Tải bản đầy đủ (.docx) (250 trang)

35 bài THU HOẠCH bồi DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN mầm NON THEO THÔNG tư 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (863.99 KB, 250 trang )

35 BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG
THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN MẦM NON
THEO THÔNG TƯ 12


Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 1 số 1
ĐẠO ĐỨC CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON TRONG GIAO TIẾP,
ỨNG XỬ VỚI TRẺ MẦM NON
1. Nhà giáo phải có các tiêu chuẩn sau đây:
a. Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt;
b. Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ;
c. Đủ sức khỏe theo yêu cầu của nghề nghiệp;
d. Lý lịch bản thân rõ ràng.
2. Khái niệm đạo đức, đạo đức nhà giáo, đạo đức của người giáo viên
mầm non.
+ Đạo đức nhà giáo: Đạo đức nhà giáo là phẩm chất của người giáo viên
được hình thành do tu dưỡng, rèn luyện theo các quy định, tiêu chuẩn, yêu
cầu....trong hoạt động nghề nghiệp của người giáo viên và trong cuộc sống với
tư cách một nhà giáo, được thể hiện ra bên ngoài qua nhận thức, thái độ và hành
vi của họ.
+ Đạo đức của người giáo viên mầm non: Là những phẩm chất của
người giáo viên mầm non được hình thành do tu dưỡng, rèn luyện theo các quy
định, tiêu chuẩn, yêu cầu...trong chăm sóc và giáo dục trẻ e4m và trong cuộc
sống với tư cách một nhà giáo được thể hiện ra bên ngoài qua nhận thức, thái độ,
hành vi.
3. Phẩm chất đạo đức của người giáo viên mầm non thể hiện ở những
điểm sau:
a. Yêu nước, có niềm tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Chấp hành tốt luật pháp Nhà nước, chủ trương, chính sách của Đảng và
những qui định của ngành, của trường mầm non.


- Có định hướng tốt trong đổi mới nội dung, phương pháp chăm sóc, giáo
dục, bảo vệ và ni dưỡng trẻ.


- Làm một cơng dân tốt có ý thức trách nhiệm đối với xã hội, tham gia
phát triển văn hóa- xã hội của cộng đồng; mẫu mực trong hành vi giao tiếp ứng
xử là tấm gương cho trẻ noi theo.
b. Yêu thương, tôn trọng và công bằng với trẻ.
- Không phân biệt đối xử với trẻ và chất nhận sự đa dạng của trẻ;
- Tận tụy chăm sóc trẻ và kiên nhẫn trong giáo dục trẻ mầm non.
- Xây dựng mối quan hệ thân mật, gần gũi, ân cần, chu đáo với trẻ ở các
độ tuổi khác nhau ( tuổi nhà trẻ và tuổi mẫu giáo)
- Coi trọng tính tích cực, chủ động, sáng tạo cá nhân của trẻ mầm non;
động viên khuyến khích trẻ tích cực tham gia vào hoạt động chung/nhóm;
- Xây dựng và duy trì việc phối hợp với gia đình trong việc chăm sóc-giáo
dục trẻ; tun truyền về trẻ và phổ biến thông tin về phương pháp giáo dục trẻ.
c. Yêu nghề, tâm huyết, gắn bó và có trách nhiệm cao với nghề nghiệp.
- Có tình cảm và yêu trẻ, có động cơ yêu nghề, say mê sáng tạo, nhanh
chóng thích ứng với tình huống mới.
- Có ý thích tự học, tự bồi dưỡng nâng cao nhận thức, năng lực chun
mơn, nghiệp vụ chăm sóc – giáo dục trẻ trong độ tuổi.
- Có quan hệ tin cậy dễ chịu với người khác, hợp tác thiện chí, trau dồi
kinh nghiệm tự hồn thiện bản thân.
- Có suy nghĩ và quan điểm tích cực, hồn thành tốt các công việc được
giao nhằm đáp ứng với các yêu cầu mới mục tiêu chăm sóc – giáo dục, bảo vệ
và ni dưỡng trẻ.
d. Có ý thức tổ chức, có đạo đức tốt, yêu thương đồng cảm với người
khác, mềm dẻo, hiểu biết, sáng tạo, lối sống lành mạnh, trung thực, giản dị phù
hợp với văn hóa dân tộc.
4. Yêu cầu đạo đức nhân cách của người giáo viên mầm non.

Dựa vào phẩm chất đạo đức trong mơ hình nhân cách của người giáo viên
mầm non, các quy định về đạo đức người giáo viên mầm non, trong q trình
chăm sóc và giáo dục trẻ, giáo viên cần tuân thủ các yêu cầu sau:


- Yêu nghề, tâm huyết với nghề, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà
giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và
trong cơng tác; có lịng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hòa nhã với trẻ,
đồng nghiệp, sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của
trẻ, đồng nghiệp và cộng đồng, được đồng nghiệp, người dân tín nhiệm và trẻ
yêu quý.
- Yêu thương, tôn trọng và công bằng với trẻ.
+ Không phân biệt đối xử với trẻ và chấp nhận sự đa dạng của trẻ.
+ Tận tụy chăm sóc trẻ và kiên nhẫn trong giáo dục mầm non.
+ Xây dựng mối quan hệ thân mật, gần gũi, ân cần, chu đáo với trẻ ở các
độ tuổi khác nhau ( tuổi nhà trẻ và tuổi mẫu giáo)
+ Coi trọng tính tích cực, chủ động, sáng tạo cá nhân của trẻ mầm non;
động viên khuyến khích trẻ tích cực tham gia vào các hoạt động chung/nhóm.
+ Xây dựng và duy trì việc phối hợp với gia đình trong việc chăm sóc giáo dục trẻ; tuyên truyền về trẻ và phổ biến thông tin về phương pháp giáo dục
trẻ.
- Tân tụy với công việc; thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội duy của đơn
vị, nhà trường, của ngành, sẵn sàng khắc phục khó khăn để hồn thành nhiệm
vụ.
- Tham gia đóng góp xây dựng và thực hiện nội quy hoạt động của nhà
trường.
- Thực hiện các nhiệm vụ được phân công.
- Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc; thường
xuyên học tập nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của giáo
dục.

