1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, trong 55 năm qua, kể từ khi miền Bắc hoàn tồn được giải
phóng vào năm 1954, cùng với sự biến đổi lớn lao về mọi mặt của đất nước,
sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc
biệt. Chúng ta dễ dàng nhận thấy bức tranh tồn cảnh sinh động về sự phát
triển khơng ngừng của sự nghiệp đào tạo này trong những năm qua, đặc biệt
là những năm cuối của thế kỷ XX đến nay với sự phát triển mạnh mẽ của
cuộc cách mạng khoa học, công nghệ.
Hiện nay mục tiêu phát triển đất nước đã được Đảng và nhà nước Việt
Nam phấn đấu đến năm 2020 đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Một trong những yếu tố mang tính quyết định
cho sự nghiệp CNH, HĐH chính là nguồn nhân lực được phát triển cả về số
lượng và chất lượng. Trong những năm gần đây với sự phát triển của nền
kinh tế và dòng vốn đầu tư từ nước ngồi khơng ngừng đổ vào Việt Nam
khiến cho nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng tăng. Tuy
nhiên nguồn nhân lực này của Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại vẫn chưa
bắt kịp được mức cầu. Những ưu thế về nguồn nhân lực Việt Nam như:
đơng, trẻ vì là nước có dân số đứng thứ 13 trên thế giới và tính theo tuổi
đời trung bình, văn hóa thích ổn định nơi làm việc; khả năng về tốn học…
đang khơng cịn là lợi thế trong thời đại bùng nổ của cuộc cách mạng khoa
học và cơng nghệ. Bên cạnh đó những nhược điểm của nguồn nhân lực Việt
Nam như kỹ năng thấp, mất cân đối về cơ cấu lao động theo trình độ kỹ
năng; lao động chất xám thiếu và yếu về chất lượng; thể lực kém; tác
phong công nghiệp và kỷ luật lao động thấp… đã và đang là những hạn
chế, rào cản lớn trong quá trình CNH, HĐH và là nguy cơ đưa Việt Nam tụt
hậu xa hơn về kinh tế.
2
Hà Nam là một tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, vùng đệm trung gian giữa các
tỉnh Trung, Nam bộ với Thủ đơ Hà Nội và các tỉnh phía Bắc, có vị trí thuận
lợi cho phát triển KT-XH. Những điều kiện tự nhiên và KT-XH hiện có cho
phép phát triển một cơ cấu đã bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp và các
ngành dịch vụ. Tuy nhiên, những lợi thế đó chưa được khai thác và sử dụng
có hiệu quả, các ngành kinh tế đang ở trình độ thấp. Hiện tại tỷ trọng công
nghiệp - xây dựng chiếm : 36,7%; Nông - Lâm - Ngư nghiệp chiếm 31,8%;
Các ngành dịch vụ chiếm 31,5%. Một trong những nguyên nhân của tình
trạng trên là nguồn nhân lực của tỉnh chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình
CNH, HĐH, chất lượng nguồn nhân lực thấp, tỷ lệ lao động qua đào tạo mới
chỉ đạt mức 25% nguồn nhân lực.
Để đưa tỉnh Hà Nam thoát khỏi tỉnh nghèo và về cơ bản trở thành
tỉnh Công nghiệp đến năm 2020, cần phải khai thác mọi tiềm năng, phát
huy tối đa các nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực với những điều kiện
cụ thể của địa phương. Vì vậy, nghiên cứu đánh giá về nguồn nhân lực
nhằm đề xuất những phương hướng, giải pháp có căn cứ khoa học và khả
thi để thực hiện CNH, HĐH ở tỉnh Hà Nam không những đang là vấn đề
cấp bách về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn đẩy nhanh CNH, HĐH
và hội nhập kinh tế quốc tế.
Với ý nghĩa trên, tôi chọn vấn đề “Phát triển nguồn nhân lực tỉnh Hà
Nam trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành
Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nguồn nhân lực là vấn đề đã được nghiên cứu trong rất nhiều cơng
trình khoa học khác nhau của các tác giả và tổ chức trong và ngoài nước. Một
số cơng trình tiêu biểu về nguồn nhân lực như:
- Báo cáo phát triển Việt Nam 2007 của Ngân hàng thế giới “Hướng tới
tầm cao mới”;
3
- Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2008 của Ngân hàng thế giới “Bảo
trợ xã hội”;
- Nguyễn Minh Đường (1996), Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực
trong điều kiện mới, Đề tài KX.07-14, Hà Nội.
- GS.TS Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ
CNH, HĐH, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- TS. Đặng Thị Thanh Huyền (2001), Giáo dục phổ thông với phát triển
chất lượng nguồn nhân lực, những bài học thực tiễn từ Nhật Bản, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
- TS. Nguyễn Thanh (2005), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Thành (2008), Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
của hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí kinh tế và dự báo, số 417 tr 45...v.v.
Vấn đề nguồn nhân lực của tỉnh Hà Nam đã được đề cập tới trong một
số cơng trình như:
- Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình hành động về thực
hiện kết luận Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX) về
phát triển Giáo dục - Đào tạo.
- Các văn bản liên quan đến kế hoạch phát triển giáo dục - đào tạo
của ngành Giáo dục - Đào tạo, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội
tỉnh Hà Nam.
Các cơng trình khoa học đã cơng bố đã đề cập và làm rõ được
những vấn đề lý luận chủ yếu về nguồn nhân lực, một số tác giả bàn đến
hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong một số ngành, địa phương cụ thể.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu đặc thù của nguồn nhân lực các tỉnh đồng
bằng Bắc bộ của nước ta mới chỉ được đề cập với tư cách là vấn đề có liên
quan. Đặc biệt chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu về phát triển
nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay ở tỉnh Hà Nam trên giác độ khoa
học kinh tế chính trị.
4
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Vận dụng lý luận về nguồn nhân lực vào phân tích, đánh giá nguồn
nhân lực ở tỉnh Hà Nam nhằm đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH của địa phương trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Khái quát những vấn đề lý luận chung về nguồn nhân lực, đặc thù của
nguồn nhân lực các tỉnh đồng bằng sơng Hồng nói chung và Hà Nam nói riêng.
- Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực ở tỉnh Hà Nam, đặc biệt là về
chất lượng và cơ cấu theo ngành, vùng, từ đó làm rõ những thành công, hạn
chế trong phát triển nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH ở tỉnh Hà
Nam và nguyên nhân của những kết quả đó.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát
triển KT-XH ở tỉnh Hà Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phát triển nguồn nhân lực tỉnh
Hà Nam trên các phương diện: khái niệm, số lượng, chất lượng, cơ cấu...
của nguồn nhân lực.
4.2. Phạm vi
Luận văn tập trung phân tích đánh giá về nguồn nhân lực trong phạm vi
tỉnh Hà Nam giai đoạn 2004 – 2009.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản
5
Việt Nam, chính sách của Nhà nước về nguồn nhân lực cho phát triển KT-XH.
Đồng thời tham khảo những công trình khoa học đã cơng bố của các tác giả, tổ
chức trong và ngoài nước về phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện đẩy mạnh
CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
5.2. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp
nghiên cứu của kinh tế chính trị, đồng thời kết hợp với sử dụng các phương
pháp tiếp cận hệ thống, tiếp cận lịch sử và các phương pháp phân tích, tổng
hợp, điều tra xã hội học, thống kê, so sánh, minh hoạ…
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Khái quát và hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển
nguồn nhân lực.
- Phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và phát triển nguồn
nhân lực ở tỉnh Hà Nam giai đoạn 2004 - 2009, làm rõ những thành công, hạn
chế và nguyên nhân.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực, đặc
biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình CNH, HĐH ở tỉnh Hà
Nam đến năm 2020.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung và làm rõ thêm
những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, đặc biệt
về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH ở tỉnh Hà Nam.
Những kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể sử dụng tài liệu tham khảo
phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học về nguồn nhân lực nói
chung và nguồn nhân lực các tỉnh đồng bằng Bắc bộ nói riêng, đồng thời góp
phần cung cấp thêm căn cứ khoa học cho các cơ quan, ban ngành của tỉnh Hà
6
Nam để hoạch định và thực thi các chính sách nhằm phát triển nguồn nhân lực
của tỉnh đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương, 8 tiết.
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực
trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
- Chương 2: Thực trạng nguồn nhân lực ở tỉnh Hà Nam giai đoạn
2004 -2009.
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
nguồn nhân lực tỉnh Hà Nam đến năm 2020.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN LỰC VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC
1.1.1. Về nguồn nhân lực
1.1.1.1 Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực (NNL) có quan hệ chặt chẽ với dân số, đó là một bộ
phận quan trọng của dân số, đóng vai trị tạo ra của cải vật chất và văn hố
cho xã hội. Tuỳ theo trình độ phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc mà có các
định nghĩa khác nhau về NNL.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống
xã hội. Để tiến hành sản xuất xã hội cần có những yếu tố cơ bản như sức lao
động, đối tượng lao động, tư liệu lao động. Theo C.Mác: Sức lao động hay
năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại
trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra
vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó [24, tr.251].
Theo sự phát triển của sản xuất xã hội, sức lao động của xã hội khơng
ngừng được hồn thiện, phát triển và nhận thức về nguồn lực này cũng ngày
càng đầy đủ hơn. Nhận thức về sức lao động của xã hội được thể hiện trong
khái niệm NNL. Nếu như trước đây, NNL chỉ đơn thuần được coi là phương
tiện, là một trong số nguồn lực cho phát triển như các nguồn lực vật chất
khác, thì ngày nay NNL cịn được xác định là mục tiêu của sự phát triển.
Trong điều kiện cách mạng khoa học - cơng nghệ hiện đại, trí tuệ con người
ngày càng quan trọng, có tính quyết định đối với phát triển và tiến bộ xã hội.
NNL, đặc biệt là NNL chất lượng cao, nếu biết khai thác và sử dụng hợp lý
thì càng phát triển và có khả năng tái sinh nhanh. Chính vì vậy, nghiên cứu để
8
phát triển NNL phục vụ phát triển KT-XH đã và đang là vấn đề mà mọi quốc
gia đều quan tâm đặc biệt.
Bàn về nội hàm khái niệm NNL đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác
nhau. Theo lý thuyết lao động xã hội, NNL theo nghĩa rộng là nguồn cung cấp
sức lao động cho sản xuất và cho sự phát triển xã hội, do đó bao gồm tồn bộ
dân cư có cơ thể phát triển bình thường (trừ những người bị dị tật). Theo
nghĩa hẹp, NNL là khả năng lao động thực tế của xã hội, bao gồm các nhóm
dân cư trong độ tuổi lao động đang tham gia vào quá trình sản xuất xã hội.
Theo lý luận về tăng trưởng kinh tế, NNL là yếu tố chủ yếu của tăng
trưởng kinh tế. Mức độ đáp ứng về NNL đóng vai trò quyết định đảm bảo tốc
độ tăng trưởng kinh tế trong từng điều kiện cụ thể.
Theo thuyết về vốn con người, đầu tư hợp lý vào phát triển NNL sẽ mang
lại lợi ích lớn hơn so với các nguồn lực khác như vốn, công nghệ, tài nguyên
thiên nhiên, đất đai.
Theo quan niệm của Ngân hàng Thế giới (WB), NNL là tồn bộ vốn con
người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp…do mọi cá nhân sở hữu.
Đầu tư cho con người là cơ sở vững chắc cho phát triển bền vững. Đầu tư cho
con người mà chủ yếu là đầu tư vào giáo dục có tỷ lệ thu hồi vốn cao so với
các lĩnh vực khác: đối với tiểu học là 24%, trung học là 17%, cao đẳng và đại
học là 14%, trong khi dầu tư vào các ngành sản xuất vật chỉ là 13% [26].
Theo Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), NNL là tổng thể những
năng lực (cơ năng và trí năng) của con người được huy động vào quá trình sản xuất,
là nội lực xã hội của một quốc gia. Việt Nam đang có NNL dồi dào, nếu biết khai
thật hợp lý sẽ tạo ra động lực to lớn cho sự phát triển KT-XH của đất nước.
