Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận cao họcvai trò công tác tư tưởng trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.4 KB, 30 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN : NGUYÊN LÝ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
Đề tài :

VAI TRỊ CƠNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG Q TRÌNH
CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY


MỤC LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DNNN
DN
NLĐ

Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp
Người lao động


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra từ Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã và đang diễn ra tốt đẹp. Trong công cuộc
đổi mới này, vấn đề phát triển một nền Kinh tế thị trường với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó kinh tế
Nhà nước đóng vai trị chủ đạo là một mục tiêu hết sức quan trọng. Thực tế
cho thấy, qua hơn 16 năm phát triển kinh tế theo đường lối này, nền kinh tế
nước ta đã bước đầu thu được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ, mang dấu


hiệu của một nền kinh tế thị trường . Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường của
chúng ta vẫn còn là một nền kinh tế thị trường ở dạng sơ khai và trước mắt
cịn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách.
Một trong những khó khăn, bất ổn mà chúng ta cần phải nói tới đó là sự
yếu kém của khu vực kinh tế Nhà nước nói chung, mà nói riêng là là hệ thống
các doanh nghiệp Nhà nước.
Có thể nói trong điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, khi hiệu quả sản
xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống cịn của mỗi doanh nghiệp thì các
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước đã thực sự bộc lộ những yếu
kém của mình như: cơng nghệ lạc hậu, tài sản manh mún, cơ chế quản lý cứng
nhắc, trình độ quản lý thấp kém, tinh thần người lao động sa sút.... Nói chung
phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đều lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì
trệ, làm ăn cầm chừng.
Nhận thức được điều đó, trong những năm qua Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Khu vực
kinh tế Nhà nước như: cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước, sắp
xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, bán khoán, cho thuê, hay giải thể các
doanh nghiệp làm ăn khơng hiệu quả... trong đó cổ phần hố được coi là giải
pháp hàng đầu, có khả năng mang lại lợi ích hài hồ cho Nhà nước cũng như
người lao động.
4


Thủ tướng Chính phủ vừa có Chỉ thị số 04/CT-TTg ngày 02/02/2017
về việc đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới DNNN giai đoạn 2016-2020. Chỉ thị
nêu rõ, sắp xếp, đổi mới DNNN dù đã đạt được những kết quả nhất định,
song nhìn chung tiến độ sắp xếp, đổi mới cịn chậm và còn các vấn đề lý
luận, thực tiễn cần nghiên cứu giải quyết. Đặc biệt, Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương 5 khóa XN (diễn ra trong tháng 5 năm 2017) cũng đã bàn về sắp
xếp, đổi mới DNNN. Điều này cho thấy, Đảng, Nhà nước Việt Nam rất quan

tâm đến việc làm cho DNNN hoạt động hiệu quả, thực sự là xương sống nền
kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế hiện nay việc tiến độ thực hiện cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước, trong đó có thành phố Hà nội chưa đạt
được những mục tiêu đã đề ra. Vấn đề này có nhiều nguyên nhân, trong đó
nguyên nhân cơ bản nhất là do nhận thức của một số cán bộ, lãnh đạo trong
các doanh nghiệp nhà nước chưa có sự thống nhất trong nhận thức về tầm
quan trọng của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; chưa coi trọng quy luật
kinh tế khách quan của thị trường, coi kinh tế thị trường là của riêng Chủ
nghĩa tư bản; chưa nhận thức được lợi ích của việc cổ phần hóa, nhất là lợi
ích đối với người lao động trong các doanh nghiệp thuộc diện sáp nhập, cổ
phần hóa. Bên cạnh đó thực tế cũng cho thấy thấy ở từng địa phương có
những cách làm khác nhau trong thực hiện nhiệm vụ cổ phần hóa doanh
nghiệp. Địa phương nào làm tốt cơng tác tư tưởng thì khi thực hiện kế hoạch
cổ phần hóa sẽ gặp thuận lợi, ngược lại thì sẽ gặp khó khăn. Chính vì vậy, để
tìm hiểu rõ thêm về vấn đề này nên em chọn đề tài “Vai trị cơng tác tư
tưởng trong q trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở thành phố
Hà Nội hiện nay” để làm tiểu luận học phần nguyên lý cơng tác tư tưởng
của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Nghiên cứu vai trị của cơng tác tư tưởng trong thực hiện chính sách cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở thành phố Hà Nội hiện nay.
5


2.2. Nhiệm vụ
Làm rõ cơ sở lý luận về vai trị của cơng tác tư tưởng thực hiện chính
sách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; những ưu điểm và hạn chế về cơng
tác tư tưởng trong q trình thực hiện chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước ở thành phố Hà Nội; đánh giá vai trị của cơng tác tư tưởng đối với

kết quả cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở thành phố Hà Nội hiện nay;
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Cơng tác tư tưởng trong thực hiện chính sách cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước ở thành phố Hà Nội
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Công tác tư tưởng trong các doanh nghiệp cổ phần hóa trên địa bàn
thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Tiểu luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và nhà nước về công tác tư
tưởng của Đảng, chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Tiểu luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử trong nghiên cứu tư tưởng, lý luận và cơng tác tư
tưởng.
- Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp; nghiên cứu văn bản và
tổng kết thực tiễn để đánh giá vai trị cơng tác tư tưởng trong thực hiện chính
sách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở thành phố Hà Nội
5. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết.