- Chấp hành kỉ luật lao động, chịu trách nhiệm về chất lượng chăm sóc,
giáo dục trẻ ở nhóm lớp được phân cơng.
- Khơng có biểu hiện tiêu cực trong cuốc sống, trong chăm sóc, giáo dục
trẻ.


- Không vi phạm các quy định về hành vi nhà giáo không được làm.
* - Giao tiếp, ứng xử với trẻ mầm non với trẻ mầm non là quá trình
tương tác của giáo viên mầm non với trẻ, những phản ứng hành vi của giáo viên
nảy sinh trong quá trình giao tiếp với trẻ do những rung cảm cá nhân kích thích
nhằm lĩnh hội, truyền đạt những tri thức, vốn kinh nghiệm của cá nhân xã hội
trong những tình huống nhất định.
5. Những biểu hiện đạo đức của người giáo viên mầm non trong giao
tiếp ứng xử với trẻ.
Trong khi giao tiếp, ứng xử với trẻ, giáo viên nên lưu ý một số điểm sau:
- Trong chăm sóc, giáo dục trẻ, cô giáo cần phải luôn yêu thương trẻ như
con, khéo léo và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của trẻ là: được ăn, được vui
chơi và học tập. giáo viên cần yêu thương từng trẻ, yêu thương trẻ như con em
mình, điều đó địi hỏi sự tận tụy và khéo léo dịu dàng, nhạy cảm và tinh tế trong
chăm sóc và giáo dục trẻ. Muốn như vậy, trong q trình giáo dục, giáo viên tạo
bầu khơng khí ấm cúng như gia đình. Đồng thời giáo viên cần chú ý đáp ứng
đúng lúc, kịp thời những nhu cầu cơ bản của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ phát triển
một cách thuận lợi.
- Giáo viên cần dành mọi suy nghĩ , hành động ưu ái cho trẻ, vì trẻ, đảm
bảo cho trẻ phát triển tối đa những tiềm năng vốn có theo khoa học, theo mục
tiêu đào tạo của ngành giáo dục mầm non.
- Giao tiếp ứng xử với trẻ bằng nhưng cử chỉ hành vi dịu hiền, nhẹ nhàng,
cởi mở, vui tươi, tạo cho trẻ một cảm giác an tồn, bình n, dễ chịu khi được
đến trường, nhờ có cảm giác an tồn, trẻ mới bộc lộ tính hồn nhiên, ngây thơ,
trong trắng của tuổi thơ. Điều này luôn nhắc nhở giáo viên lấy cảm xúc trân thực

của mình khi tiếp xúc với trẻ, xúc cảm chân thực nhưng thiên về tình thương,
nhẹ nhàng mà vui tươi, cởi mở, phù hợp với tâm sinh lý của trẻ, gieo vào lịng
trẻ những sắc thái cảm xúc tích cực của con người.
- Trước mỗi tình huống, giáo viên cần bình tĩnh khơng nên vội vàng, nóng
nảy, nếu giáo viên nóng nảy thiếu kiềm chế, sẽ có những hành vi khơng hợ lý
với trẻ, trong khi đó, bất cứ hành vi nào của giáo viên đều được trẻ ghi dấu lại


trong tâm trí trẻ. Giáo viên nên tìm hiểu kĩ những nguyên nhân dẫn đến nhưỡng
biểu hiện hành vi bất thường của trẻ để có hướng giải quyết hợp lý nhất.
- Giáo viên ứng xử công bằng với tất cả trẻ, không phân biệt so sánh trẻ
này với trẻ khác dành tình yêu và sự quan tâm với tất cả các trẻ như nhau, giáo
viên không được quá quan tâm nhiều đến một trẻ nào đó. Do đó, giáo viên cần
phải vừa quan tâm đến cả lớp vừa phải quan tâm đến từng trẻ. Mỗi trẻ có những
đặc điểm riêng về thể chất, về nhu cầu, về sở thích, hứng thú, khả năng…., giáo
viên cần nắm bắt được các đặc điểm đó để có cách giáo tiếp ứng xử phù hợp đối
với trẻ.
- Tạo ra bầu khơng khí thân thiện, cởi mở trong suốt q trình chăm sóc
và giáo dục trẻ là điều rất quan trọng, giáo viên lúc nào cũng thể hiện khn mặt
rạng rỡ, nhiệt tình, trìu mến, tạo cho trẻ cảm thấy mình đang được quan tâm.
- Giáo viên cần hiểu trẻ, nên tìm những điểm tốt điểm tích cực của trẻ, để
nêu gương khích lệ trẻ tạo cho trẻ có được sự tự tin, phấn khởi.
- Cần tôn trọng trẻ, lắng nghe ý kiến của trẻ và sẵn sàng giải đáp mọi thắc
mắc của trẻ, không nên lờ đi trước ý kiến của trẻ.
- Cần linh hoạt trong cách xử lý tình huống với trẻ, khơng nên cứng nhắc
vì mỗi trẻ là một các thể riêng biệt, một tính cách và sở thích khác nhau. Giáo
viên cần hiểu trẻ và tạo nhiều cơ hội để trẻ được thể hiện trong các tình huống
khác nhau.
6. Những hạn chế trong giao tiếp, ứng xử của giáo viên mầm non đối
với trẻ và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển của trẻ mầm non.

