm hơn. Xét về thành phần dinh dưỡng cho
thấy: so với các loại thịt, các loại thực phẩm là thủy sản có chứa ít chất mỡ
hơn, nhiều khống chất hơn nhưng chất đạm cũng khá cao. Ví dụ trong thịt
bị, tỷ lệ tính theo phần trăm của đạm là 16,2-19,2%, của mỡ là 11-28%, chất
khoáng là 0,8-1,0%, cũng tương tự các tỷ lệ trên trong cá thu có thứ tự là:
18,6%, 0,4% và 1,2%; ở cá mối là: 16,4%, 1,6 – 2,3% và 1,2%, cá hồng là:
17,8%, 5,9% và 1,4% [16, tr.7].
Ngành Thủy sản cung cấp một phần thức ăn cho chăn nuôi, đặc biệt
cho chế biến thức ăn chăn nuôi công nghiệp. Bột cá và các phế phẩm, phụ
phẩm thủy sản chế biến là nguồn thức ăn giàu đạm được sử dụng làm thức ăn
hoặc để chế biến thức ăn phục vụ chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ở nước ta, nhu
cầu sử dụng bột cá cho chế biến thức ăn gia súc ngày càng tăng. Năm 2000,
các cơ sở sản xuất thức ăn gia súc ở nước ta sản xuất được 10.000 tấn bột cá
làm thức ăn chăn nuôi và đến năm 2004 con số này đạt gần 40.000 tấn.
11
Thứ hai, ngành Thủy sản phát triển sẽ đóng góp quan trọng trong
tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tồn ngành nơng, lâm, ngư
nghiệp nói chung.
Ngành Thủy sản là ngành kinh tế có khả năng tạo ra nhiều giá trị gia
tăng. Vì vậy, phát triển mạnh ngành Thủy sản, đặc biệt phát triển công nghiệp
chế biến Thủy sản sẽ góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của ngành nông
nghiệp.
Thực tiễn phát triển kinh tế Thủy sản trong những năm qua đã khẳng
định yếu tố trực tiếp, quyết định đến khả năng phát triển kinh tế của nước ta
hiện nay, trong đó xuất khẩu Thủy sản đã giải quyết đầu ra cho ngành Thủy
sản, nhờ xuất khẩu Thủy sản đã thúc đẩy các hoạt động khai thác, nuôi trồng
và chế biến Thủy sản trong thời gian qua.
Phát triển kinh tế Thủy sản đã tạo ra chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
ngành cũng như lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Trong khai thác hải sản
đã và đang chuyển đổi theo hướng giảm áp lực đánh bắt gần bờ, chuyển từ
khai thác theo sản lượng sang theo giá trị, nâng cao hiệu quả đánh bắt; Trong
nuôi trồng đang phát triển mạnh theo hướng sản xuất hang hóa đáp ứng yêu
cầu của thị trường nhập khẩu, có sự tăng trưởng cả về số lượng và giá trị. Cơ
cấu sản phẩm chuyển dịch theo hướng tập trung khai thác và ni trồng
những sản phẩm Thủy sản có giá trị xuất khẩu cao, đáp ứng yêu cầu của thị
trường nhập khẩu. Trong chế biến sản phẩm giá trị gia tăng đáp ứng được yêu
cầu của thị trường nhập khẩu xuất hiện ngày càng nhiều trong cơ cấu sản
phẩm Thủy sản xuất khẩu.
Thứ ba, tham gia vào xuất khẩu, thu ngoại tệ cho đất nước.
Xuất khẩu luôn là hướng ưu tiên và là trọng điểm của hoạt động ngoại
thương trong hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi nước, đặc biệt là đối với
các nước đang phát triển như Việt Nam, bởi vì xuất khẩu là một trong những
động lực của sự tăng trưởng kinh tế quốc dân, tạo nguồn thu ngoại tệ để cân
bằng cán cân xuất nhập khẩu.
12
Xuất khẩu Thủy sản trong những năm qua đã khẳng định khả năng
phát triển của ngành Thủy sản, xuất khẩu Thủy sản chính là giải quyết đầu ra
cho ngành Thủy sản, là mở đường và cầu nối thúc đẩy sản xuất Thủy sản phát
triển từ hoạt động khai thác, nuôi trồng, chế biến đến dịch vụ hậu cần nghề cá.
Xuất khẩu Thủy sản đã và đang khẳng định vị trí của ngành Thủy sản Việt
Nam ở cả trong nước và quốc tế. Chính sự gia tăng nhanh giá trị Thủy sản
xuất khẩu đã đưa Thủy sản thành ngành kinh tế mũi nhọn. Những năm gần
đây Thủy sản luôn là mặt hang chiếm vị trí thứ 3 thứ 4 trong các ngành xuất
khẩu hàng đầu của cả nước về giá trị KNXK và luôn là ngành hàng dẫn đầu
về giá trị xuất khẩu thuần.