6


NỘI DUNG
Chương1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRỊ CƠNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG CỔ

PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1. Vai trị của cơng tác tư tưởng trong cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước
1.1.1. Khái niệm công tác tư tưởng
Chúng ta đều biết công tác tư tưởng xuất hiện từ khi xã hội loài người
phân chia thành giai cấp và theo đó xuất hiện hệ tư tưởng. Cơng tác tư tưởng
ra đời do nhu cầu hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của một giai
cấp nhất định trong xã hội. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, các giai cấp
thống trị thông qua hoạt động của đội ngũ các nhà tư tưởng và hệ thống các
thiết chế tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp mình thành hệ tư
tưởng thống trị trong xã hội. Ngược lại các giai cấp bị trị có thể thơng qua các
nhà tư tưởng của giai cấp mình để hình thành truyền bá hệ tư tưởng của mình
qua nhiều con đường khác nhau (hợp pháp hay không hợp pháp, công khai
hay bí mật…) đến quần chúng.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng là vấn đề cốt lõi của đời sống tinh
thần của con người, tư tưởng ln giữ vai trị chủ đạo đầu tiên chi phối sự suy
nghĩ hành động của con người. Bác Hồ luôn coi công tác tư tưởng là sự tác
động lên trạng thái tư tưởng, tinh thần, tình cảm của những đối tượng khác
nhau nhằm thúc đẩy cách mạng tiến lên. Tư tưởng đúng đắn, thông suốt, lập
trường giai cấp vững vàng luôn luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu tạo nên
lòng quyết tâm, ý chí kiên cường của chiến sĩ cách mạng, là tiền đề là cơ sở
để hành động thống nhất, mạnh mẽ có hiệu quả. Bác Hồ coi cơng tác tư tưởng
là mặt trận và cán bộ đảng viên của Đảng là chiến sĩ, các cán bộ tư tưởng
chuyên trách là chiến sĩ xung kích trên mặt trận quan trọng hàng đầu này.
Do đó, sự tác động của chủ thể tư tưởng đến các quan hệ tư tưởng và
quá trình tư tưởng nhằm đạt mục tiêu đề ra đó là hoạt động tư tưởng hay công
7


tác tư tưởng. Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp,

một chính Đảng nhằm hình thành phát triển truyền bá hệ tư tưởng trong quần
chúng hành động vì lợi ích của chủ thể tư tưởng.
Như vậy có thể hiểu: cơng tác tư tưởng trong cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước ở nước ta hiện nay là hoạt động quan trọng do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo có nhiệm vụ bảo vệ, phát triển, tuyên truyền, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước; thơng tin có định hướng của Đảng và nhà nước
trên lĩnh vực kinh tế.
1.1.2. Vai trị cơng tác tư tưởng
Trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, công tác tư tưởng có
vai trị hết sức quan trọng: góp phần xây dựng cương lĩnh, đường lối cách
mạng đúng đắn của Đảng; góp phần xây dựng Đảng vừng mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức; mang lại nhân tố tự giác cho quần chúng tham gia
sự nghiệp cách mạng trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội.
Nghị quyết Trung ương năm khoá X của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ:
“Công tác tư tưởng, lý luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng
trong toàn bộ hoạt động của Đảng, là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi
đắp nền tảng chính trị của chế độ, tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ
chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, khẳng định và nâng cao
vai trò tiên phong của Đảng về chính trị, lý luận, trí tuệ, văn hố và đạo
đức; thể hiện vai trò đi trước, mỏ đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc .- Công tác tư tưởng trước hết nhằm xây dựng tổ chức cơ sở
đảng trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao và không ngừng nâng
cao năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.
- Cơng tác tư tưởng góp phần quan trọng thực hiện các nhiệm vụ
kinh tế - xã hội thông qua tổng kết thực tiễn, bổ sung hồn thiện các chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Đồng
thời, quán triệt sâu sắc các quan điểm đó trong đội ngũ cán bộ, đảng viên
và nhân dân, làm cho họ vừa nghiêm túc chấp hành, vừa thực hiện một
cách sáng tạo.
8



- Cơng tác tư tưởng trong trong thực hiện chính sách cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước là hoạt động có mục đích của Đảng Cộng sản và Nhà nước,
nhằm phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, tạo sự đồng
thuận trong xã, cổ vũ động viên mọi người hành động chủ động, tích cực, tự
giác, sáng tạo để hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
1.2. Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Có nhiều quan điểm quan niệm về cổ phần hóa DNNN, tuy nhiên các
quan điểm đưa ra có độ dài, ngắn cũng như ngôn từ khác nhau. Song chung
quy lại đều quan niệm rằng CPH là việc chuyển đổi hình thức sở hữu, cụ thể:
Cổ phần hóa về thực chất là quá trình chuyển đổi những doanh nghiệp
mà Nhà nước khơng cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều
chủ sở hữu để huy động vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài,
nâng cao năng lực tài chính, đổi mới cơng nghệ, đổi mới phương thức quản lý
nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc các doanh nghiệp nhà nước
được chuyển đổi thành các cơng ty cổ phần tại Việt Nam. Hình thức này thực
hiện nhằm giải quyết mâu thuẫn với các bộ phận cán bộ trong doanh nghiệp.
Đồng thời, nó cũng giảm bớt những lo ngại của người dân về sự tăng trưởng
của khu vực kinh tế tư nhân.
Cổ phần hóa là tài sản của doanh nghiệp sẽ được bán cho các cán bộ
công nhân trong đơn vị dưới dạng cổ phần, còn lại do nhà nước nắm giữ.
Phần cổ phần do nhà nước nắm giữ có thể ít hay nhiều, có thể 0% hoặc 100%
tùy từng doanh nghiệp. Khi người lao động có cổ phần trong doanh nghiệp sẽ
góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho
các DN sau cổ phần hóa có khả năng cạnh tranh với các DN thuộc các thành
phần kinh tế khác, giúp cho người lao động trong Công ty cổ phần thực sự
làm chủ DN, thúc đẩy người lao động hăng say làm việc, góp phần vào việc
tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả DN.