- Giáo viên chưa hiểu trẻ và nhu cầu của trẻ trong các hoạt động ở trường
mầm non, chưa thật sự chú ý, tập trung, lơi cuốn trẻ, khích lệ trẻ tham gia vào
các hoạt động, chưa tạo được khơng khí thật sự vui tươi và kích thích những
ham thích, hứng khởi cần có ở trẻ.
- Giáo viên đôi khi không kiềm chế được cảm xúc nên ảnh hưởng đến trẻ.
Nhiều giáo viên cho rằng giờ ăn là dễ khiến cơ giáo nóng giận và khó chịu và
thường cơ giáo trách phạt trẻ bằng nhiều hình thức như đánh, nhốt trẻ vào nhà vệ
sinh, ép trẻ ăn...Một số giáo viên do khơng kìm chế được cảm xúc của bản thân


nên vẫn cịn hiện tượng nóng giận, bực bội, la mắng, trách móc trẻ. Điều này sẽ
ảnh hưởng nhiều đến tâm lý của trẻ như: trẻ sẽ cảm thấy sợ hãi, không tự tin, sợ
đến trường...
- Trẻ trong lớp quá đông cũng tạo nhiều áp lực cho giáo viên, giáo viên sẽ
thường xuyên bị căng thẳng, từ đó mà tâm trạng không tốt.
- Do khối lượng công việc qáu hiều, áp lực của công việc khiến giáo viên
cảm thấy mệt mỏi cũng ảnh hưởng nhiều đến giao tiếp với trẻ.
- Giáo viên có quan niệm sai lầm khi cho rằng trẻ tuổi này rất bướng bỉnh,
lì lợm và phải giáo dục nghiêm khắc, phải trách phạt, la mắng cho trẻ biết sợ,
biết chừa, thường cấm đoán và chỉ mong trẻ biết nghe lời.
* Nguyên nhân:
Kỹ năng giao tiếp ứng xử của giáo viên mầm non với trẻ chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố, trong đó có thể kể đến các yếu tố nhận thức, yếu tố quan điểm
giáo dục, yếu tố về tính chất cơng việc và yếu tố về mối quan hệ trong công
việc. Đây là những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến giao tiếp của giáo viên
mầm non với trẻ. Cụ thêt:
- Về yếu tố nhận thức: Là sự hiểu biết của giáo viên về pháp luật và yêu
cầu của đạo đức người giáo viên mầm non trong chăm sóc và giáo dục trẻ. Đó
cũng là sự hiểu biết của giáo viên về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Hiện nay,
nhiều giáo viên chưa hiểu và nắm vững những yêu cầu về đạo đức của người

giáo viên, chưa hiểu và nắm vững các đặc điểm tâm sinh lí của trẻ, nên trong
q trình giao tiếp ứng xử với trẻ không thỏa mãn được những nhu cầu của trẻ,
ảnh hưởng nhiều đến chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ. Điều này cho thấy
công tác giáo dục đạo đức trong ngành sư phạm chưa thực sự được quan tâm
đúng mức. Những tấm gương sáng về đạo đức nhà giáo hi sinh, tận tụy với trẻ
chưa được xã hội động viên quan tâm tôn vinh kịp thời.
- Về quan điểm giáo dục trẻ: Nhiều giáo viên có quan niệm sai lầm trong
giao tiếp ứng xử với trẻ như để giáo dục trẻ nhanh nhất, hiệu quả nhất thì đe dọa,
trừng phạt, trách mắng là phương pháp giáo dục hiệu quả. Một số giáo viên quá
nghiêm khắc với trẻ, nghĩ rằng cần phải làm cho trẻ biết sợ, biết vâng lới bằng


những hình phạt nặng nề nhơ đánh, nhốt trẻ vào nhà vệ sinh... Đây là quan điểm
hết sức sai lầm của giáo viên.
- Về tính chất cơng việc và chế độ đãi ngộ của giáo viên: Giáo viên mầm
non so với các bậc học khác phải làm việc vất vả, khối lượng công việc nhiều,
lại phải chịu nhiều áp lực như chất lượng giảng dạy, thanh tra, kiểm tra. Tuy n
hiên chế độ đãi ngộ với giáo viên của nhà trường và địa phương khơng thỏa
đáng, điều đó cũng ảng hưởng đến tâm lý giáo viên và ảnh hưởng đến việc giao
tiếp, ứng xử với trẻ. Mặt khác, số lượng trẻ trong lớp q đơng, có nhiều trẻ
bướng bỉnh, khơng nghe lời, hay quậy phá khiến giáo viên bị căng thẳng, từ đó
dẫn đến hượng tượng quát mắng, dọa nạt trẻ.
- Về các mối quan hệ trong công việc ( quan hệ với cấp trên, đồng nghiệp
và phụ huynh): Sự không thuận lợi trong các mối quan hệ này cũng khiến giáo
viên cảm thấy căng thẳng, mệt mỏi, bực bội, điều đó ảnh hưởng nhiều dến hoạt
động giao tiếp và ứng xử với trẻ. Ví dụ: Sự chỉ đạo khơng nhất quán và khách
quan từ cấp trên; quan hệ với đồng nghiệp khơng tốt, có nhiều bất đồng; việc
phối kết hợp với phụ huynhtrong chăm sóc và giáo dục trẻ chưa tốt....
* Biện pháp tăng cường nhận thức, thái độ đạo đức người giáo viên
mầm non trong giao tiếp, ứng xử với trẻ.

- Tăng cường nhận thức pháp luật, nhận thức về yêu cầu/chuẩn mựcđạo
đức của giáo viên mầm non, về đặc điểm tâm sinh lí của trẻ em.
- Nâng cao nhận thức của giáo viên mầm non về đặc điểm tâm sinh lý của
trẻ.
* Biện pháp rèn luyện hành vi đạo đức của người giáo viên mầm non
- Tổ chức rèn luyện hành vi/thói quen đạo đức của giáo viên mầm non
trong các tình huống giao tiếp, ứng xử với trẻ mầm non.
- Giám sát hỗ trợ và điều chỉnh giáo viên mầm non trong giao tiếp ứng xử
với trẻ mầm non.
* Biện pháp đảm bảo các điều kiện để giáo viên mầm non nâng cao
đạo đức trong giao tiếp, ứng xử với trẻ.
- Nâng cao đạo đức của người cán bộ quản lí của nhà trường.