Xuất khẩu Thủy sản đã và đang phát huy những ưu thế để tăng thu
ngoại tệ cho đất nước, góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu. Với sự
tăng lên không ngừng của Thủy sản chúng ta đã nhập khẩu máy móc thiết bị
hiện đại trang bị cho các ngành kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
Thứ tư, phát triển ngành Thủy sản góp phần vào phát triển kinh tế xã
hội đất nước.
Với nhiều lợi thế đặc biệt về mặt nước và nguồn lợi Thủy sản, phát
triển mạnh mẽ ngành Thủy sản sẽ góp phần phát triển kinh tế- xã hội đất nước
nói chung và kinh tế - xã hội nơng thơn nói riêng.
Về mặt kinh tế, phát triển Thủy sản là con đường làm giàu của các chủ
trang trại nuôi trồng Thủy sản, các chủ tàu đánh cá. Ở địa phương khơng có
tiềm năng về biển, đặc biệt vùng nông thôn ngoại thành phát triển chăn nuôi
Thủy sản đặc sản là chuyển dịch cơ cầu kinh tế nông nghiệp và nông thôn cho
hiệu quả.
Về mặt xã hội, ở các vùng nghèo, vùng sâu, vùng cao phát triển chăn
nuôi Thủy sản ao, hồ, sông suối tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho
đồng bào dân tộc; trợ giúp cho việc xóa bỏ tập quán du canh du cư của đồng
bào. Việc sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm Thủy sản tại chỗ ở các vùng này
13
cịn góp phần trực tiếp cải thiện dinh dưỡng bữa ăn, làm tăng sức khỏe của
người lớn và giảm suy dinh dưỡng trẻ em.
Ngoài ra, phát triển các trạm tàu khai thác Thủy sản xa bờ cịn góp
phần tăng cường an ninh quốc phòng cho vùng biên giới biển đảo của Tổ
quốc. Đối với một số vùng biển, vùng ngập nước ven biển hay trong đất liền,
phát triển Thủy sản cũng góp phần vào phát triển ngành du lịch, đặc biệt là du
lịch sinh thái và du lịch văn hóa.
1.1.2. Tác động của hội nhập kinh tế đến phát triển
kinh tế Thủy sản
Hội nhập kinh tế quốc tế có tác động hai mặt tới phát triển kinh tế
Thuỷ sản, vừa tạo ra cơ hội vừa đặt ra những thách thức nhất định:
- Những cơ hội
Thứ nhất, các nước sẽ khắc phục được tình trạng bị phân biệt đối xử
trong bn bán quốc tế về hàng hóa Thủy sản. Đẩy mạnh thương mại và quan
hệ với các thành viên khác trong WTO và đảm bảo nâng cao vai trò quan
trọng của mình trong các hoạt động kinh tế và chính trị toàn cầu như là một
thành viên của WTO.
Thứ hai, các nước sẽ mở rộng thị phần quốc tế cho sản phẩm Thủy sản
và thúc đẩy thương mại phát triển, sẽ có cơ hội xuất khẩu hàng hóa Thủy sản
ra thế giới nhờ được hưởng những thành quả của các vòng đàm phán giảm
thuế và hàng rào phi thuế quan, tăng cường tiếp cận thị trường. Cơ hội xuất
khẩu hàng hóa Thủy sản bình đẳng sẽ có những ảnh hưởng tích cực đến hoạt
động của các doanh nghiệp Thủy sản trong nước, sản xuất sẽ được mở rộng
và tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Hội nhập kinh tế sẽ mang
lại cơ hội cho sản phẩm Thủy sản trong việc thâm nhập thị trường thế giới,
doanh nhân các nước sẽ quan tâm hơn đến xuất nhập khẩu hàng hố, trong đó
có sản phẩm Thủy sản.
14
Thứ ba, hàng hóa Thủy sản cải thiện vị trí của mình trong các cuộc
đàm phán thương mại, có điều kiện tiếp cận các quy tắc công bằng và hiệu
quả để giải quyết các tranh chấp thương mại. Sự ưu đãi hơn về thuế quan,
xuất xứ hàng hoá, hàng rào phi thuế quan và những lợi ích về đối xử cơng
bằng, bình đẳng sẽ tạo điều kiện để hàng Thủy sản có khả năng cạnh tranh
trên thị trường thế giới.