9


Bản chất cổ phần hóa: cổ phần hóa chính là phương thức thực hiện xã
hội hóa sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ sở hữu Nhà nước trong
DN thành CTCP với nhiều chủ sở hữu để tạo ra mơ hình DN phù hợp với nền
kinh tế thị trường.
1.3. Yêu cầu của công tác tư tưởng trong cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước.
1.3.1. Tuyên truyền nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước
về đường lối phát triển kinh tế
Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3, khóa IX, việc sắp xếp, đổi
mới các DNNN phải được tiến hành theo các nguyên tắc sau:
- Kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất
nước. DNNN (gồm DNNN giữ 100% vốn và DNNN giữ cổ phần chi phối)
phải không ngừng dược đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí
then chốt (trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng dể Nhà nước
định hướng và điều tiết vĩ mơ, làm lực lượng nịng cốt, góp phần chủ yếu để
kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế. Việc xem
xét, đánh giá hiệu quả của DNNN phải có quan điểm tồn diện cả về kinh tế,
chính trị, xã hội; trong đó lấy tỷ suất sinh lời trên vốn làm một trong những
(tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh, lấy
kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá
hiệu quả của doanh nghiệp cơng ích.
- Kiên quyết điều chỉnh để DNNN có cơ cấu hợp lý, tập trung vào
những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn
đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỷ trọng
lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. Đại bộ phận

DNNN phải có quy mơ vừa và lớn, công nghệ tiên tiến; một bộ phận cần thiết
có quy mơ nhỏ để kinh doanh những sản phẩm, dịch vụ thiết yếu, nhất là ở
vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chuyển DNNN sang hoạt động
10


theo chế độ cơng ty; đẩy mạnh cổ phần hóa những DNNN mà Nhà nước
không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ
bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN. Chính phủ quyết định khơng bán
hồn tồn các doanh nghiệp của mình cho các các tổ chức, cá nhân ngoài nhà
nước. Thay vào đó, Chính phủ tiến hành chuyển đổi các doanh nghiệp này
thành các cơng ty cổ phần.
Tóm lại ổ chức, hướng dẫn các hoạt động, cung cấp nội dung thông tin,
tuyên truyền cho các cơ sở Đảng, chính quyền, doanh nghiệp và người lao động
về nhiệm vụ kinh tế của Đảng và Nhà nước.
1.3.2. Tuyên truyền về mục tiêu bảo đảm hài hịa lợi ích Nhà nước,
doanh nghiệp và người lao động
- Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giúp cắt giảm lượng lớn chi phí đền
bù thua lỗ mà nhà nước phải chịu từ các doanh nghiệp kinh doanh của mình.
- Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tạo địn bẩy giúp nhân viên đơn
vị đạt hiệu suất cao hơn trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Cụ thể, người
lao động sẽ được quy ra lợi ích cá nhân, ứng với công sức mà họ bỏ ra thay
cho việc hoạt động vì mục đích chung như trước kia.
- Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước huy động nguồn vốn cho nhân
dân và người lao động, giảm gánh nặng tài chính lên các cơ quan nhà nước.
- Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sẽ làm rõ nghĩa vụ của người
lãnh đạo và gắn chặt lợi ích của nhân viên vào đơn vị. Vậy nên, trách nhiệm
trong công việc của các cá nhân sẽ tăng lên, giảm bớt sự phụ thuộc vào vốn
của nhà nước.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giúp cắt giảm lượng lớn chi phí

đền bù thua lỗ mà nhà nước phải chịu từ các công ty kinh doanh của mình
Với việc thực hiện tốt cơng tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích quyền,
lợi ích từ việc cổ phần hóa tới từng CBCNV, người lao động; sự phối hợp chặt
chẽ giữa Ban Tun giáo, Cơng đồn các doanh nghiệp các bộ phận chuyên
môn trong công tác tuyên truyền, giúp mọi người lao động nhận thấy: cổ phần
11


hóa doanh nghiệp Nhà nước là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với định
hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của
DNNN, chủ trương này cịn giúp cơng nhân lao động trực tiếp tại các doanh
nghiệp trở thành cổ đông, tức là đồng chủ sở hữu thực sự của xí nghiệp, cơng
ty cổ phần, tạo động lực thúc đẩy phát triển mạnh mẽ sự nghiệp cơng nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước.

12


Chương 2
THỰC TRẠNG VAI TRỊ CƠNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG Q
TRÌNH CỔ PHẦN HĨA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
2.1. Thực trạng quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
trên địa bàn thành phố Hà Nội
Thủ đô Hà Nội là một trong những địa phương có nhiều doanh nghiệp
nhà nước. Trong khn khổ đổi mới các doanh nghiệp nhà nước, q trình cổ
phần hố doanh nghiệp nhà nước đã được Thành phố quan tâm chú ý. Để thúc
đẩy việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, trong những năm qua Thành
phố đã chú trọng vận dụng sáng tạo và linh hoạt các chủ trương chính sách
chung về cổ phần hoá vào điều kiện cụ thể của mình. Các kết quả đạt được

như sau:
- Thơng qua bán cổ phần, đã huy động từ các nguồn vốn xã hội làm
tăng quy mơ vốn bình qn 59% so với trước khi chuyển đổi.
- Thực hiện tái cấu trúc lao động và lành mạnh hóa tình hình tài chính
doanh nghiệp, Thành phố đã giải quyết 2.921 lao động dôi dư với kinh phí chi
trả là 80 tỷ 766 triệu đồng (tính đến 31/10/2006) và xử lý hàng trăm tỷ đồng
đối với các khoản nợ khó địi và tài sản thanh lý hoặc khơng cần dùng.
- Góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán ở thành
phố thông qua 20 công ty nhà nước đã cổ phần của thành phố tham gia niêm
yết trên sàn giao dịch chứng khoán.
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh so với trước khi chuyển đổi,
thể hiện trên các mặt chủ yếu về tăng vốn điều lệ, doanh thu, tỷ suất lợi
nhuận, thu nhập của người lao động,...
- Thực hiện đồng bộ nhiệm vụ, giải pháp, thời gian qua, thành phố Hà
Nội tập trung sắp xếp lại, xử lý nhà, đất phục vụ cơng tác cổ phần hóa doanh
nghiệp thuộc thành phố theo quy định và thu được những kết quả rõ nét.
13