- Đảm bảo điều kiện làm việc, môi trường làm việc để giảm áp lực đối với
giáo viên mầm non.
- Động viên, đãi ngộ và tôn vinh người giáo viên mầm non.
2. Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 2
Ở Việt Nam, nghề giáo luôn được xã hội trân trọng, tôn vinh là “nghề cao
quý nhất trong những nghề cao quý”. Người dạy học được gọi là thầy giáo, cô
giáo và được coi là “kỹ sư tâm hồn”, khơng chỉ dạy chữ mà cịn dạy cách làm
người, hình thành và phát triển nhân cách người học. Xã hội càng tơn trọng nghề
dạy học càng địi hỏi rất cao năng lực và phẩm chất đạo đức của nhà giáo. Do
tính chất đặc biệt của nhà giáo nên xã hội luôn mong muốn và yêu cầu cao về
đạo đức nghề nghiệp của họ.
Nhà giáo được xã hội tôn vinh bởi sứ mệnh trồng người cao cả. Các nhà
tư tưởng, nhà giáo dục lớn xưa và nay đều đánh giá rất cao vai trò của nhà giáo
đối với sự nghiệp giáo dục, phát triển xã hội. Luôn coi trọng phẩm chất đạo đức
của nhà giáo, coi đó là thành tố cơ bản, nền tảng trong nhân cách nhà giáo. Ở
phương Đông cổ đại, Nho giáo coi mối quan hệ thầy trò là một trong ba mối

quan hệ then chốt của xã hội: quân - thần, sư - đệ, phụ - tử và yêu cầu “thầy ra
thầy”, “trò ra trò”. Triết gia Hy Lạp cổ đại Platon cho rằng: người thợ giày tồi thì
quốc gia khơng q lo lắm, dân chúng sẽ phải xỏ những đôi giày xấu. Nhưng
người thầy mà dốt nát, vơ ln thì đất nước sẽ xuất hiện những người kém cỏi
xấu xa. Nghề dạy học lấy con người làm đối tượng để tác động, làm biến đổi và
phát triển nhận thức, tư tưởng, tình cảm của người học. Các giá trị văn hóa của
nhân loại qua bàn tay của người thầy được kết tinh và truyền thụ cho các thế hệ
kế tiếp để đào tạo ra những con người có phẩm chất, năng lực phục vụ cho sự
phát triển của xã hội. Thành quả của quá trình lao động sư phạm là đào tạo ra
những con người mới với nhân cách hồn chỉnh. Đạt được mục tiêu đó, vai trò
của nhà giáo rất quan trọng, họ vừa là người thiết kế, vừa là người thi cơng trong
q trình dạy học. Đạo đức của họ là tấm gương sống để người học noi theo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Dạy các cháu thì nói với các cháu chỉ là một
phần, cái chính là phải cho các cháu nhìn thấy, cho nên những tấm gương thực tế


là rất quan trọng. Muốn dạy cho trẻ em thành người tốt thì trước hết các cơ, các
chú phải là người tốt”(1).
Ph.Ăngghen khi bàn về đạo đức nghề nghiệp đã viết: “Trong thực tế, mỗi
giai cấp và ngay cả mỗi nghề nghiệp đều có đạo đức riêng của mình”(2). Trong
lao động sản xuất, trong hoạt động nghề nghiệp cần có những quy tắc, chuẩn
mực đạo đức cùng với pháp luật để điều chỉnh hoạt động của các thành viên.
Theo đó, đạo đức nghề nghiệp là những quy tắc, chuẩn mực phản ánh mối quan
hệ giữa con người với công việc, con người với con người nhằm điều chỉnh
nhận thức, thái độ, hành vi của những người hoạt động trong một lĩnh vực nghề
nghiệp dựa trên sức mạnh của dư luận xã hội và lương tâm của mỗi người nhằm
đáp ứng với địi hỏi đặc thù do tính chất, đặc điểm nghề nghiệp đặt ra. Do đặc
trưng nghề nghiệp khác nhau nên bên cạnh những chuẩn mực đạo đức chung,
mỗi nghề nghiệp lại có những quy tắc, chuẩn mực đạo đức đặc trưng, nhất là
những hoạt động nghề nghiệp có tính chất chun mơn hóa cao. Những nghề

nghiệp liên quan đến con người càng cần những yêu cầu về đạo đức cao hơn.
Chẳng hạn như nghề y - nghề trị bệnh cứu người đòi hỏi đạo đức của người thầy
thuốc phải là “Lương y như từ mẫu”. Đối với nghề giáo cũng vậy, đạo đức nghề
nghiệp của người thầy luôn phải được đề cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: đối với người Việt Nam nói riêng, người phương Đơng nói chung, một tấm
gương sáng còn hơn trăm bài diễn thuyết. Hoạt động dạy học được tiến hành
bằng nhiều phương thức, trong đó có một phương thức rất đặc biệt là lấy nhân
cách tác động đến nhân cách, dùng nhân cách người thầy để cảm hóa học trị. Do
vậy, nhà giáo phải là tấm gương mẫu mực, luôn nêu gương về đạo đức để những
giá trị tốt đẹp của người thầy được nhân lên trở thành phổ biến ở người học. Đạo
đức của họ gắn với đặc trưng của nghề dạy học mang tính mơ phạm, chuẩn hóa
rất cao, vừa dạy người, vừa dạy chữ, dạy nghề.
Đạo đức nghề nghiệp là nền tảng trong nhân cách nhà giáo. Chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp của họ được duy trì thành nền nếp trong nhà trường dựa
trên hệ thống các khuôn phép, quy tắc đạo đức nhằm định hướng, điều chỉnh
nhận thức, đánh giá thái độ, hành vi của nhà giáo phù hợp với yêu cầu mô phạm