Theo quan điểm của các nhà khoa học Việt Nam, NNL được hiểu là dân
số và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, năng lực, phẩm
chất, thái độ và phong cách làm việc… Tác giả Lê Thị Ngân trong luận án
tiến sĩ nghiên cứu về “Nâng cao chất lượng NNL tiếp cận kinh tế tri thức ở
9
Việt Nam” cho rằng: NNL là tổng thể sức lao động của xã hội đang và sẽ
được vận dụng cho quá trình sản xuất xã hội [25].
Theo giáo trình kinh tế lao động, NNL là nguồn lực con người, là một
trong những nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển KT-XH. So với
các nguồn lực kinh tế khác như nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất,
nguồn lực cơng nghệ…NNL chịu tác động của cả yếu tố tự nhiên (sinh,
chết…) và yếu tố xã hội (việc làm, thất nghiệp...) NNL cần được hiểu như
là nơi sinh sản, nuôi dưỡng và cung cấp nguồn lực con người cho sự phát
triển, do đó là tổng thể những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao
động xã hội.
Từ những quan niệm kể trên có thể rút ra rằng, NNL về chất là tổng thể
sức lao động của xã hội, bao gồm cả thể lực và trí lực, được huy động vào quá
trình phát triển KT-XH. NNL là tổng thể hữu cơ của nhiều yếu tố hợp thành
như thể chất, trí tuệ cùng với trình độ văn hố, kỹ năng chun môn, kinh
nghiệm nghề nghiệp, thái độ và phong cách làm việc... của người lao động.
Về lượng, NNL bao gồm toàn bộ những người có khả năng lao động trong
nền kinh tế, trong đó thành phần quan trọng nhất là những người trong độ tuổi
lao động và đang lao động. NNL là nguồn nội lực quan trọng, có ý nghĩa đặc
biệt trong điều kiện ngày nay, quyết định đối với phát triển KT-XH, cho nên
cần được quan tâm đầu tư phát triển.
1.1.1.2. Phân loại nguồn nhân lực
- Căn cứ vào nguồn gốc hình thành chia NNL làm ba loại.
+ NNL có sẵn trong dân số: bao gồm những người nằm trong độ tuổi
lao động có khả năng lao động, khơng kể đến trạng thái có làm việc hay
khơng làm việc. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, khái niệm này còn gọi là
dân số hoạt động, có nghĩa là tất cả những người có khả năng làm việc trong
dân số tính theo tuổi lao động quy định (Luật Lao động của Việt Nam quy
định tuổi lao động từ 15-55 tuổi đối với nữ, 15-60 tuổi đối với nam). NNL này
10
chiếm một tỷ lệ tương đối lớn trong dân số, thường từ 50% hoặc hơn nữa tùy
theo đặc điểm về dân số và nhân lực của từng nước.
+ NNL tham gia hoạt động kinh tế (hay còn gọi là dân số hoạt động
kinh tế) là những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, có cơng
ăn việc làm, đang hoạt động trong các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội.
+ NNL dự trữ là những người nằm trong độ tuổi lao động nhưng vì lý
do nào đó chưa tham gia hoạt động kinh tế. Số người này đóng vai trị của
một nguồn dự trữ về nhân lực. Họ gồm: những người làm cơng việc nội trợ
gia đình, những người đang học các trường phổ thông và các trường trung học
chuyên nghiệp, những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, những người
trong độ tuổi lao động đang bị thất nghiệp (có nghề hoặc khơng có nghề)
muốn tìm việc làm.
- Căn cứ vào vai trò của bộ phận NNL chia NNL làm 3 loại sau:
+ NNL chính: gồm những người nằm trong độ tuổi có khả năng lao động.
+ NNL phụ: gồm toàn bộ những người nằm ngoài độ tuổi lao động
(trên dưới độ tuổi lao động) có thể và cần tham gia vào lực lượng sản xuất.
+ NNL bổ sung.
- Căn cứ vào trạng thái có việc làm hay không, NNL được chia ra:
+ Lực lượng lao động: bao gồm những người trong độ tuổi lao động có
khả năng lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và những người
thất nghiệp song đang có nhu cầu tìm việc làm.
+ Nguồn lao động: bao gồm những người thuộc lực lượng lao động
và những người thất nghiệp song khơng có nhu cầu tìm việc làm (tức là bao
gồm những người đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và những
người thất nghiệp).
Như vậy, với bất kỳ quốc gia nào thì NNL cũng ln là một bộ phận
quan trọng của dân số. Nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
KT-XH.
11
1.1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá về chất lượng nguồn nhân lực
Sự phát triển của NNL có thể đánh giá theo hai phương diện: về số
lượng và chất lượng. Với một số lượng nhất định thì chất lượng NNL là yếu
tố trực tiếp có tác động quyết định tới trình độ, tốc độ phát triển KT-XH.
Do đó, ngày nay khi đánh giá về NNL người ta thường đề cập về phương
diện chất lượng. Chất lượng NNL thể hiện trình độ phát triển của NNL theo
yêu cầu phát triển KT-XH trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Chất lượng
NNL được đánh giá thông qua các chỉ tiêu về thể lực, trí lực, chỉ số phát
triển nhân lực HDI (Human Development Index), kinh nghiệm sống, năng
lực hiểu biết thực tiễn, phẩm chất đạo đức, thái độ và phong cách làm việc
của người lao động.
- Về thể lực của NNL.
Thể lực phản ánh tình trạng sức khoẻ của NNL, bao gồm cả yếu tố về
thể chất và tinh thần của con người. Sức khoẻ là yếu tố cơ sở của NNL, vì
vậy luôn được các quốc gia và các tổ chức quốc tế quan tâm. Thể lực của
NNL được hình thành, duy trì và phát triển bởi các chế độ dinh dưỡng,
chăm sóc sức khoẻ… Vì thế, nó phụ thuộc vào trình độ phát triển KT-XH,
phân phối thu nhập và chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Sức khoẻ là
điều kiện để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện để truyền tải tri
thức vào hoạt động thực tiễn, để chuyển tri thức thành sức mạnh vật chất
cho phát triển KT-XH.
Tình trạng sức khoẻ được phản ánh bằng một hệ thống các chỉ tiêu cơ
bản như: Chiều cao, cân nặng, tuổi thọ, các chỉ tiêu về tình hình bệnh tật...