Thứ tư, ngành Thủy sản sẽ có lợi gián tiếp từ yêu cầu của WTO về việc
cải cách hệ thống ngoại thương, bảo đảm tính thống nhất của các chính sách
thương mại Thủy sản và Luật Thủy sản của Việt Nam cho phù hợp với hệ
thống thương mại quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ loại bỏ dần những bất
hợp lý thương mại, thúc đẩy cải thiện hệ thống kinh tế và đẩy nhanh quá trình
chuyển đổi từ hệ thống kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường.
Thứ năm, ngành Thủy sản sẽ có điều kiện thu hút vốn, kinh nghiệm
quản lý và công nghệ mới… của nước ngoài, sẽ là cơ hội để các nhà đầu tư
nước ngoài quan tâm hơn đến đầu tư vào phát triển Thủy sản. Đầu tư nước
ngoài đã tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi đã góp phần chủ yếu vào việc
chuyển giao cơng nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển. Sự xuất hiện của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cũng có tác động tích cực như: tăng
mức độ cạnh tranh trên thị trường, giúp các doanh nghiệp Thủy sản và các
nhà quản lý doanh nghiệp Thủy sản trong nước học hỏi thêm về cách thức
quản lý sản xuất, tiếp thị, tiếp thu công nghệ, kiểu dáng sản phẩm, phục vụ
khách hàng…
Thứ sáu, ngành Thủy sản nâng cao khả năng cạnh tranh và tính hiệu
quả trong nền kinh tế, đồng thời tạo ra mơi trường cạnh tranh bình đẳng cho
các doanh nghiệp Thủy sản. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho
hàng hóa của các nước thành viên dễ dàng thâm nhập vào thị trường các
nước. Điều này gây sức ép buộc các doanh nghiệp Thủy sản phải chấp nhận
15
mức độ cạnh tranh khốc liệt, làm cho họ trở nên năng động hơn trong sản xuất
kinh doanh, cải tiến các dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm…
- Những thách thức:
Bên cạnh những cơ hội đó, Ngành Thủy sản đồng thời cũng phải đương
đầu với các thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế:
Một là, các nước đang phát triển, khả năng cạnh tranh của hàng Thủy
sản còn yếu, trình độ quản lý cịn nhiều bất cập, trong khi các yêu cầu về chất
lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm của các nước thường xuyên thay đổi và
ngày càng đòi hỏi khắt khe.
Hai là, sự hiểu biết của các doanh nghiệp Thủy sản về luật pháp quốc
tế, nhất là hiểu rõ về pháp luật trong tranh chấp thương mại còn rất hạn chế,
điều này ảnh hưởng khá lớn tới năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
Thủy sản trong xuất khẩu hàng hóa Thủy sản.
Ba là, sự mất cân đối giữa khu vực sản xuất nguyên liệu và khu vực
chế biến xuất khẩu, cụ thể hơn là khu vực sản xuất nguyên liệu chưa đáp ứng
được nhu cầu của khu vực chế biến xuất khẩu cả về số lượng cũng như chất
lượng sản phẩm.
Bốn là, công tác quản lý nguồn lợi, quản lý tàu thuyền trên biển, công tác
thống kê nghề cá còn lạc hậu và chưa đáp ứng được các yêu cầu về hội nhập.
Năm là, công tác đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật tuy đã
được quan tâm nhưng do hạn chế về kinh phí và kinh nghiệm nên chưa đáp
ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng khi gia nhập WTO.
Sáu là, năng lực, kinh nghiệm quản lý và trang thiết bị phục vụ cho
kiểm tra, kiểm soát chất lượng, kiểm dịch hàng Thủy sản nhập khẩu còn hạn
chế - là thách thức lớn đối với việc bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng cũng
như sức khoẻ và môi trường sống của các lồi Thủy sản, đồng thời đó cũng
là thách thức đối với những cạnh tranh không lành mạnh sẽ diễn ra đối với
Thủy sản.
16
Bẩy là, các nước đang phát triển nhiều doanh nghiệp Thủy sản vừa và
nhỏ đang gặp rất nhiều khó khăn về vốn, cơng nghệ và kinh nghiệm, bên cạnh
đó kỹ năng và trình độ quản trị của nhiều doanh nghiệp Thủy sản chưa đáp
ứng được các chuẩn mực quốc tế và còn rất thấp so với các đối thủ.
Tám là, hệ thống cơ sở hạ tầng cho sản xuất kinh doanh Thủy sản (hệ
thống thủy lợi, các chợ Thủy sản đầu mối, các trung tâm thương mại Thủy sản)
chưa có hoặc còn yếu, cộng với khả năng cạnh tranh thấp của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ sẽ là thách thức lớn trong việc giữ được thị trường trong nước.