của nghề dạy học. Với nghề dạy học, người dạy muốn hồn thành tốt nhiệm vụ
phải ln tinh thơng về nghề nghiệp, tiêu biểu về tri thức khoa học, tư tưởng
chính trị, văn hóa, đạo đức, lối sống. Như vậy, đạo đức nghề nghiệp của nhà
giáo không phải là thành tố biệt lập mà có quan hệ mật thiết với các thành tố
khác trong nhân cách của nhà giáo luôn gắn bó hữu cơ với năng lực, tài nghệ sư
phạm của nhà giáo.
Phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cao nhất của nhà giáo là yêu nghề, yêu
người. Những năm 60 của thế kỷ trước, Trường Bắc Lý ở nước ta đã vang lên
thơng điệp: “Tất cả vì học sinh thân u”. Thơng điệp này đã nói lên chiều sâu
về phẩm chất đạo đức của nhà giáo, có phẩm chất này nhà giáo sẽ có các phẩm
chất cao quý nhất của đạo làm thầy. Tình yêu nghề, yêu người của nhà giáo càng
sâu sắc thì càng tác động mạnh mẽ đến người học, trở thành những tấm gương

cho người học noi theo và là một thành tố quan trọng để quá trình giáo dục đạt
kết quả cao. Nội dung cốt lõi của chuẩn mực đạo đức này là sự toàn tâm, toàn ý
với người học và nghề dạy học. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng quyết tâm
dạy thật tốt, có ý chí quyết tâm phấn đấu vươn lên, miệt mài với từng bài giảng,
thường xuyên đúc rút kinh nghiệm và vận dụng sáng tạo trong hoạt động sư
phạm, như Bác Hồ nói: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt, học
tốt”.
Tình yêu nghề của nhà giáo còn thể hiện ở niềm tin sư phạm sâu sắc, tôn
trọng, yêu mến, nhân ái, độ lượng, bao dung người học. Nhà giáo biết vui với
cái vui, cái thành đạt của người học, song cũng biết buồn với cái buồn, cái thất
bại của người học. Khi người học tiến bộ, nhà giáo cảm thấy phấn khởi, song
khi người học làm điều sai thì người dạy cũng phải thấy trong đó có phần lỗi của
mình, khơng vội trách người học mà trước hết bản thân mình phải có sự day dứt.
Đây là động lực giúp nhà giáo vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao tri thức, sư
phạm và tu dưỡng rèn luyện đạo đức nghề nghiệp. Coi sự nghiệp trồng người mà
mình được tham gia là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc
của nhà giáo.


Trong thời đại kinh tế tri thức, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ
thuật và công nghệ thông tin truyền thông đang đặt ra yêu cầu phải đổi mới nội
dung, phương pháp dạy học. Sự đổi mới này trước hết phải bắt đầu từ đội ngũ
nhà giáo. Nhà giáo giờ đây phải miệt mài lao động để cô đọng hệ thống kiến
thức, đảm bảo những kiến thức này là cơ bản nhất, hiện đại nhất, hữu ích nhất
cho người học. Họ vừa phải biết giảng giải cho người học, vừa phải biết thiết kế
bài học, hướng dẫn người học thi công, vừa phải biết dẫn dắt để người học lĩnh
hội, giác ngộ, vừa phải biết đưa người học thành người hợp tác, cộng tác với
thầy giáo, cô giáo, với bạn để tìm ra chân lý và thực hành chân lý một cách sáng
tạo theo những kiến thức đã được tiếp nhận. Nhiệm vụ này rất nặng nề, nhưng
nhà giáo không phải là thợ giảng mà phải là nhà giáo dục để hồn thiện nhân

cách người học. Ở đó, đạo đức nghề nghiệp là nền tảng, động lực để nhà giáo
hồn thành sứ mệnh vẻ vang của mình. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn
dặn: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt. Trên
nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất
lượng văn hóa và chun mơn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách
mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của
khoa học và kỹ thuật”(3).
Nghề dạy học là một nghề lao động đặc biệt, đòi hỏi phải đầu tư thời gian
và công sức nhiều, nhưng không phải là nghề có thu nhập cao. Trong nền kinh tế
thị trường, việc trả cơng cho các ngành nghề được tính theo hao phí sức lao
động và hiệu quả làm việc. Giữa các nghề có sự cạnh tranh trong việc thu hút
nguồn nhân lực. Nghề nào có thu nhập cao hơn sẽ thu hút nguồn nhân lực có
chất lượng hơn. Trong những năm vừa qua, mặc dù ngành giáo dục đã được
Đảng, Nhà nước quan tâm, nhưng đời sống của nhà giáo vẫn cịn rất nhiều khó
khăn, nhất là đối với các nhà giáo ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều đồng bào
dân tộc thiểu số sinh sống. Mùa tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2017 vừa qua,
nhiều trường sư phạm có điểm trúng tuyển rất thấp. Ngành sư phạm chưa thu
hút được nhân tài có nguyên nhân quan trọng là chế độ đãi ngộ với nhà giáo còn
kém hấp dẫn.


Với truyền thống hiếu học và tinh thần “tôn sư trọng đạo”, người thầy và
nghề dạy học ở nước ta ln được tơn vinh. Trong thực tế có rất nhiều tấm
gương các nhà giáo hết lòng yêu nghề. Họ đã cống hiến cả cuộc đời cho sự
nghiệp giáo dục và được rất nhiều thế hệ học trị kính trọng. Có rất nhiều thầy,
cô giáo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa đã vượt qua rất nhiều khó khăn về vật chất
và tinh thần để cống hiến cơng sức, trí tuệ cho sự nghiệp “trồng người” vẻ vang.
Tuy nhiên, trong những năm vừa qua ngành giáo dục và xã hội không khỏi đau
lịng trước hiện tượng có những giáo viên thiếu chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
như bạo hành, lăng mạ học sinh, nhất là những vụ việc bạo hành trẻ em ở một số