Đáng chú ý, thời gian qua, thành phố đã chỉ đạo rất quyết liệt cơng tác
cổ phần hóa và thối vốn tại doanh nghiệp nhà nước theo Quyết định số
1232/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, thực hiện cơng khai,
minh bạch thơng tin về doanh nghiệp thối vốn giúp các nhà đầu tư tích cực
tham gia mua cổ phần tại các doanh nghiệp khi nhà nước thoái vốn. Hầu hết
các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa đều sản xuất, kinh doanh hiệu
quả hơn, nộp ngân sách và thu nhập của người lao động được nâng lên. Theo
thống kê, đến nay, thành phố đã quyết định chuyển sang công ty cổ phần
56/56 doanh nghiệp nhà nước theo kế hoạch giai đoạn 2011-2015.
Sau khi chuyển sang công ty cổ phần, trong giai đoạn 2016-2020, thành
phố tiếp tục thực hiện các bước trong quy trình cổ phần hóa để hồn thành

quyết tốn hậu cổ phần, chính thức bàn giao doanh nghiệp nhà nước sang
công ty cổ phần; trong giai đoạn 2016-2019, thành phố đã bàn giao 52/56
doanh nghiệp. Thành phố sẽ tiếp tục tập trung giải quyết vướng mắc hậu cổ
phần hóa giai đoạn trước năm 2011 tại 4 doanh nghiệp.
Đối với kế hoạch cổ phần hóa giai đoạn 2016-2020, UBND thành phố
đã ban hành quyết định thành lập Ban Chỉ đạo cổ phần hóa và triển khai cơng
tác cổ phần hóa tại 15 doanh nghiệp. Đến hết năm 2019, đã hồn thành
phương án cổ phần hóa: Tổng cơng ty Thương mại Hà Nội; phê duyệt 4
phương án sử dụng các cơ sở nhà, đất sau cổ phần hóa đối với Tổng công ty
Thương mại Hà Nội và 3 công ty TNHH một thành viên, Môi trường đô thị
Hà Nội, Nước sạch Hà Đơng, Điện ảnh Hà Nội. Trong đó đã rà soát 254 địa
điểm nhà đất, thu hồi 73 địa điểm, giao doanh nghiệp tiếp tục sử dụng sau cổ
phần hóa 181 địa điểm.
Đối với các doanh nghiệp cịn lại, UBND thành phố tiếp tục chỉ đạo
triển khai các bước trong quy trình cổ phần hóa như: Tun truyền, phổ biến
chính sách chế độ về cổ phần hóa; thành lập Tổ giúp việc BCĐ cổ phần hóa;
phân cơng nhiệm vụ thành viên BCĐ cổ phần hóa; xây dựng dự tốn chi phí
cổ phần hóa; lựa chọn đơn vị tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp; rà soát,
14


kiểm tra hiện trạng, phê duyệt phương án sắp xếp, xử lý nhà, đất theo quy
định tại Nghị định số 167/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ...
Về thối vốn, đã hồn thành thoái vốn nhà nước đầu tư tại 4/34 doanh
nghiệp (các cơng ty cổ phần: Xích líp Đơng Anh, Nhựa Hà Nội, Điện cơ
Thống Nhất, Quản lý và xây dựng đường bộ 1 Hà Tây), tổng giá trị thực hiện
thoái vốn theo sổ sách kế toán là 161 tỷ đồng, giá trị thực tế thu về 873 tỷ
đồng, chênh lệch tăng 712 tỷ đồng. Cùng với đó, hồn thành thối vốn đầu tư
của doanh nghiệp nhà nước tại 24/67 doanh nghiệp, tổng giá trị thực hiện
thoái vốn theo sổ sách kế toán là 182 tỷ đồng, giá trị thực tế thu về 572 tỷ

đồng, chênh lệch tăng 390 tỷ đồng.
Bên cạnh những kết quả đó đạt được, q trình thực hiện cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội cũng bị các yếu tố sau làm cản
trở như:
Các báo cáo tổng kết kinh nghiệm và các nghiên cứu hiện có về cổ
phần hố đều đã nêu ra một số hạn chế cơ bản làm giảm tốc độ cổ phần hố.
Trong số đó nổi bật nhất là những hạn chế sau:
Một là, những trở ngại từ phía nhận thức, thái độ và hành vi do dự chần
chừ từ phía đội ngũ lãnh đạo quản lý doanh nghiệp. Trong Hội thảo “CPH
DNNN- Thực trạng và Giải pháp” do website Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ
Xây dựng phối hợp tổ chức, hầu hết các ý kiến tham luận đều thống nhất về
vướng mắc chủ yếu gây cản trở tiến trình CPH DNNN, đó là: Thái độ do dự,
chần chừ của một số lãnh đạo doanh nghiệp (chứ không phải từ phía người
lao động); Các nghiên cứu hiện có đều nêu rõ khó khăn, trở ngại cơ bản đối
với cổ phần hoá là ở tâm lý sợ bị giảm hoặc mất lợi ích của cán bộ lãnh đạo
quản lý doanh nghiệp. Xem xét kỹ vấn đề này thấy tâm lý lo sợ như vậy có
nguyên nhân từ cơ chế quản lý và dư luận xã hội.
Cụ thể là cơ chế quản lý DNNN về cơ bản vẫn đem lại nhiều đặc
quyền, đặc lợi cho vị trí lãnh đạo quản lý doanh nghiệp trong khi đó cơ chế
kiểm tra, giám sát và cơ chế ràng buộc trách nhiệm đối với người quản lý có
15


nhiều vấn đề chưa rõ ràng, minh bạch. Điều này biểu hiện rõ ở việc khơng ít
cán bộ lãnh đạo quản lý doanh nghiệp lo sợ bị mất lợi ích và quyền lợi thiết
thân khác nếu doanh nghiệp bị cổ phần hoá. Những cán bộ này lo sợ bị mất
chức, mất quyền, mất lợi ích kinh tế gắn với vị trí của mình trong doanh
nghiệp. Những người này đã cố tình trì hỗn, kéo dài thời gian triển khai chủ
trương cổ phần hố doanh nghiệp.
Tâm lý này khơng chỉ xuất hiện ở những cán bộ lãnh đạo quản lý doanh