Chín là, vấn đề thương hiệu của Thủy sản cũng được coi là một thách
thức lớn, vì hiện nay các mặt hàng Thủy sản xuất khẩu thông qua các nhà
nhập khẩu và được phân phối dưới nhiều thương hiệu khác nhau, vừa khơng
quảng bá được sản phẩm, vừa có thể gây ra những rắc rối.
1.2. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỦY SẢN TRONG HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
1.2.1. Nội dung phát triển kinh tế Thủy sản trong hội nhập kinh tế
quôc tế
- Hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành
Thủy sản
Xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển Thủy sản phải lấy hiệu
quả kinh tế làm động lực chính để phát triển Thủy sản nhân dân; Lấy kinh tế
Nhà nước, kinh tế tập thể làm bà đỡ cho ngành Thủy sản phát triển; phát huy
nội lực và tính sáng tạo của nghề cá nhân dân; phát triển Thủy sản gắn liền
với xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng, bảo đảm cho sản xuất phát triển
theo hướng hiện đại hóa và thị trường hóa; phát triển kinh tế đi đơi với phát
triển xã hội văn minh và gìn giữ môi trường vùng Thủy sản để tạo lập sự phát
triển bền vững.
+ Quy hoạch khai thác và bảo vệ nguồn lợi Thủy sản: cần tập trung
phân loại ngư trường; sắp xếp lại nghề cá ven bờ đảm bảo khả năng tái tạo các
loại Thủy sản ven bờ; tăng cường các hệ thống dự báo, cảnh báo và cứu nạn,
17
bảo hiểm trong đánh bắt trên biển, phát triển hệ thống tàu thuyền và phương
tiện đánh bắt hải sản có hiệu quả cao.
Bảo về nguồn lợi Thủy sản là một yêu cầu bức xúc của cả nền kinh tế
nước ta vì nó cịn liên quan đến sự phát triển của nhiều ngành kinh tế và liên
quan đến chính sức khỏe của con người. Bảo về nguồn lợi Thủy sản là vấn đề
quan tâm của nhiều quốc gia hiện nay. Bảo vệ nguồn lợi hải sản của các đại
dương thế giới, đặc biệt là các Thủy sản quý hiếm đã mang tính tồn cầu.
+ Quy hoạch ni trồng Thủy sản: xây dựng các bản đồ thích nghi
giống Thủy sản theo vùng sinh thái, triển khai công tác phát triển giống Thủy
sản phục vụ nuôi trồng cho giá trị cao, thu nhập ổn định; Thúc đẩy đổi mới
công nghệ nuôi trồng theo hướng thâm canh, năng suất cao, xây dựng các
chính sách khuyến khích doanh nghiệp và các nhà đầu tư tư nhân bỏ vốn kinh
doanh Thủy sản. Phát triển nuôi trồng Thủy sản kết hợp với việc lập các dự án
đầu tư cụ thể như quy hoạch phát triển thủy lợi và đê biển chung trên địa bàn
vào nuôi trồng Thủy sản. Những vùng ruộng sản xuất lúa kém hiệu quả cần
khuyến khích người dân chuyển đổi sang ni trồng Thủy sản, tùy theo điều
kiện sinh thái, môi trường, thổ nhưỡng và khả năng thủy lợi của từng vùng và
địa phương mà tổ chức nuôi trồng phù hợp như; nuôi thâm canh, bán thâm
canh, nuôi luân canh một vụ lúa, một vụ tôm hoặc cá, nuôi xen canh kết hợp
lúa-cá, lúa-tôm, nuôi Thủy sản kết hợp với trồng rừng, nuôi sinh thái hoặc làm
vườn.
Ưu thế của nuôi trồng Thủy sản đã được khẳng định, nhiều địa
phương xem đây là mũi nhọn kinh tế. Danh mục các đối tượng Thủy sản nuôi
trồng có giá trị kinh tế ngày càng tăng, địa bàn nuôi cũng ngày càng rộng
thêm. Bên cạnh những đối tượng ni quen thuộc, chúng ta đã có thêm nhiều
đối tượng ni mới thuộc loại đặc sản có giá trị cao như: tôm hùm, cua biển,
ghẹ, ốc hương, vẹm xanh, rong sụn, cá biển…con tôm Sú đã được khẳng định
vị thế ở các vùng ven biển từ Nam ra Bắc.
18
+ Quy hoạch chế biến và tiêu thụ sản phẩm Thủy sản: Tăng cường
năng lực nghiên cứu công nghệ chế biến Thủy sản tiên tiến, xây dựng cơ chế
chính sách thu hút vốn đầu tư vào công nghiệp chế biến Thuỷ sản, tổ chức lại
mạng lưới chế biến và tiêu thụ Thủy sản nội địa, duy trì thị trường Thủy sản
ngoài nước, phát triển các trung tâm chế biến Thủy sản cao cấp phục vụ thị
trường các nước phát triển.