Thể lực tốt của người lao động thể hiện ở sự nhanh nhẹn, tháo vát, bền bỉ của
sức mạnh cơ bắp trong cơng việc. Thể lực tốt cịn là điều kiện cho sự phát
triển trí lực. Trình độ phát triển KT-XH càng cao thì càng địi hỏi cao về thể
lực NNL, vì nếu khơng có thể lực tốt thì sẽ không thể chịu nổi sức ép căng
thẳng của công việc, nhất là trong điều kiện ứng dụng những thành tựu khoa
12
học - công nghệ mới vào sản xuất. Nếu không có thể lực tốt thì cũng rất khó
sáng tạo ra những tri thức mới, sản phẩm mới. Do vậy, để tạo điều kiện cho
việc nâng cao thể lực của NNL cần phải tạo ra các điều kiện sống và chăm sóc
sức khỏe tốt nhất cho người dân. Để phát triển thể lực của NNL cần không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nghiên cứu và triển
khai áp dụng các chế độ dinh dưỡng hợp lý, rèn luyện thể dục thể thao, hoàn
thiện các điều kiện bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ.
Trong q trình phát triển KT-XH những năm qua, tình trạng thể lực
chung của người Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Hiện nay, tỷ trọng
người lớn có chỉ số cơ thể (BMI) bình thường chiếm khoảng 48% trong
tổng số người lớn. So sánh với tiêu chuẩn chung của WHO thì chúng ta vẫn
cần phải tiếp tục cải thiện chất lượng giống nòi, nâng cao thể lực tầm vóc
và thể trạng nhằm phát triển cân đối, hài hịa giữa thể lực và trí lực con
người Việt Nam.
- Về trí lực của NNL.
Nếu thể lực là cơ sở của NNL, thì trí lực là sự thể hiện rõ hơn trình độ
phát triển về chất của NNL. Do vậy, ngày nay trí lực được coi là tiêu chí quan
trọng nhất để đánh giá chất lượng NNL. Trí lực của NNL thể hiện ở trình độ
học vấn, trình độ chun mơn kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp của lực lượng
lao động xã hội.
- Trình độ học vấn thể hiện sự hiểu biết của người lao động thơng qua
những kiến thức tự nhiên và xã hội. Trình độ học vấn được cung cấp thông
qua hệ thống giáo dục chính quy, khơng chính quy, qua q trình tự học suốt
đời của người lao động. Thơng thường trình độ học vấn được đánh giá thông
qua các chỉ tiêu sau:
+ Tỷ lệ người biết chữ trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh
tế. Chỉ tiêu này được sử dụng trong thống kê lao động và việc làm để đánh giá
trình độ văn hố ở mức tối thiểu của NNL.
13
+ Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế có trình độ văn hố
tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. Chỉ tiêu này đánh giá một
cách đầy đủ trình độ văn hố của NNL.
+ Số năm đi học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh
tế. Đây là một trong những chỉ tiêu được liên hiệp quốc sử dụng để đánh giá
chất lượng NNL của các quốc gia.
+ Tỷ lệ dân số đi học chung các cấp: Tiểu học, trung học cơ sở, trung học
phổ thông, dùng để đánh giá trình độ phát triển giáo dục ảnh hưởng đến chất
lượng NNL của các quốc gia.
+ Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông dùng để đánh giá hiệu quả của hệ thống giáo dục, từ đó ảnh hưởng đến
chất lượng NNL.
Trình độ học vấn của NNL Việt Nam thể hiện qua biểu 1.2 và các số liệu
thống kê dưới đây:
Bảng 1.1: Giáo dục phổ thông tại thời điểm 30/9
Năm học
Tổng số (triệu học sinh)
Tiểu học
THCS
THPT
Tỉ lệ tốt nghiệp THPT(%)
2007-2008
15,7
6,9
2008-2009
15,1
6,7
2009-2010
15,0
6,9
5,8
5,5
5,2
3,0
86,6
2,9
83,8
2,9
...
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2009 của Tổng cục thống kê.
Trình độ dân trí của dân cư phản ánh trình độ học vấn của lực lượng lao
động, là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng NNL. Bởi lẽ khi có trình
độ học vấn cao thì điều kiện và khả năng để tiếp thu và vận dụng nhanh chóng
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh góp phần thúc đẩy sự phát
triển KT - XH. Tính đến 1/4/2009 trên tồn quốc, tỷ lệ dân số 15 tuổi trở lên
biết đọc biết viết 93,5%, dân số chưa học xong tiểu học 20,8%, dân số tốt
14
nghiệp tiểu học 25,7%, dân số tốt nghiệp THCS 21,9%, dân số tốt nghiệp
THPT trở lên là 26,4% [38].
- Trình độ chun mơn kỹ thuật:
Trình độ kỹ thuật của người lao động thường dùng để chỉ những người
được đào tạo ở các trường kỹ thuật được trang bị kỹ năng thực hành về một
cơng việc nào đó và được thể hiện qua các chỉ tiêu so sánh như: Số lao động
được đào tạo và số lao động phổ thông, số người có bằng kỹ thuật, số người
khơng có bằng kỹ thuật, trình độ tay nghề theo bậc thợ.
Thơng thường trình độ chuyên môn kỹ thuật được kết hợp với nhau theo
thơng số so sánh về trình độ chun mơn kỹ thuật, đó là:
+ Tỷ lệ lao động được đào tạo so với lực lượng lao động đang làm việc
+ Tỷ lệ lao động được đào tạo theo cấp bậc so với tổng số lao động đang
làm việc.
+ Tỷ lệ các loại lao động đã qua đào tạo thể hiện ở cơ cấu công nhân kỹ
thuật, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học.
Tùy theo yêu cầu phát triển KT-XH trong từng giai đoạn phát triển, công
tác đào tạo của từng quốc gia và địa phương cần hướng tới một NNL với cơ
cấu phù hợp về trình độ đào tạo. Các nghiên cứu gần đây chỉ ra cơ cấu là bất
hợp lý ở Việt Nam hiện nay đang ở tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”. Ví dụ
năm 2002, ở Việt Nam có cơ cấu cơng nhân kỹ thuật/ trung học chun
nghiệp/ cao đẳng, đại học là 1,86/0,9/1, trong khi đó cơ cấu hợp lý ở các nước
công nghiệp phát triển phải là 10/4/1 [43].