nghiệp nhỏ đang thua lỗ “được” cổ phần hố mà cịn biểu hiện cả ở những
doanh nghiệp lớn. Khó khăn ở việc cổ phần hoá những doanh nghiệp lớn với
số lượng vốn hàng trăm, hàng ngàn tỉ đồng và đang hoạt động “bình thường”
thậm chí có lãi: cán bộ lãnh đạo, quản lý đã quá quen với cơ chế quản lý kinh
doanh cũ.
Tại sao phải cổ phần hố? Được gì và mất gì? Là những câu hỏi mà
nếu khơng trả lời thoả đáng sẽ là những trở ngại rất lớn cho cổ phần hoá cả
những doanh nghiệp lớn đang hoạt động bình thường. Phải nói rằng, những
khó khăn trở ngại này rất khó được nhận thức rõ ràng, rất khó vạch mặt chỉ
tên nên lại càng khó khắc phục một cách triệt để. Trên thực tế, thật hiếm có
một cán bộ quản lý nào cơng khai thừa nhận mình có tâm lý lo sợ bị mất lợi
ích khi bị cổ phần hố doanh nghiệp mà mình đang được nhà nước uỷ quyền
quản lý. Tâm lý lo ngại bị cổ phần hoá cịn chịu tác động từ phía dư luận xã
hội. Mặc dù quy định pháp luật khẳng định sự bình đẳng của các doanh
nghiệp, nhưng vẫn có sự kỳ thị và phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà
nước và các loại hình doanh nghiệp khác. Trên thực tế DNNN vẫn được ưu
đãi về quyền sử dụng đất, được vay vốn ngân hàng với lãi suất ưu đãi mà
không phải thế chấp, được khoanh nợ, xoá nợ khi gặp rủi ro, được dễ dàng
làm các thủ tục hành chính, thậm chí được dễ dàng miễn thuế. Do đó, một số
cán bộ lãnh đạo quản lý doanh nghiệp cho rằng việc thực hiện cổ phần hố có
nghĩa là chấp nhận từ bỏ các đặc quyền, đặc lợi, các ân huệ, là chấp nhận
cạnh tranh khốc liệt trên thị trường. Liên quan tới đội ngũ lãnh đạo quản lý
16


doanh nghiệp là tâm lý sợ trách nhiệm. Một số cán bộ lãnh đạo quản lý có tâm
lý sợ trách nhiệm khi xác định tài sản: nếu có thất thốt tài sản, nếu có nợ thì
ai chịu trách nhiệm.
Hai là, những khó khăn từ phía cơ chế và các biện pháp kỹ thuật liên
quan tới định giá tài sản và huy động vốn. Mặc dù cổ phần hoá là quan điểm

và chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà
nước, nhưng trên thực tế khơng phải là khơng có những vấn đề về nhận thức
đối với quan điểm và chính sách cổ phần hố. Vẫn có nhận thức sai rằng cổ
phần hố là mục tiêu, do đó có cách làm lấy được, làm bằng được cổ phần hoá
bất chấp hiệu quả của quản lý kinh tế. Cần thống nhất quan điểm rằng cổ phần
hoá chỉ là một trong công cụ quản lý tài sản của Nhà nước mà khơng phải là
mục tiêu. Do đó, một mặt, nếu cổ phần hố khơng đem lại hiệu quả kinh tế-xã
hội thì khơng cổ phần hố. Mặt khác, phải tìm cách để làm sao cổ phần hố
phải đem lại hiệu quả kinh tế-xã hội. Cần thống nhất cổ phần hố khơng phải
là tư nhân hố, do đó cần tạo điều kiện để người lao động mua được cổ phiếu
với giá ưu đãi, qua đó giao quyền quản lý cho người lao động.
Vẫn còn tranh cãi giữa một bên là quan điểm phải duy trì vai trị của
nhà nước và một bên là phải tập trung nâng cao hiệu quả kinh doanh. Điều
này liên quan tới một vấn đề thực tế là quản lý theo kiểu nhà nước bao cấp là
khơng có hiệu quả trong khi đó quản lý tư nhân lại có hiệu quả kinh tế cao.
Điều này cũng có nghĩa là nếu cố duy trì vai trị chủ đạo của nhà nước
đối với doanh nghiệp theo kiểu cũ thì khó có thể tạo ra chuyển biến về mặt
năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhưng nếu chấp nhận việc tư nhân quản lý để có hiệu quả kinh doanh thì vai
trị của nhà nước sẽ như thế nào trong doanh nghiệp cổ phần hoá? Điều này
liên quan tới nguy cơ “cổ phần hoá” bị biến thành “tư nhân hoá”. Vấn đề khó
khăn về nhận thức trên cấp độ quan điểm chính sách này đòi hỏi phải tiếp tục
đổi mới tư duy quản lý. Nếu lợi ích tư nhân tăng mà thu ngân sách cho nhà
nước cũng tăng và lợi ích người lao động cũng tăng thì cổ phần hố đó nếu có
mang tính tư nhân hố vẫn là có lợi, cần khuyến khích!
17


Nếu duy trì vai trị của nhà nước mà kinh doanh khơng có hiệu quả thì
cũng khơng có tác dụng tích cực gì thậm chí cịn làm giảm vai trị và thất