- Đầu tư phát triển kinh tế Thủy sản
+ Công tác huy động vốn đầu tư: Vốn thuộc một trong ba yếu tố đầu
vào quan trọng nhất của hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh những đầu
tư trực tiếp từ ngân sách, Nhà nước cần phát triển và đổi mới phương thức
đầu tư gián tiếp bằng hình thức tín dụng thông qua ngân hàng nhà nước và hệ
thống các ngân hàng thương mại. Mở rộng tín dụng Nhà nước và tín dụng
nhân dân là một hướng đi đúng đắn nhằm phát triển sản xuất Thủy sản, nhanh
chóng chuyển sang sản xuất hàng hóa nhiều hơn cho xã hội. Vấn đề lãi suất
tín dụng cần linh hoạt, phù hợp với quan hệ cung cầu vốn trên thị trường,
thúc đẩy sản xuất và có tích lũy, đồng thời bảo đảm được vốn vay.
+ Sử dụng vốn đầu tư: phải phù hợp với tính đặc thù của q trình tái
sản xuất trong ngành Thủy sản. Chu kỳ sản xuất trong nuôi trồng và mỗi
chuyến đi biển khai thác Thủy sản thường tương đối dài và có tính mùa vụ
nên làm cho vốn sản xuất luân chuyển chậm chạp, vốn cố định thu hồi chậm,
còn vốn lưu động thường bị ứ đọng và cần dự trữ tương đối lớn trong thời
gian dài. Đối với khai thác hải sản xa bờ, nhu cầu đầu tư để mua sắm tàu,
thuyền, phương tiện là khá lớn, thời gian thu hồi vốn đầu tư dài và dễ bị tổn
thất vốn đầu tư. Vốn sản xuất tác động vào q trình ni trồng và khai thác
Thủy sản khơng bằng cách trực tiếp mà phải thông qua môi trường và vật
ni. Vì vậy, cơ cấu vốn sản xuất phải phù hợp với từng loại hình mặt nước
sản xuất Thủy sản và giống lồi Thủy sản đó. Sản xuất Thủy sản còn phụ
thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu cho nên việc sử dụng
19
vốn có nhiều rủi ro, có khi phải chấp nhận cả những tổn thất lớn về người và
tài sản.
- Phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh trong
ngành Thủy sản
Các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong ngành Thủy sản là rất
đa dạng và năng động tùy thuộc mỗi lĩnh vực nuôi trồng, khai thác và chế
biến Thủy sản, các hình thức tổ chức sản xuất đó gồm: doanh nghiệp 100%
vốn Nhà nước, công ty cổ phần với tỷ lệ cổ phần nhà nước cao thấp khác
nhau, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi và 100% vốn nước ngồi, cơng
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, các hình thức kinh tế tập thể (hợp tác
xã nghề cá, hội nghề cá, các thuyền nghề đánh bắt hải sản xa bờ) các hộ hay
các trang trại Thủy sản, các hộ ngư dân nuôi trồng và đánh bắt hải sản. Trong
các hình thức tổ chức sản xuất, hình thức tổ chức cơ bản và có tính chất đơn
vị cơ sở là các hộ, các trang trại nuôi trồng Thủy sản, các hộ ngư dân nuôi
trồng và đánh bắt hải sản, các thuyền nghề đánh bắt hải sản xa bờ.
+ Củng cố và phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại Thủy sản: Yếu tố
quan trọng nhất cho hoạt động kinh tế của hộ là đất đai, mặt nước được giao
sử dụng ổn định lâu dài. Ngoài ra, cần hỗ trợ từ phía Nhà nước về giống,
trang thiết bị, tiền vốn…, định hướng và hỗ trợ đào tạo và nhận chuyển giao
khoa học – công nghệ, hỗ trợ về đầu vào cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
đầu ra.
+ Củng cố và phát triển kinh tế tập thể trong ngành Thủy sản: Kinh tế
tập thể trong ngành Thủy sản phải góp phần nâng cao năng lực sản xuất kinh
doanh của kinh tế hộ và kinh tế trang trại, do vậy phải được phát triển đa dạng
về hình thức, trong đó nịng cốt là các hợp tác xã và các hình thức kinh tế hợp
tác phù hợp với nhu cầu của kinh tế hộ và kinh tế trang trại theo từng ngành
nghề trong ngành Thủy sản tại từng địa phương.