Trong điều kiện ngày nay, nâng cao trí lực của NNL là cơ sở thúc đẩy
CNH, HĐH nhất là trong phát triển các ngành công nghệ cao. Biện pháp cơ
bản để nâng cao trí lực của NNL là nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo từ
giáo dục phổ thông đến giáo dục đào tạo, dạy nghề… Do đó, giáo dục đào tạo
đang được nhiều quốc gia coi là quốc sách.
15
Bên cạnh đó, chất lượng của NNL cịn phụ thuộc vào các chính sách và
các thể chế quản lý KT-XH: Cơ chế tuyển dụng lao động; phương pháp đánh
giá trình độ nghề nghiệp, mức độ cống hiến, phẩm chất đạo đức của người lao
động. Những phẩm chất đạo đức cần thiết như ý thức tổ chức kỷ luật, tự giác
lao động, tiết kiệm, tinh thần trách nhiệm, tác phong làm việc, lương tâm
nghề nghiệp…của NNL cũng có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế.
Sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản được thực hiện trên cơ sở kết hợp hài hịa
giữa cơng nghệ hiện đại với truyền thống văn hố dân tộc.
Ở Việt Nam, trí lực của NNL khơng ngừng được cải thiện. Trình độ
chun mơn kỹ thuật của NNL nước ta được phản ánh thông qua các số liệu
của biểu 1.3 dưới đây:
Bảng 1.2: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động
tại Việt Nam
Năm
Tổng số lao động (triệu người)
Lao động khơng có chun mơn (%)
Lao động có chun mơn kỹ thuật (%)
1991
30,97
93,4
6,6
1996
35,87
87,69
12,31
1999
37,78
86,13
13,87
2002
40,69
80,38
19,62
2004
50,3
77,5
22,5
2005
44,38
75,2
24,8
Nguồn: Thống kê Lao động - Việc làm ở Việt Nam - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
Xu hướng tăng lên của lao động có chun mơn kỹ thuật có ngun
nhân từ sự quan tâm phát triển giáo dục và đào tạo ở nước ta trong những năm
qua: Năm 2005, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 24,8%, tăng thêm 2,2% so với
năm 2004. Trong đó tỷ lệ qua đào tạo nghề nói chung là 15,2% (tăng 1,8%),
tỷ lệ tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp là 4,3% (giảm gần 0,1%), tỷ lệ tốt
nghiệp cao đẳng, đại học và trên đại học là 5,3% (tăng 0,4%).Trên toàn quốc
tại thời điểm 1/4/2009, tỷ trọng dân số có bằng sơ cấp là 2,6%, có bằng trung
cấp 4,7%, có bằng cao đẳng 1,6%, bằng đại học trở lên 4,4% [38].
16
Tuy nhiên, phát triển NNL của nước ta vẫn đang phải đối mặt với
những thách thức rất lớn: trên 80% NNL chưa qua đào tạo; cơ cấu số lao
động có trình độ đại học, cao đẳng/số lao động có trình độ trung học
chuyên nghiệp/số lao động là công nhân kỹ thuật chưa hợp lý; năm 2002 có
cơ cấu: 1/0,9/1,86; năm 2003 có cơ cấu:1/ 0,9 / 2,7. Hiện tại đang thiếu
nghiêm trọng lực lượng lao động kỹ thuật có trình độ cao (chỉ có 1,32 kỹ
sư trên 1000 dân, trong khi ở những nước tiên tiến như Anh là 136, Thụy
Điển: 115 và Nhật Bản: 100) và chưa hình thành được một đội ngũ doanh
nhân giỏi có trình độ quản lý mang tầm quốc tế. Kết quả điều tra về giám
đốc doanh nghiệp của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho thấy
79% trong tổng số chủ doanh nghiệp chưa qua đào tạo, bồi dưỡng về quản
lý kinh tế [44].
- Chỉ số phát triển nhân lực HDI (Human Development Index)
Theo Liên hiệp quốc, sự phát triển nhân lực của các quốc gia và vùng
lãnh thổ khác nhau có thể so sánh với nhau bằng một thước đo chung, đó là
chỉ số phát triển con người hay chỉ số phát triển nhân lực. HDI là một chỉ tiêu
tổng hợp được xác định trên cơ sở 3 tiêu chí: mức độ phát triển kinh tế (GDP
bình quân đầu người hàng năm; chỉ tiêu về phát triển giáo dục (tỷ lệ người lớn
biết chữ và tỷ lệ đi học của các cấp giáo dục); chỉ tiêu y tế (tuổi thọ bình quân
của người dân). Một số quốc gia còn sử dụng thêm 2 tiêu chí: mơi trường tự
nhiên và hệ thống an sinh xã hội.
Giá trị HDI của các nước và lãnh thổ trên thế giới nằm trong khoảng từ
0 đến 1. Nước nào có giá trị HDI càng gần đến 1 thì mức độ phát triển NNL
rất cao, nếu nước nào có giá trị HDI dưới 0,4 thì mức độ phát triển NNL của
nước đó được coi là thấp. Chỉ số HDI của Việt Nam được thể hiện thông qua
các số liệu ở biểu 1.3 dưới đây:
17
Bảng 1.3: HDI của Việt Nam
Thứ bậc so với các
Chỉ số
giáo dục
Năm
Chỉ số HDI
nước tham gia xếp hạng
1990
0,608
74/130
1995
0,539
120/174
0,78
2000
0,671
108/174
0,83
2004
0,691
112/177
0,82
2005
0,704
108/177
0,82
2006
0,718
114/179
0,82
Nguồn: Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội X của Đảng;
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, trang 17. Số liệu năm 2006
của niên giám thống kê TCTK năm 2008.