thoát tài sản của nhà nước. Nhà nước chỉ cần và nên giữ vai trò chủ đạo (nắm
giữ trên 50% cổ phiếu) đối với những doanh nghiệp nhạy cảm như quốc
phịng, an ninh quốc gia. Do đó,vấn đề khó khăn là lúng túng trong quan điểm
về vai trò chủ đạo của nhà nước, về phân loại doanh nghiệp. Điều này dẫn đến
tình trạng “bình mới rượu cũ”, “hình thức”: doanh nghiệp cổ phần hoá nhưng
thực chất vẫn là doanh nghiệp nhà nước với cách quản lý cũ không hiệu quả
Ba là, Những khó khăn, trở ngại từ phía người lao động
- Nắm giữ tỉ lệ nhỏ cổ phiếu. Mặc dù đã có quy định pháp quy nhưng
nhìn chung người lao động chỉ nắm giữ một tỉ lệ nhỏ cổ phiếu của doanh
nghiệp cổ phần hoá. Điều này rõ ràng làm giảm cơ hội tham gia quản lý,
“cùng làm chủ” doanh nghiệp từ phía người lao động, đồng thời có thể gây ra
những căng thẳng trong quan hệ lao động.
Năm 2006, Bộ Cơng nghiệp duyệt phương án cổ phần hố cho 46
doanh nghiệp với tổng giá trị cổ phần nhà nước chiếm 63.6% còn lại 35.4%
giá trị cổ phần là của người lao động (6.6%), nhà đầu tư chiến lược (2.1%) và
cổ đơng bên ngồi doanh nghiệp (27.8%).
Lý do người lao động nắm giữ một tỉ lệ nhỏ cổ phiếu chủ yếu là thiếu
thông tin và thiếu tiền. Một mặt do thiếu thơng tin mà người lao động có thể
bán tống bán tháo cổ phiếu mà quên mất lợi ích và trách nhiệm, quyền hạn lâu
dài của mình.
Mặt khác, người lao động khơng có đủ tiền để mua cổ phiếu và nếu có
mua thì cũng ít. Điều này gây ra ra những khó khăn trở ngại chính:
Thứ nhất, trên thực tế, cổ phiếu rơi vào tay những người giàu có nhiều
tiền và do vậy quyền lực thực tế cũng rơi vào tay những người nắm giữ nhiều
cổ phiếu của doanh nghiệp.
Thứ hai, người lao động khơng có tiền mua cổ phiếu hoặc chỉ mua
được ít cổ phiếu, nên lo lắng, khơng n tâm, thậm chí khiếu kiện khi giá cổ
phiếu tăng.
18



Thứ ba, do thiếu thông tin nên người lao động có thể bán cổ phiếu khi
thấy có lãi so với giá mua lúc đầu mà không biết giá trị thực của cổ phiếu là
bao nhiêu. Điều này tạo ra cơ hội để một số người quản lý mua lại cổ phiếu và
thâu tóm quyền lực bởi vì thiết chế của công ty cổ phần là ai nắm giữ nhiều
vốn người đó nắm giữ nhiều quyền lực. Lúc đó, cổ phần hoá bị biến thành “tư
nhân hoá” tài sản của Nhà nước.
- Tâm lý lo mất việc làm
Theo quy định pháp quy, người lao động được mua cổ phần với giá ưu
đãi, được tiếp tục ở lại lao động tại doanh nghiệp cổ phần hố. Mặc dù người
lao động khơng bố trí được việc làm theo Nghị định 110/2007/NĐ-CP thì
được giải quyết theo chế độ dôi dư đã được quy định tại Nghị định này và
Thông tư số 18/2007/TT-BLĐTBXH. Người không thuộc đối tượng của Nghị
định 110/2007/NĐ-CP thì được hưởng chế độ trợ cấp mất việc làm theo quy
định của điều 17 Bộ luật Lao động. Tuy nhiên, người lao động khó tránh khỏi
nguy cơ phải thay đổi việc làm, thậm chí bị mất chỗ làm việc cũ do doanh
nghiệp phải cơ cấu lại tổ chức và cơ cấu lại lao động.
- Tâm lý ngại thay đổi
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một sự thay đổi có tính bước
ngoặt về sở hữu, tổ chức quản lý và sự phân công lao động. Đa số người lao
động trong các doanh nghiệp trước khi cổ phần hố đều có thói quen làm việc
đã được định hình từ thời quản lý hành chính-mệnh lệnh-quan liêu-bao cấp
hoặc vẫn cịn bị ảnh hưởng bởi cơ chế quản lý kiểu xin - cho. Những người
lao động này thường có thói quen thụ động “chỉ đâu đánh đấy”, “cha chung
khơng ai khóc” và làm việc đối phó dưới nhiều hình thức khác nhau.
Cổ phần hố làm cho người lao động phải thay đổi địa vị xã hội trong
doanh nghiệp từ chỗ “làm chủ” hoặc từ vị trí chung chung là “chúng ta”
chuyển sang vị trí của người “làm thuê”, “làm hợp đồng lao động”, “tôi”,
“chúng tôi” đối diện với giới chủ, giới quản lý, “hội đồng quản trị”. Ngay cả
những người lao động có cổ phần thì do tổng giá trị cổ phần nắm giữ quá nhỏ

19


bé nên tiếng nói của người lao động lọt thỏm trong số các cổ đơng có trọng
lượng.
Tâm lý nửa làm thuê, nửa có trách nhiệm và quyền lợi của cổ đơng
nắm giữ cổ phiếu này ở người lao động có thể là một khó khăn do tình thế
tiến thối lưỡng nan này gây ra. Việc xác định thiếu rõ ràng về quyền lợi và
trách nhiệm đối với doanh nghiệp và công việc là một trở ngại lớn đối với cổ
phần hoá. Gắn liền với tâm lý nửa chủ nửa thợ này là tâm lý thiếu chuyên cần
và chuyên nghiệp của người lao động.
Người lao động trong doanh nghiệp nhà nước thường có thói quen làm
việc cầm chừng do cơ chế bao cấp và “bình quân chủ nghĩa” trước đây,
Những người lao động này rất sợ cổ phần hố bởi vì sợ phải làm việc theo
kiểu “làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít”. Tính chuyên nghiệp thấp và
trình độ tay nghề, nghiệp vụ thấp cũng là những yếu tố cản trở cổ phần hố.
Khơng ít người lao động sợ sau khi cổ phần hố sẽ bị thun chuyển
sang vị trí công việc khác hoặc phải làm việc theo một kiểu khác với cường
độ lao động cao hơn, kỷ luật khắt khe hơn, đòi hỏi về chất lượng, năng suất và
hiệu quả cao hơn so với những gì họ đã từng làm. Không những điều kiện lao
động thay đổi mà cả các mối quan hệ trong lao động cũng thay đổi: tính cạnh
tranh cao hơn đồng thời tính chất cơng việc (chức năng, nhiệm vụ) cũng tăng
lên làm cho khơng ít người lao động cảm thấy lo lắng.
Cùng với nhiều khó khăn trở ngại từ phía tâm tư, nhận thức như vậy là
những lo lắng và kỳ vọng đối với những gì mà cổ phần hố có thể đem lại.
Một số người cho là cổ phần hoá chẳng đem lại điều gì mới thậm chí chỉ làm
“mất tài sản của nhà nước” hay chỉ là “sự chia chác”. Một số người khác lại
kỳ vọng cổ phần hoá sẽ đem lại “sự đổi đời” sẽ làm thay đổi tận gốc mọi thứ
của doanh nghiệp.
Cả hai kỳ vọng trái ngược này đều dẫn đến một tâm lý chung là “không