20
Hợp tác xã nuôi trồng Thủy sản và hợp tác xã kinh doanh dịch vụ
phục vụ khai thác, nuôi trồng Thủy sản hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện,
cùng có lợi. Quy mơ hợp tác xã tùy thuộc trình độ quản lý của cán bộ và
nguyện vọng xã viên, nhưng ít nhất phải có 10 xã viên. Hợp tác xã khai thác
hải sản: tùy theo loại nghề khai thác cá biển, một đơn vị có thể sử dụng một
hoặc hai, ba chiếc tàu, thuyền. Một đơn vị thuyền nghề là một hợp tác xã phải
có ít nhất 10 xã viên trở lên, có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Liên hiệp hợp tác xã: ở những địa bàn có ít
nhất ba hợp tác xã thành viên tham gia góp vốn có quan hệ với nhau về công
nghệ, ngành nghề sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nếu tự nguyện có thể tổ chức
thành Liên hiệp hợp tác xã.
Ngoài hợp tác xã là hình thức chủ yếu của kinh tế tập thể, trong ngành
Thủy sản cũng phát triển đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác khác như tổ
đoàn kết sản xuất, các hội nghề nghiệp trong các lĩnh vực nuôi trồng, khai
thác hoặc chế biến sản phẩm. Trong quá trình phát triển, một số tổ chức kinh
tế hợp tác có thể phát triển thành các hợp tác xã. Một số ít hợp tác xã do nhu
cầu của xã viên mà chuyển đổi, giải thể để thành lập các hình thức kinh tế hợp
tác khác nhau.
+ Kinh tế nhà nước trong ngành Thủy sản: Kinh tế nhà nước vừa là
một bộ phận cấu thành vừa có vai trị chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong
ngành Thủy sản, chủ thể chủ yếu là kinh tế hộ, kinh tế trang trại nên vai trò chủ
đạo của kinh tế Nhà nước phải được tập trung thể hiện ở các khâu đầu vào và
đầu ra của sản xuất, đặc biệt là trong nghiên cứu khoa học để tìm ra giống, cơng
nghệ sản xuất, chế biến mới, vừa định hướng vùa tạo thuận lợi cho kinh tế hộ,
kinh tế trang trại và kinh tế tập thể nâng cao hiệu quả hoạt động.
- Phát triển nguồn nhân lực Thủy sản
+ Về số lượng
21
Nguồn lực lao động là yếu tố hàng đầu trong mọi hoạt động sản xuất
Thủy sản. Lao động Thủy sản gắn liền với lao động nông thôn và nông
nghiệp. Do đặc điểm tính chất kinh tế - xã hội của các tổ chức sản xuất Thủy
sản, chủ yếu là kinh tế hộ, tư nhân và tập thể nên lực lượng lao động bao gồm
cả những người ngoài độ tuổi lao động mà có khả năng tham gia sản xuất.
Lao động Thủy sản chuyên nghiệp là những người có thu nhập chủ yếu từ các
hoạt động khai thác, nuôi trồng, chế biến hoặc dịch vụ hậu cần Thủy sản. Họ
có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp. Ngồi ra, cịn một số lượng đông đảo
lao động Thủy sản bán chuyên nghiệp, họ tham gia sản xuất Thủy sản vào
thời kỳ nông nhàn hoặc kết hợp làm thủy sản trong quá trình sản xuất nông –
lâm nghiệp để tăng thêm thu nhập.
Lao động Thủy sản cũng mang tính thời vụ, rõ nét hơn cả là trong
nuôi trồng và khai thác. Điều này làm phức tạp thêm cho việc sử dụng lao
động trong ngành Thủy sản. Nếu hiểu biết chất lượng nguồn lực bao gồm thể
lực và trí lực người lao động thì trong ngành Thủy sản có biểu hiện khơng
đồng đều trong các lĩnh vực sản xuất. Nó phụ thuộc đặc điểm u cầu cơng
việc. Trong khai thác, địi hỏi lao động trẻ và khỏe, chỉ có đàn ơng tham gia đi
biển. Lao động ni trồng Thủy sản có đối tượng tham gia rộng rãi hơn nhiều,
bao gồm cả phụ nữ, người già và thiếu niên nam nữ. Thông thường, lao động
trong lĩnh vực chế biến Thủy sản địi hỏi phải có kỹ năng nghề nghiệp và
được đào tạo nhiều hơn.
Lao động trong nuôi trồng và đánh bắt Thủy sản, đặc biệt là đánh bắt
hải sản, phụ thuộc vào ngư trường. Tùy điều kiện cụ thể của từng ngư trường,
có một bộ phận sinh sống ngay trên ngư trường. Trong nhiều trường hợp, các
ngư dân quần tụ thành những làng chài trên sơng, trên biển. Sự hình thành các
“làng chài” trong ni trồng và đánh bắt Thủy sản có thể gấy nên những bức
22
xúc về kinh tế, văn hóa, xã hội địi hỏi phải có những biện pháp quản lý phù
hợp với loại cộng đồng đặc biệt này.
Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế nước ta cũng như
đối với ngành Thủy sản sẽ tiếp tục tạo ra xu hướng biến đổi nguồn lao động
Thủy sản phù hợp với các yêu cầu mới của xã hội.
+ Về chất lượng và cơ cấu
Nguồn lao động với kỹ năng lao động trong ngành Thủy sản thể hiện
tập trung nhất trình độ phát triển của ngành, lực lượng lao động Thủy sản
chưa được đào tạo chiếm tỷ lệ lớn, nhất là trong lĩnh vực khai thác và nuôi
trồng. Hầu hết ngư dân khai thác hải sản dựa trên kinh nghiệm. Đối với khai
thác xa bờ, ngay cả các thuyền trưởng cũng còn hạn chế về kỹ thuật đánh bắt.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển kinh tế thủy sản
Phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế Thủy sản nói riêng là
q trình kinh tế khách quan mang tính quy luật, đồng thời chịu tác động của
nhiều nhân tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội, kết cấu hạ tầng cơ sở…
Các nhân tố này gắn bó với nhau, tác động qua lại tạo thành một hệ thống tác
động thúc đẩy hoặc cản trở quá trình phát triển kinh tế Thủy sản. Vì vậy, để
đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế của ngành thì việc phân tích các yếu tố
ảnh hưởng đến nó một cách khoa học có ý nghĩa quan trọng.
Thứ nhất, nhóm nhân tố về điều kiện tự nhiên
Trong các nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên thì đất đai, mặt nước,
nguồn lợi, khí hậu, thời tiết, vị trí địa lý… ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển của ngành Thủy sản, là điều kiện tiên quyết của sản xuất Thủy sản. Sở dĩ
như vậy là vì, ngành Thủy sản là ngành kinh tế sinh thái; tất cả các khâu trong
quá trình sản xuất như khai thác, ni trồng, chế biến đều gắn bó chặt chẽ với
tự nhiên, dựa vào sự chiếm hữu và lợi dụng tự nhiên để tồn tại và phát triển.
23
Yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến tốc độ, quy mơ và bước đi của tiến
trình phát triển kinh tế Thủy sản là tài nguyên thiên nhiên và nguồn lợi Thủy
sản xét cả về mặt trữ lượng, sự phân bố, đặc điểm sinh học, điều kiện khai
thác… Rõ ràng nếu nguồn lợi Thủy sản dồi rào, giá trị kinh tế cao và điều
kiện khai thác thuận lợi sẽ tác động mạnh đến phát triển kinh tế Thủy sản theo
hướng thuận chiều.
Vị trí địa lý, yếu tố địa hình cũng ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế
Thủy sản. Sự giàu có về tài ngun biển, đảo ln là điều kiện thuận lợi phát
triển các trung tâm nghề cá cao nhất thế giới. Tùy theo mức độ giầu có về tài
nguyên Thủy sản mà có thể phát triển kinh tế Thủy sản phù hợp về quy mơ và
trình độ. Là căn cứ lựa chọn quy mô lớn hay vừa và nhỏ, kết hợp giữa phân
tán và tập trung tại từng vùng, từng địa phương nhằm phát huy được tiềm
năng, lợi thế của vùng, địa phương đó.
Điều kiện tự nhiên cịn quyết định phân công lao động theo vùng, lãnh
thổ, từng khâu trong cơ cấu sản xuất, trong đầu tư và tổ chức quản lý lao động
Thủy sản, thiết lập các hình thức hiệp tác, các loại hình tổ chức SXKD phù
hợp để huy động tối đa nguồn lực của xã hội nhằm nâng cao hiệu quả sản
xuất, đồng thời hạn chế những thiệt hại do tự nhiên gây ra.
Xu hướng chung của khai thác sử dụng các điều kiện tự nhiên là phải
tiết kiệm đến mức tối đa nguồn của cải thiên nhiên, đồng thời đề cao chất
lượng, hiệu quả và tôn trọng nhân cách sáng tạo của con người. Thủy sản là
nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo được thông qua lao động của con người
nhưng không phải là vơ hạn. Do đó, cần phải có kế hoạch kết hợp giữa khai
thác với bảo vệ và phát triển nguồn lợi, khai thác đi đôi với tái tạo và làm
phong phú thêm mơi trường tự nhiên.