Nước ta là một trong 10 nước có chỉ số xếp hạng HDI cao hơn xếp
hạng GDP/người trên 20 bậc, điều này chứng tỏ nước ta đã cố gắng tăng
trưởng kinh tế với phát triển KT-XH, quan tâm đến các yếu tố sức khỏe, y tế,
giáo dục… (tuổi thọ trung bình của người Việt Nam hiện nay là 72 tuổi. 90%
dân số được tiếp cận các dịch vụ xã hội). Năm 2007 chỉ số HDI của Việt Nam
là 0,750, xếp thứ 109/177 nước (thứ 6/10 nước Đông Nam Á, 23/41 nước
Châu Á). Một trong những yếu tố làm cho HDI của Việt Nam còn ở mức thấp
là do chỉ số GDP bình qn đầu người cịn q thấp. Vì vậy, mục tiêu tăng
trưởng kinh tế để sớm đưa Việt Nam ra khỏi vị trí nước kém phát triển là mục
tiêu hàng đầu. Như vậy trên thực tế, tồn tại những quốc gia có trình độ phát
triển KT-XH ở mức cao, nhưng không tương ứng với chỉ số HDI, trong khi đó
nước có trình độ phát triển thấp, nhưng chỉ số HDI lại ở mức tương đối cao
như Việt Nam. Do đó, chỉ số HDI tuy khơng phản ánh trực tiếp chất lượng
NNL, song nó cho biết khá rõ mơi trường xã hội ở đó ni dưỡng và phát
triển NNL trong tương lai.
18
- Kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn, phẩm chất đạo
đức, thái độ và phong cách làm việc của người lao động.
Khi nói tới NNL thì ngồi thể lực và trí lực của con người cũng cần phải
nói tới kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn và nắm bắt nhu cầu thị
trường của họ. Khi xem xét chất lượng NNL, khơng thể khơng nói đến đạo
đức, nhân cách, thái độ và phong cách làm việc của con người. Đây là những
phẩm chất đạo đức, tinh thần có vai trị hết sức quan trọng đối với hiệu quả
hoạt động của con người. Do vậy, phát triển NNL trong nền kinh tế thị trường,
đòi hỏi người lao động phải có hàng loạt phẩm chất cần thiết như: ý thức tổ
chức kỷ luật; tự giác trong lao động, có tinh thần trách nhiệm trong công việc,
tác phong làm việc nhanh nhẹn, chính xác, có lương tâm nghề nghiệp…Tất cả
những phẩm chất đó nằm trong phạm trù phẩm chất đạo đức của con người, tức
là đào tạo con người “vừa hồng, vừa chuyên”. Thực tế, ở nước ta lực lượng lao
động cịn hạn chế về ý thức, tác phong cơng nghiệp, thể lực và trình độ chun
mơn, nghiệp vụ; năng lực hành nghề chưa đáp ứng tốt yêu cầu của người sử
dụng lao động, nên còn một tỷ lệ đáng kể lao động khơng tìm kiếm được việc
làm thích hợp hoặc làm khơng đúng với trình độ và nghề được đào tạo. So với
các nước trong khu vực, số liệu năm 2006 cho thấy, tỉ lệ lao động có trình độ
đại học ở Việt Nam là 5%, và con số này là tương đối thấp so với tỷ lệ 13,6%
của Thái Lan, 18,2% của Malaixia, 13,2% của Philippin [46].
1.1.2. Về phát triển nguồn nhân lực
1.1.2.1. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực
Theo cách hiểu chung nhất, phát triển là làm cho biến đổi từ ít thành
nhiều, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Như vậy có thể hiểu
phát triển NNL là làm cho số lượng và chất lượng NNL ngày càng tăng
lên với một cơ cấu hợp lý. Theo tiến sỹ Nguyễn Thanh: Phát triển nguồn
nhân lực tựu chung là làm gia tăng các giá trị con người, cả giá trị vật
chất và giá trị tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như những kỹ năng
19
nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng
lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn ngày
càng tăng của sự phát triển KT - XH, của sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Đây là một khái niệm rộng bao hàm sự phát triển toàn diện các giá trị
cả vật chất lẫn tinh thần, cả trí tuệ nói chung đến kỹ năng nghề nghiệp nói
riêng trong mỗi con người. Tuy nhiên khái niệm này chưa đề cập đến vấn đề
xây dựng cơ cấu hợp lý trong toàn bộ NNL.
Như vậy có thể hiểu: Phát triển NNL là làm cho NNL biến đổi theo
chiều hướng ngay càng hoàn thiện hơn cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của nền kinh tế.
Phát triển NNL được xem xét trên giác độ phát triển về số lượng và chất
lượng NNL. Số lượng NNL được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc
độ tăng NNL. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy mô và tốc
độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì dẫn đến
quy mơ và tốc độ tăng NNL càng lớn và ngược lại.Tuy nhiên, mối quan hệ dân
số và NNL được biểu hiện sau một thời gian nhất định (vì đến lúc đó con người
mới phát triển đầy đủ, mới có khả năng lao động). Về chất lượng, NNL được
xem xét trên các mặt : trình độ sức khoẻ, trình độ văn hố, trình độ chuyên môn,
năng lực phẩm chất; cơ cấu theo lứa tuổi, giới tính và thành phần kinh tế...
Cũng giống như các nguồn lực khác, số lượng và đặc biệt là chất lượng
NNL đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc tạo ra của cải vật chất và tinh
thần cho xã hội.
1.1.2.2. Vai trò của phát triển nguồn nhân lực đối với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội
Trong mọi q trình phát triển của xã hội lồi người nguồn lực lao động
ln đóng vai trị quyết định của sự phát triển. Vai trị đó thể hiện ở các khía
cạnh sau đây:
20
- Nhân tố quyết định chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ trong từng quốc gia là
quá trình thay đổi cấu trúc của nền kinh tế dựa trên cơ sở phát huy những lợi
thế tuyệt đối và so sánh của đất nước trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế. Ở nước ta, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng tiến bộ đang được xác định là một trong những nội dung
cơ bản của quá trình CNH, HĐH đất nước.
Xét về thực chất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là q trình tiếp tục phát
triển phân cơng lao động xã hội, do đó được biểu hiện tập trung trong sự thay
đổi cơ cấu kinh tế ngành. Theo sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác
động của cách mạng khoa học - công nghệ, năng suất lao động có xu hướng
tăng lên khơng ngừng, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất vật chất, làm cho khu
vực sản xuất vật chất có xu hướng ngày càng thu hẹp, trước hết là sản xuất
nơng nghiệp và tiếp đó là sản xuất cơng nghiệp, cịn các ngành dịch vụ sẽ có
xu hướng ngày càng tăng về tỷ trọng trong GDP. Do đó q trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ đồng thời là quá trình chuyển dịch cơ cấu
lao động thơng qua sự giải phóng sức lao động từ ngành này và sự gia tăng
sức lao động trong các ngành khác.