biết thế nào” và do vậy đều có thể cản trở q trình cổ phần hố. Như vậy, có
thể nói tâm lý sợ thay đổi trong thái độ đối với doanh nghiệp và lao động, việc
20


làm, kể cả thay đổi theo hướng tích cực có lợi cho thu nhập và sự thăng tiến
nghề nghiệp vẫn là những trở ngại từ phía người lao động đối với cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước.
Những người lao động giỏi thích nghi với mơi trường lao động mới
thường có xu hướng ủng hộ cổ phần hoá. Những người lao động giỏi như vậy
thì ở đâu họ vẫn có thể tồn tại và phát triển được và mặt khác những người
này thường chiếm một tỉ lệ nhỏ trong các doanh nghiệp nhà nước. Do đó, sự
ủng hộ thực sự từ phía lao động đối với cổ phần hố là khơng lớn như mong
đợi. Cùng với tình hình này tâm trạng lo lắng thậm chí sợ hãi về tương lai của
doanh nghiệp và của bản thân người lao động. Khi mới đổi mới doanh nghiệp
nhà nước, dư luận xã hội tỏ ra mong muốn và kỳ vọng nhiều vào vai trò của
cơ chế thị trường, cơ chế “thuận mua vừa bán”, “sịng phẳng”. Nhưng gần
đây, có lẽ đã chán với sự chậm trễ trong cổ phần hoá cùng với những thất
thoát tài sản nhà nước do công tác định giá luôn có vấn đề lợi ích cùng nhiều
khó khăn khác, dư luận xã hội bị phân hoá. Một bộ phận ủng hộ và địi hỏi
phải đẩy nhanh cổ phần hố doanh nghiệp nhà nước. Một bộ phận khác thì
thờ ơ khi cho rằng cổ phần hố hay khơng thì tình hình doanh nghiệp nhà
nước vẫn thế, vẫn lại bộ máy lãnh đạo cũ và năng suất, hiệu quả vẫn y
nguyên. Một bộ phận khác nữa thì tỏ ra thất vọng khi thấy tài sản của doanh
nghiệp sau cổ phần hố có vẻ như biến mất vào túi ai đó. Khơng ít tin đồn thất
thiệt liên quan tài sản và nhân sự có thể xảy ra mỗi khi xuất hiện khả năng cổ
phần hoá. Dư luận xã hội phân hoá như vậy có thể khơng ảnh hưởng trực tiếp
tới cổ phần hố nhưng có thể làm một bộ phận các cán bộ lãnh đạo quản lý
ngại sự xáo trộn, sự thay đổi hay những phức tạp có thể có liên quan địa vị, tài
sản, lợi ích do cổ phần hố có thể gây ra.

2.2. Vai trị cơng tác tư tưởng trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.2.1. Thành tựu, ưu điểm

21


Lý luận và thực tiễn đã chỉ rõ, việc xây dựng và phát triển các doanh
nghiệp nhà nước trong cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một tất
yếu khách quan. Song, do những nguyên nhân lịch sử, ở nước ta sự phát triển
tràn lan các doanh nghiệp nhà nước trong các ngành và các lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội, cùng với sự hoạt động kém hiệu quả của phần lớn các
doanh nghiệp Nhà nước lại cản trở trực tiếp việc phát huy vai trị của chúng
trong cơ cấu kinh tế hàng hố nhiều thành phần và tạo nên gánh nặng trong
quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trong công cuộc đổi mới về kinh tế, việc đổi mới
các doanh nghiệp nhà nước được coi là một trong những nhiệm vụ vừa cơ
bản, vừa cấp thiết. Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước là một
trong những nội dung của phương hướng đổi mới doanh nghiệp nhà nước.
Qua 35 năm đổi mới toàn diện, dưới sự lãnh đạo của Đảng đất nước ta
đã đạt được những thành tựu quan trọng, là nguồn cổ vũ động viên lớn lao đối
với toàn Đảng, toàn dân. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên, công nhân và người
lao động trong các doanh nghiệp nhà nước ở thành phố Hà Nội có tinh thần
phấn khởi, tin tưởng và quyết tâm thực hiện thắng lợi các nghị quyết của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, nhiệm vụ phát
triển kinh tế. văn hoá, xã hội của thành phố. Đặc biệt là trong chiến lược phát
triển, tái cơ cấu nền kinh tế. Điều đó cho thấy Ban tuyên giáo thành ủy đã làm
tốt vai trò công tác tư tưởng và đạt được những thành tựu sau:
Một là, trình độ nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
và nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị doanh nghiệp trong cán bộ. đảng viên

và cơng nhân lao động đã có bước trưởng thành đáng kể.
Qua quá trình học tập, bồi dưỡng, rèn luyện, nhận thức của đại đa số
đảng viên, công nhân lao động ở những mức độ khác nhau, Nhưng đều có
những hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tình
hình chính trị - xã hội trong nước và quốc tế.
22