Thứ hai, nhóm nhân tố về kinh tế - xã hội
Nhân tố vốn: Phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành
Thủy sản nói riêng địi hỏi phải có vốn lớn. Vốn là chìa khóa để thực hiện
24
phát triển kinh tế Thủy sản. Nguồn vốn có tính chất quyết định là vốn trong
nước – nguồn vốn nội sinh, nội động lực của quá trình phát triển kinh tế Thủy
sản, nguồn vốn này được thực hiện trên cơ sở hiệu quả của sản xuất, đó là lao
động thặng dư của người lao động trong tất cả các thành phần kinh tế. Con
đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích lũy vốn trong nước là tăng năng suất
lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và cơng nghệ,
hợp lý hóa sản xuất.
Vốn nước ngoài là rất quan trọng, nhất là trong thời kỳ đầu của phát
triển kinh tế. Vốn nước ngoài gồm có vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn đầu tư
gián tiếp. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp chủ yếu là của các doanh nghiệp và cá
nhân nước ngoài đầu tư vào SXKD Thủy sản. Họ trực tiếp tham gia vào việc
tổ chức, quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro
trong SXKD và thu lợi nhuận. Nguồn vốn quan trọng là viện trợ phát triển
chính thức (ODA) của Chính phủ một số nước có nền kinh tế phát triển, các
tổ chức trong hệ thống Liên hợp quốc dành cho các nước chậm phát triển.
Nguồn vốn FDI là rất quan trọng, vì thực tế đi cùng với FDI là kỹ thuật công
nghệ, kinh nghiệm quản lý, khả năng mở rộng không gian thị trường…
Nhân tố thị trường: Ngành Thủy sản phát triển theo hướng sản xuất
hàng hóa tất yếu phải gắn với thị trường. Thị trường vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sản xuất nói chung và sản xuất Thuỷ sản nói riêng, sự tác động
của nhân tố thị trường đối với phát triển kinh tế Thủy sản thể hiện trên các
khía cạnh sau:
- Trong mơi trường kinh tế hàng hóa, mỗi doanh nghiệp Thuỷ sản
muốn sản xuất mặt hàng gì, với số lượng bao nhiêu và phân phối cho đối
tượng nào đều phải thông qua thị trường. Như vậy, Thị trường chính là lực
lượng hướng dẫn, cung cấp thông tin cho người sản xuất, thông qua các
thông số như quy mô, cơ cấu, chất lượng, thị hiếu, giá cả mà nhu cầu có thể
chấp nhận. Kinh tế Thủy sản chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi gắn sản xuất với
25
thị trường, thực hiện chiến lược sản xuất – thị trường. Thị trường vừa là căn
cứ, vừa là đối tượng để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế Thủy sản.
Mục đích của sản xuất Thủy sản là vươn tới tiêu dùng, là làm sao thỏa
mãn nhu cầu, nâng cao mức dinh dưỡng cho dân cư trong nước và thế giới.
Hơn nữa xu thế sử dụng các mặt hàng Thủy sản tươi sống, đông lạnh, sản
phẩm chế biến sẵn chất lượng theo phương pháp công nghiệp đang tăng lên
với mức độ cao. Đây vừa là triển vọng, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế
Thủy sản, nhưng đó cũng là thách thức đặt ra cho ngành. Để tồn tại và phát
triển chiến lược phát triển ngành Thủy sản phải linh hoạt, chủ động điều
chỉnh theo sự biến đổi của thị trường.
- Trong kinh tế thị trường tồn tại nguyên tắc “nên bán những mặt hàng
mà thị trường cần, chứ không nên bán những mặt hàng mà mình có”. Thị
trường là nơi đánh giá, kiểm tra cuối cùng về chủng loại, số lượng, chất lượng
sản phẩm mà ngành cung ứng. Thị trường kiểm nghiệm tính phù hợp của sản
xuất đối với tiêu dùng xã hội. Trên ý nghĩa đó, có thể nói thị trường đánh giá
điều tiết sản xuất, chiến lược phát triển kinh tế và là động lực của phát triển
kinh tế Thủy sản, nó có thể thúc đẩy hoặc cản trở tiến trình phát triển kinh tế
Thủy sản.
- Thị trường tác động đến các chủ thể tham gia thị trường, buộc họ
phải có những ứng xử kịp thời về các điều kiện sản xuất để phù hợp với các
thông số thị trường. Thông qua thị trường, hoạt động SXKD của các chủ thể
kinh tế ngày càng năng động, sáng tạo hơn, hiệu quả kinh tế cao hơn… Trên ý
nghĩa này, thị trường tác động làm thay đổi cách nghĩ, phong cách làm ăn của
ngư dân, doanh nghiệp
- Để tiến hành sản xuất cần phải có các yếu tố sản xuất, thị trường
chính là nới cung cấp những yếu tố đảm bảo cho quá trình sản xuất tiến hành
bình thường. Như vậy, ngành Thủy sản là nơi mua các yếu tố sản xuất và bán