trường mầm non. Thiếu gương mẫu trong lời nói, việc làm, đánh giá khơng
khách quan người học… Những hiện tượng này tuy chỉ là “con sâu bỏ rầu nồi
canh”, nhưng dễ tạo nên bức xúc và phản cảm trong xã hội. Những sự việc này
nếu không được nhìn nhận thấu đáo, khách quan sẽ dẫn đến đánh giá quy chụp
nghề giáo và đội ngũ giáo viên hiện nay.
Để nhà giáo và đạo đức nghề nghiệp của họ được tơn vinh cần phải có
những giải pháp cơ bản. Trước hết, cần tăng cường công tác giáo dục tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống đối với đội ngũ nhà giáo hiện nay. Gắn hoạt động
này với các phong trào, cuộc vận động trong ngành giáo dục và việc “Học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Kịp thời chỉnh đốn, uốn
nắn, xử lý nghiêm những sai phạm của một số giáo viên vi phạm tư cách và đạo
đức nhà giáo. Những biện pháp này cần được thực hiện thường xuyên, lâu dài và
thực chất để xây dựng hình ảnh nhà giáo mẫu mực, làm gương sáng cho học trò
noi theo.
Thực hiện giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Quốc sách ở đây
không phải là lý thuyết hay khẩu hiệu mà phải biến thành chính sách và hành
động thực tế. Do đó, cần nắm bắt, giải quyết tốt nguyện vọng và các lợi ích
chính đáng, thiết thực của đội ngũ nhà giáo, để kịp thời động viên họ yên tâm
công tác, ra sức học tập, phấn đấu trau dồi hơn nữa chuyên môn và đạo đức nghề
nghiệp. Quan tâm thực hiện tốt chế độ ưu đãi, khen thưởng, đảm bảo điều kiện
làm việc, sinh hoạt đối với nhà giáo, nhất là những nhà giáo có trình độ, có học


hàm, học vị cao, có nhiều cống hiến cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Mặt
khác, khi xem xét, giải quyết và bảo đảm các chế độ, chính sách đối với đội ngũ
nhà giáo phải thực sự dân chủ, cơng khai, cơng bằng, kịp thời, chính xác. Kiên
quyết đấu tranh, lên án và khắc phục kịp thời mọi biểu hiện vi phạm trong thực
hiện các chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước, của ngành giáo dục đối với các
nhà giáo.
Để xứng đáng với sứ mệnh vẻ vang và cao cả trong sự nghiệp trồng

người, xứng đáng với sự tôn vinh và niềm tin yêu của xã hội, bản thân mỗi nhà
giáo phải ln có nhận thức đúng đắn, sâu sắc về vị thế của nghề sư phạm, trọng
trách cao cả của họ trong xã hội. Tích cực tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo
đức, tác phong, lối sống để mỗi nhà giáo thực sự là những tấm gương sáng về
nhân cách, đạo đức cho học sinh noi theo. Bởi lẽ, sự tơn vinh, kính trọng đối với
nhà giáo không chỉ ở kiến thức uyên thâm hay ở tài nghệ sư phạm mà quan
trọng hơn cả là ở sự mơ phạm về phẩm chất đạo đức, lịng u nghề, yêu trò và
sự mẫu mực trong lối sống, ở giá trị cao cả và trong sáng của nhân cách nhà
giáo. Sự rèn luyện, phấn đấu này là thường xuyên, liên tục: “Đạo đức cách mạng
không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà
phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”(4). Mặt khác, đội ngũ nhà giáo phải không ngừng học tập và tự học tập
để nâng cao trình độ về mọi mặt, phải ln tìm tịi, sáng tạo và đổi mới trong
nghiên cứu, giảng dạy. Những thói quen theo kiểu lối mịn, nếp cũ khơng cịn
phù hợp cần được thay đổi, khơng được bằng lịng hay thoả mãn với trình độ
hiện có của mình. Khơng được có thái độ coi thường, hạ thấp và xem nhẹ vấn đề
học tập và tự học tập nâng cao trình độ chun mơn, trình độ lý luận, kỹ năng
nghiệp vụ sư phạm, năng lực quản lý. Thực hiện nghiêm các quy định về chuẩn
mực đạo đức nhà giáo do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định(5), cũng như các
quy định của pháp luật cán bộ, công chức, viên chức. Đồng thời, nhà giáo phải
ln làm mới chính mình bằng những tri thức mới, những thơng tin mới, bài
giảng mới. Cần thuyết phục người học bằng chính sự un bác về kiến thức,
trình độ chun mơn và trí tuệ của mình. Các thầy, cơ giáo cần có thái độ kiên


quyết đấu tranh, ngăn chặn những nhận thức, hành vi không đúng, những biểu
hiện tiêu cực làm ảnh hưởng đến uy tín, phẩm giá, tư cách của nhà giáo.
Các thầy, cô giáo phải thực sự là tấm gương sáng về đạo đức để người học
noi theo. Đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ nhà giáo có vai trị rất quan trọng,
góp phần quyết định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động sư phạm và nâng cao

chất lượng giáo dục - đào tạo của đất nước. Mỗi nhà giáo phải luôn rèn luyện
đạo đức nghề nghiệp để xứng đáng với sự tôn vinh và niềm tin yêu của xã hội.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 2: Quản lý
cảm xúc bản thân của người GVMN
Theo các nhà nghiên cứu tâm lý học, có rất nhiều nguyên nhân gây nên
bạo hành trẻ, và một trong những nguyên nhân sâu xa là giáo viên (GV) thiếu
các kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân.
Phương pháp để quản lý cảm xúc còn hạn chế
GV mầm non là người quyết định trực tiếp đến chất lượng đào tạo ở bậc
học đầu tiên này. Mỗi đứa trẻ sau này sẽ là ai, sẽ trở thành người như thế nào,
nhân cách của trẻ sẽ phát triển ra sao?... Một phần trách nhiệm thuộc về các cô
nuôi dạy trẻ, “người mẹ hiền thứ hai” của các em.
ThS. Trần Thị Thảo, khoa tâm lý Giáo dục Trường ĐH Thủ đô Hà Nội
cho rằng, kỹ năng quản lý cảm xúc bản thân là yếu tố quan trọng trong hoạt
động sư phạm, đặc biệt GV mầm non phải có được kỹ năng này ở mức cao.
GV mầm non rất dễ phải đương đầu với các tình huống liên tục quấy
khóc, nghịch phá, la hét, khơng nghe lời, khơng chịu ăn…ở trẻ cộng với cả núi
công việc chuyên môn khác. Tình trạng này nếu kéo dài khiến họ rơi vào trạng
thái căng thẳng về tâm lý, dẫn đến mất kiểm soát về nhận thức, cảm xúc, hành vi
gây ảnh hưởng xấu đến môi trường học tập của trẻ.
Từ những năm cuối thế kỷ XX trở lại đây, những nghiên cứu về cảm xúc
đã ngày càng được quan tâm ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt đối với các
trường học. Hầu hết các tác giả khi nghiên cứu về cảm xúc cũng chỉ ra những