Việc giải phóng sức lao động trong các ngành sản xuất vật chất mà
trước hết là từ nơng nghiệp là xu hướng tất yếu trong q trình cơng nghiệp
hóa, song cũng đặt ra nhiều thách thức đối với thu hút lao động nông nghiệp
dôi dư vào các ngành kinh tế khác. Quá trình chuyển đổi lao động trong
chuyển dịch cơ cấu ngành địi hỏi phải có chất lượng NNL phù hợp, do đó
tiến độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay chậm phụ thuộc rất lớn vào
công tác đào tạo và đặc biệt là đào tạo nghề cho người lao động nói chung và
lao động nơng thơn nói riêng.
Việt Nam ngày nay vẫn đang đứng trước thách thức rất lớn về NNL cho
phát triển công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là các ngành công nghệ cao. Chất
21
lượng NNL Việt Nam còn khoảng cách khá xa so với một số nước Đông Á.
Cụ thể, ta đang ở mức gần tương đương với Indonesia, nhưng thua hầu hết
các nước và lãnh thổ khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore... Đến năm 2005, lao động qua đào tạo mới chỉ đạt 24,8%. Do đó,
trong khi dư thừa rất lớn lao động phổ thơng, thì lại thiếu hụt nghiêm trọng
lao động có trình độ cao, nhất là lao động cung cấp cho các khu công nghiệp,
khu chế xuất và cho xuất khẩu lao động. Tình hình đó đang gây cản trở cho
tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Để đạt được mục tiêu đưa nước ta về cơ bản trở thành một nước công
nghiệp vào năm 2020 với cơ cấu kinh tế ngành: công nghiệp và dịch vụ trong
GDP chiếm khoảng 85 - 90%, nơng nghiệp chỉ cịn 10 - 15% thì yêu cầu đào
tạo NNL là rất lớn. Dự báo về nhu cầu đào tạo NNL Việt Nam thể hiện qua
biểu dưới đây:
Bảng 1.4: Dự báo nhu cầu đào tạo
Năm
2000
2005
2010
2020
Tỷ lệ lao động được đào
Tỷ lệ lao động được đào
tạo(%)
20
30
40
60
tạo nghề(%)
13,4
18-19
26,6
44
Nguồn: Phát triển NNL chất lượng cao cho sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, tạp chí Nơng nghiệp và phát triển nông thôn, tháng 7/2005.
Như vậy, vấn đề cơ bản, có tính chiến lược trong phát triển NNL là phải
tăng nhanh về số lượng lao động được đào tạo. Đặc biệt chú trọng đào tạo
nghề, đảm bảo cơ cấu đào tạo hợp lý giữa đại học, cao đẳng trở lên so với
trung học chuyên nghiệp và đào tạo nghề, đồng thời nâng cao chất lượng
NNL với tiêu chuẩn về trình độ chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất
và năng lực phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế tri thức, có như thế mới rút
22
ngắn được khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới, góp
phần đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, đảm bảo phát
triển kinh tế nhanh và bền vững.
- Nhân tố chủ yếu để tăng năng suất lao động, thúc đẩy phát triển
kinh tế bền vững với tốc độ cao.
Phát triển kinh tế là tăng trưởng kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu KTXH theo hướng tiến bộ và nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư. Phát triển
kinh tế có được khi các hoạt động sản xuất kinh doanh được duy trì và phát
triển khơng ngừng, do vậy phụ thuộc vào nhiều yếu tố như vốn, khoa học công nghệ, NNL, cơ cấu kinh tế, thể chế kinh tế…. và sự kết hợp giữa chúng
với nhau. Trong số các nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển
kinh tế thì NNL có vai trị đặc biệt quan trọng vì trong mọi hoạt động của con
người, đặc biệt là hoạt động lao động sản xuất, nhân tố con người ln là yếu
tố quyết định, có tính sáng tạo và là nguồn lực khơng cạn kiệt.
Vai trị quyết định của NNL trong phát triển kinh tế thể hiện ở chỗ, NNL
là nguồn cung cấp lao động sống cho nền kinh tế, do đó là yếu tố quyết định hiệu
quả sử dụng của các yếu tố khác. Tác động của NNL tới phát triển kinh tế thể
hiện trên cả hai phương diện: Tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và tái sản
xuất theo chiều sâu. Để thực hiện tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng, bên cạnh
sự gia tăng về tư liệu sản xuất thì ln cần tới sự gia tăng của NNL, trong đó
NNL với tư cách là lao động sống có vai trị cải tử hồn sinh đối với lao động
quá khứ trong các tư liệu sản xuất và biểu hiện cụ thể của vai trò đó là khơng thể
mở rộng sản xuất theo chiều rộng nếu thiếu NNL phù hợp.
Trong tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu, khoa học - cơng nghệ có vai
trị động lực vì chỉ trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học - cơng nghệ
hiện đại thì mới có thể tạo ra năng suất lao động xã hội cao từ đó thúc đẩy
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, bản thân các thành tựu khoa học - công nghệ
cũng không thể tự động tạo ra năng suất lao động cao và từ đó tạo ra tăng
23
trưởng kinh tế. Chủ thể của quá trình này vẫn là con người lao động với thể
lực, trình độ chuyên môn tay nghề cũng như ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong
làm việc phù hợp. Việc phát huy vai trị động lực của khoa học - cơng nghệ
phụ thuộc chủ yếu vào số lượng và chất lượng của NNL hiện có, do đó thực
tiễn phát triển kinh tế thế giới cho thấy, các quốc gia phát triển đều quan tâm
tới phát triển NNL, đặc biệt thơng qua các chính sách tổng thể về phát triển
con người, mà biện pháp cơ bản và chủ yếu là phát triển giáo dục đào tạo.
- Thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và phát triển kinh
tế tri thức.
Trong nền kinh tế công nghiệp, đặc biệt là nền kinh tế tri thức, NNL có
trình độ cao trở thành nhân tố quyết định đối với tăng trưởng và phát triển kinh
tế của một quốc gia và giáo dục đào tạo trở thành ngành sản xuất vốn tri thức.