Mặt tích cực trong sự chuyển biến nhận thức và hành động của Đảng
viên và công nhân lao động trong doanh nghiệp là từ chỗ thụ động chấp hành,
ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước, của tập thể; kém năng động,
tháo vát trong sản xuất, kinh doanh; thích bình qn cào bằng; đã chuyển sang
con người năng động, sáng tạo hơn, dám nghĩ, dám làm, ham mê làm giàu
chính đáng, biết thường xun nâng cao trình độ, năng lực để thích ứng, tồn
tại và phát triển trong cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế. Điều đó
thể hiện trong những đóng góp to lớn vào q trình cổ phần hóa doanh
nghiệp.
Hai là, chất lượng hoạt động của cơ quan làm công tác tư tưởng và chất
lượng đội ngũ báo cáo viên có nhiều tiến bộ:
Trong những năm qua, ban tuyên giáo thành ủy đã lựa chọn và xây
dựng mạng lưới báo cáo viên, đổi mới nội dung tuyên truyền, đổi mới những
phương thức hoạt động, về báo cáo viên ở các đảng bộ khối doanh nghiệp.
Nhờ vậy, báo cáo viên thường xuyên được cung cấp thơng tin chính xác từ
Trung ương, từ tỉnh, đồng thời được tổ chức nghiên cứu thực tế, trao đổi kinh
nghiệm và tăng cường quan hệ giao lưu giữa báo cáo viên với nhau trong toàn
Đảng bộ.
Ba là, Ban tuyên giáo thành ủy và các đảng bộ doanh nghiệp đã có
những đổi mới về nội dung và cách thức tiến hành cơng tác tư tưởng, từ đó
nâng cao tính thuyết phục tính chiến đấu của cơng tác tư tưởng:

* Cơng tác giáo dục lý luận chính trị
Giáo dục lý luận chính trị là một bộ phận quan trọng trong cơng tác tư
tưởng của Đảng bộ doanh nghiệp. Giáo dục lý luận, chính trị có nghĩa là
truyền bá những ngun lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối quan điểm của Đảng vào cán bộ, đảng viên, công nhân và
người lao động, củng cố niềm tin chính trị.
Cơng tác giáo dục lý luận chính trị đã góp phần thực hiện các mục tiêu
và nhiệm vụ chính trị cơ bản của Đảng ủy Khối doanh nghiệp đề ra. Góp phần
23


xây dựng và củng cố niềm tin, giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng. Những
nội dung có tính định hướng chính trị trong các loại chương trình có tác dụng
củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên, uốn nắn những lệch lạc, chống các
luận điệu thù địch, tạo cơ sở cho sự thống nhất về tư tưởng trong tồn Đảng
bộ, giúp cán bộ, đảng viên, cơng nhân nâng cao tằm nhìn, có năng lực tự đánh
giá, tự lý giải các vấn đề phức tạp đang đặt ra trong cuộc sống.
Giáo dục chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Đó là những quan điểm về thời kỳ quá độ và con dường đi lên chủ
nghĩa xã hội, xây dựng giai cấp công nhân trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, quan điểm về phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề hội nhập quốc tế...
*Giáo dục đạo đức, lối sống cho đảng viên, công nhân và người lao
động được triển khai với nhiều nội dung:
Chỉ ra cho họ thấy nền kinh tế thị trưởng cùng với hội nhập kinh tế
quốc tế, toàn cẩu hỏa đem lại nhiều cơ hội để phát triển nhưng cũng có nhiều
thách thức, trong đó có sự tha hóa đạo đức, lối sống. Thực hiện Chỉ thị số
03- CT/TW của Bộ Chính trị, Ban tuyên giáo thành ủy, Đáng ủy Khối Doanh
nghiệp đã phát động phong trào học tập đạo đức Hồ Chí Minh. Thơng qua
các hoạt động thiết thực, cụ thề. đưa việc học tập và làm theo tấm gương đạo

đức của Người trở thành công việc thường xuyên của tổ chức Đảng, đảng
viên, công nhàn và người lao động trong từng doanh nghiệp. Bằng các hoạt
động như tổ chức lề báo công dàng Bác. gặp mặt, biểu dương các tập thề và
cá nhàn tiêu biểu trong học tập và làm theo tắm gương đạo đức Hồ Chi Minh
nhân dịp sinh nhật Người. Từ đị góp phần ngăn chặn, đầy lùi sự suy thối về
tư tưởng chính trị. đạo đức. lối sống của một bộ phận cán bộ. đảng viên.
Trong cơ chế thị trường, nhiều cán bộ. đảng viên ngày càng năng động
tích cực, thích ứng và phát huy tài năng trí tuệ, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm trong nhiều lĩnh vực hoạt động. Nêu cao tinh thần cách
mạng tiến cơng, vượt khó, cùng với cấp uỷ, chính quyền lãnh đạo và tổ chức
24


quần chúng thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an
ninh, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh. Có nhiều tấm gương tiêu
biểu có sức động viên, lơi cuốn đơng đảo quần chúng vươn lên.
Tổng số công nhân và người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước
hiện nay có 15.425 người, hoạt động trong tất cả các loại hình doanh nghiệp.
Đại đa số công nhân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, chế độ
và công cuộc đổi mới; phấn khởi, tin tưởng Nghị quyết số 20 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (Khóa X) về "tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước". Các cấp
ủy Đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nghị quyết đại hội
Đảng các cấp, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay", gắn với thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính
trị "tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh". Dư luận đơng đảo đảng viên, cơng nhân, lao động hài lịng cho rằng:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI)
đang được triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, quyết liệt từ Trung ương

đến địa phương. Những giải pháp đưa ra mang tính đột phá sẽ tạo bước
chuyển tích cực trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, củng cố niềm tin của nhân
dân đối với Đảng. Công nhân nâng cao ý thức dân tộc, phát huy tính cần cù
lao động, tinh thần đồn kết, là lực lượng ln ủng hộ và đi đầu trong thực
hiện đường lối đổi mới của Đảng. Nhiều cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và
bộ phận cơng nhân trực tiếp sản xuất có trình độ cao đã phát huy tốt hơn tính
năng động sáng tạo, tự chủ sản xuất kinh doanh, thích ứng với cơ chế thị
trường, tiếp thu và tiến bước làm chủ khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
Cùng với quá trình phát triển chung của đất nước, của tỉnh, đời sống vật
chất và tinh thần của giai cấp công nhân đã được cải thiện một bước. Nhất là
công nhân có trình độ chun mơn, nghề nghiệp cao, cơng nhân làm việc ở

25


×