biểu hiện cảm xúc và nguyên nhân có những cảm xúc đó một cách chung chung,
họ chưa đưa ra những phương pháp để quản lý cảm xúc.
Ở Việt Nam, nghiên cứu vấn đề cảm xúc nói chung, kỹ năng quản lý cảm
xúc nói riêng đang trên bước đường hình thành và phát triển, còn là một lĩnh vực
mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn. Những nghiên cứu về kỹ năng quản lý cảm

xúc bản thân của GV mầm non còn chưa nhiều và các nghiên cứu mới chỉ xoay
quanh thực trạng nhu cầu, hạn chế của hoạt động này ở tầm khái qt.
Chính vì vậy phải có nhiều cơng trình nghiên cứu ở tầm sâu hơn về lĩnh
vực này để góp phần nâng cao, phát triển hồn thiện và phong phú hơn về kỹ
năng quản lý cảm xúc bản thân của GV mầm non, tạo môi trường học tập lành
mạnh, góp phần nâng cao chất lượng GD.
Hiểu được cảm xúc của chính mình
Hiện nay tình trạng bạo hành trẻ ở các có sở GD mầm non có chiều
hướng gia tăng với mức độ ngày càng nghiêm trọng. Nhiều trẻ bị bạo hành đã để
lại những sang chấn tâm lý nặng nề, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe thể chất và
tinh thần.
Điều đáng ngại nhất là đối tượng có hành vi bạo hành với các em lại chính
là những người có trách nhiệm chăm sóc, ni dưỡng các em. Theo các nhà tâm
lý, bên cạnh yếu tố nghề nghiệp, năng lực giáo dục thì căng thẳng tâm lý trong
quá trình chăm sóc, ni dạy trẻ cũng là ngun nhân hàng đầu dẫn đến các
hành vi bạo lực.
Giáo viên căng thẳng, áp lực, liệu học sinh có được thoải mái, vui vẻ?
Hay cảm xúc tiêu cực đó sẽ "lan truyền" tới chính học sinh của mình? Và, lớp
học liệu có "hạnh phúc" hay không khi giáo viên trong tâm thái lo lắng, căng
thẳng như vậy?
Theo ThS. Hoàng Thế Hải, khoa Tâm lý GD, Trường ĐHSP, ĐH Đà
Nẵng, GV mầm non cũng là một trong những đối tượng dễ bị những tác động
gây stress, bởi họ phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thách thức trong cuộc
sống và trong hoạt động nghề nghiệp.


Trong khi đó, đây là đối tượng chủ yếu là nữ, có tính nhạy cảm cao, dễ
xúc động, dễ tổn thương. Những đặc điểm đó khiến giáo viên mầm non dễ nhạy
cảm với những thay đổi và trong những hoàn cảnh nhất định, họ dễ chịu tác
động của các nhân tố gây stress. Khi không vượt qua được, họ dễ rơi vào trạng

thái rối loạn cảm xúc, mức độ nặng hơn có thể là rối nhiều hành vi, bạo hành với
trẻ.
Từ câu chuyện bạo hành trẻ ở Trường Mầm non Ecokids, một điều kiện
tiên quyết, cần thiết đối với thực tiễn của người giáo viên đó là hiểu được cảm
xúc của chính mình. Làm thế nào để tích hợp yếu tố cảm xúc với việc áp dụng
kiến thức chuyên môn của mình trong giảng dạy cũng là một câu hỏi cần sự giải
đáp của mỗi giáo viên.
Cảm xúc của giáo viên có quan hệ mật thiết trong hầu như mọi khía cạnh
của q trình giảng dạy và học tập, do đó việc người giáo viên biết kiểm sốt
cảm xúc của mình mỗi khi lên lớp là rất cần thiết. Đây cũng là bài học dành cho
những giáo viên đã và đang, sẽ trở thành GV mầm non - “người mẹ hiền thứ
hai” của các em.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 3: Rèn luyện
phong cách làm việc khoa học của người GVMN
Giáo viên mầm non là người thầy đầu tiên và quan trọng, dạy trẻ những
bài học đầu tiên của cuộc đời, là người ươm mầm nhân cách cho trẻ. Đây là
nghề có tính đặc thù. Đặc điểm của nghề này là ngịai chun mơn nghiệp vụ
vững vàng, các bạn trẻ phải có tinh thần trách nhiệm cao trong cơng việc và lịng
u trẻ. Là người thầy biết vị tha, chu đáo, gần gũi và nâng niu trẻ em. Giáo
viên mầm non khơng chỉ dạy mà cịn phải dỗ, khơng chỉ giáo dục mà cịn phải
chăm sóc trẻ và điều quan trọng hơn hết đây là nghề “làm việc tình yêu”.
Để trở thành giáo viên mầm non, bạn phải có lịng u trẻ vì đặc thù của
nghề này địi hỏi giáo viên tình u của người mẹ đối với trẻ. Trong một ngày,
hầu hết thời gian sinh họat của trẻ là ở trường với cô. Cô làm mẹ cho bé ăn, dỗ
ngủ. Cô làm thầy dạy cho bé tất cả mọi điều cần thiết đầu đời như: kỹ năng


sống, kiến thức về mơi trường xung quanh, về tóan, văn học, thẩm mỹ, hội họa,
âm nhạc, phát triển thể chất,… ngịai ra, trẻ cịn mong chờ ở cơ sự quam tâm,
chăm sóc, sự giúp đỡ, trìu mến và bảo vệ trẻ…Với thời gian 8 tiếng, có khi là 10