Trong cuộc cách mạng cơng nghiệp trước đây, máy móc thay thế lao động cơ
bắp của con người; cịn ngày nay máy móc giúp con người trong cả lao động trí
óc. Sức mạnh trí tuệ, sức sáng tạo của con người được nhân lên gấp bội. Tri thức
trở thành yếu tố quyết định nhất của việc tạo ra của cải, việc làm, nâng cao năng
lực cạnh tranh. Tri thức trở thành nguồn tài sản vơ hình, quan trọng hơn cả tài
ngun, sức lao động. Lực lượng sản xuất xã hội loài người từ dựa chủ yếu vào
tài nguyên thiên nhiên đang chuyển mạnh dựa vào năng lực trí tuệ của con
người. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế sử dụng có hiệu quả tri thức cho phát
triển KT-XH, bao gồm cả việc khai thác kho tri thức toàn cầu, cũng như làm chủ
và sáng tạo tri thức cho những nhu cầu của riêng mình.
Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội X, Đảng ta xác định rằng: Tranh thủ
cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của nước ta để
rút ngắn qua trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố
quan trọng của nền kinh tế và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa [10, tr.87].
24
Để có thể phát triển kinh tế tri thức cần phải có NNL với chất lượng cao
cho nên cần đổi mới giáo dục đào tạo, cải cách triệt để nền giáo dục theo
chuẩn mực quốc tế, nhằm đào tạo những con người năng động sáng tạo, thích
nghi với sự phát triển kinh tế tri thức. Cải cách triệt để nền giáo dục, phát
triển NNL chất lượng cao là yếu tố chi phối nhiều nhất đối với năng lực sang
tạo và tốc độ đổi mới. Con người phải biết tự đào tạo, ln tiếp thu tri thức
mới, có năng lực sáng tạo, thường xuyên đổi mới cách nghĩ, cách làm thì mới
có thể thích nghi và làm chủ được trong nền kinh tế tri thức.
Giáo dục góp phần vào việc tạo ra tri thức. Vì vậy, giáo dục là ngành
sản xuất cơ bản nhất trong nền kinh tế tri thức. Để giáo dục thực sự là quốc
sách hàng đầu, thì trước hết nhà nước phải có chính sách trọng dụng nhân tài,
thực sự coi "hiền tài là nguyên khí quốc gia", tạo điều kiện làm việc thuận lợi,
phát huy năng lực của những cán bộ giỏi, đầu đàn trong các lĩnh vực khoa học
công nghệ, quản lý kinh doanh... Bên cạnh với nâng cao chất lượng giáo dục,
cần phát triển nhanh cả quy mô giáo dục.
Trong giáo dục cần cải cách triệt để, sâu sắc cả về mục tiêu, nội dung,
phương pháp dạy học, hệ thống giáo dục, phương thức tổ chức quản lý giáo dục
- đào tạo. Chuyển trọng tâm của giáo dục từ trang bị kiến thức sang bồi dưỡng
rèn luyện phương pháp tư duy, phương pháp đặt vấn đề và giải quyết vấn đề,
năng lực sáng tạo, khả năng tự đào tạo, thích nghi. Chuyển từ mơ hình giáo dục
truyền thống sang mơ hình giáo dục mới; hệ thống học tập suốt đời, phát triển
nghề nghiệp liên tục, theo đó nhà trường đào tạo những kỹ năng cơ bản để người
học ra trường vừa lao động vừa học tập suốt đời. Phát triển hệ thống học tập suốt
đời và xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để bồi dưỡng
nhân lực cho CNH, HĐH rút ngắn dựa trên nền tảng của tri thức.
- Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, ngành, vùng và toàn bộ
nền kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại.
Nguồn lực lao động có vai trị khác với các nguồn lực khác ở chỗ nó
vừa là nhân tố tạo cung vừa là nhân tố tạo cầu, đồng thời cũng là nhân tố trực
25
tiếp điều tiết quan hệ cung – cầu và gắn bó với các chủ thể KT-XH do con
người tạo ra.
Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh
tranh là tất yếu, do đó nâng cao sức cạnh tranh là nhiệm vụ thường xuyên, liên
tục của từng chủ thể sản xuất kinh doanh, từng ngành hàng, địa phương và
toàn bộ nền kinh tế. Sức cạnh tranh phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô
vốn, trình độ ứng dụng khoa học - cơng nghệ, trình độ tổ chức quản lý sản
xuất kinh doanh, NNL, các chính sách của chính phủ…, trong đó NNL có vai
trị rất quan trọng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý, khoa học, các chuyên
gia đầu đàn và công nhân kỹ thuật.
Thực tế cho thấy, để nâng cao sức cạnh tranh cần phải có NNL với số
lượng, chất lượng và cơ cấu nhất định và có chế độ đào tạo, sử dụng, đãi ngộ
phù hợp. Các doanh nghiệp, ngành, vùng, nền kinh tế thành công và đứng
vững trong cạnh tranh trong nước và quốc tế ngày nay đều là các chủ thể đã
và đang quan tâm tới đầu tư phát triển NNL. Lợi thế cạnh tranh từ giá cả sức
lao động thấp đang có xu hướng giảm xuống, làm cho các doanh nghiệp
không thể bàng quan với vấn đề NNL của mình nếu muốn đứng vững trong
cạnh tranh, do đó việc các chủ thể sản xuất kinh doanh tự thực hiện đào tạo
NNL cho mình, kết hợp với các cơ sở đào tạo để phát triển NNL, việc ứng
dụng các phương pháp quản trị hiện đại nhằm phát huy yếu tố con người
trong doanh nghiệp… đang trở thành những xu thế phổ biến trong phát triển
doanh nghiệp hiện đại.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh hội nhập, thị trường sức lao động được mở
rộng không ngừng vượt khỏi biên giới quốc gia. Để xuất khẩu sức lao động có
hiệu quả, vừa giải quyết vấn đề việc làm, thu nhập cho người lao động, tăng
nguồn ngoại tệ cho quốc gia, cần phải có biện pháp nâng cao chất lượng
NNL cho xuất khẩu sức lao động. NNL Việt Nam tuy có một số ưu điểm
nhưng có khơng ít hạn chế, nổi bật nhất là chưa phù hợp với thị trường lao