tiếng mỗi ngày, các cô được chứng kiến rất nhiều họat động của trẻ. Nào là tiếng
trẻ khóc, tiếng trẻ vui đùa, trẻ chạy nhảy, trẻ va vào nhau, trẻ ngã, trẻ đánh
nhau… về nhà các cô phải sọan giáo án, đồ dùng dạy học, làm đồ chơi… đòi hỏi
người giáo viên phải rất yêu trẻ, yêu nghề.
Giáo viên phải luôn giữ vững sự bình tĩnh, dịu dàng, yêu thương trẻ.
Họat động trong một ngày của giáo viên mầm non:
- Buổi sáng, các cơ đến trường mở cửa phịng, thơng thóang phòng ốc
- Kê bàn, ghế chuẩn bị tiết học
- Thể dục buổi sáng
- Thực hiện tiết học chính
- Kết thúc giờ học, làm vệ sinh chân tay sạch sẽ trước khi ăn trưa
- Cơ phụ giúp một số cháu khó ăn.
- Kết thúc giờ ăn là giờ ngủ của cháu(các cô thay phiên nhau trực trưa)
- Đầu giờ chiều, tập thể dục đầu giờ chiều cho các cháu thỏai mái tinh
thần.
- Chẩn bị cho trẻ ăn xế.
- Trước khi về vệ sinh các cháu sạch sẽ, thay quần áo mới, thu dọn đồ đạc
cá nhân vào ba lô của các cháu mang về nhà.
Tuy công việc hàng ngày của các cô hơi nhiều nhưng trong mọi họat
động, các cô đều tìm thầy niềm vui trong cơng việc.
Xin gửi tới thầy cô bài viết Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên
module GVMN 4theo quy định Thơng tư 12/2019/TT-BGDĐT về chương trình
bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non để thầy cô cùng tham khảo. Bài thu
hoạch có chủ đề là sinh hoạt chuyên môn ở cơ sở GDMN.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 4: Sinh hoạt
chuyên môn ở cơ sở GDMN


Bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên trực tiếp làm công tác giảng
dạy tại các trường mầm non luôn là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, được các

trường mầm non quan tâm thực hiện, với nội dung và hình thức phong phú.
Trong các hình thức bồi dưỡng chuyên môn, sinh hoạt chuyên môn (SHCM) là 1
hoạt động được thực hiện thường xuyên, góp phần nâng cao kiến thức và kỹ
năng cho giáo viên mầm non, được trường ..............quan tâm thực hiện có hiệu
quả, góp phần nâng cao nhận thức, kỹ năng cho toàn thể đội ngũ giáo viên nhà
trường, đáp ứng nhu cầu chăm sóc giáo dục trẻ trong giai đoạn đổi mới giáo dục
hiện nay.
Hoạt động sinh hoạt chun mơn theo truyền thống trong những năm qua
nhìn chung đã mang lại những hiệu quả to lớn, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục. Từ việc nâng cao năng lực quản lý và năng lực hoạt động chuyên môn
cho CBQL và GV trong nhà trường, giúp CBQL, GV MN đổi mới trong tư duy
và sinh hoạt chuyên môn theo hướng tăng cường hình thức trải nghiệm trong tổ
chức các hoạt động cho trẻ ở trường mầm non; Phát huy rõ nét tính tích cực của
học sinh trong khám phá, lĩnh hội tri thức.
Tuy nhiên, sinh hoạt chuyên môn tại trường mầm non ...........cũng không
tránh khỏi 1 số hạn chế chung mà đa số các trường mầm non đều mắc phải, đó
là:
- Việc thực hiện sinh hoạt chun mơn cịn nặng về hình thức, thể hiện
trên hồ sơ sổ sách, đảm bảo đủ số lượng buổi sinh hoạt theo quy định, chưa có
sự đổi mới nâng cao chất lượng trong nội dung sinh hoạt.
- Các hoạt động SHCM mang tính biểu diễn, làm mẫu, được tập duyệt
nhiều lần trước khi cho giáo viên dự giờ, dẫn đến đa số trẻ mất đi sự hứng thú,
tự nhiên trong hoạt động.
- Giáo viên thường coi hoạt động tổ chức trong buổi SHCM là hoạt động
mẫu, lý tưởng, ít có nội dung thảo luận, phản biện vấn đề đề tìm giải pháp ưu
việt hơn.
- Đơi khi, chính sự tham gia của những người dự giờ làm ảnh hưởng đến
hoạt động của trẻ. Đa số giáo viên dự tập trung soi xét đánh giá hoạt động của



người dạy, theo các khn mẫu nhất định, ít quan tâm đến quá trình hoạt động
của trẻ và hiệu quả hoạt động trên trẻ.
SHCM theo nghiên cứu bài học là hoạt động giáo viên cùng nhau học tập
từ thực tế việc học của trẻ tại lớp. Ở đó, giáo viên cùng nhau thiết kế hoạch bài
học, cùng dự giờ quan sát, suy ngẫm và chia sẻ (tập trung chủ yếu vào việc học
của trẻ) bài học. Đồng thời đưa ra những nhận xét về sự tác động của lời giảng,
các câu hỏi, các nhiệm vụ học tập mà giáo viên đưa ra,... có ảnh hưởng đến việc
học của trẻ. Việc tìm hiểu việc học của trẻ là để nhận diện được tình trạng học
tập của mỗi trẻ khác nhau, những khó khăn, sai lầm và các yếu tố đang cản trở
(hay thúc đẩy) việc học tập của trẻ và tìm ra cách thức để tác động phù hợp, hiệu
quả hơn.Trên cơ sở đó, giáo viên được chia sẻ, học tập lẫn nhau, rút kinh nghiệm
và điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học vào bài học hàng ngày một cách
hiệu quả.
Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học đảm bảo cơ hội học tập và
phát triển cho mọi trẻ em mang lại ý nghĩa to lớn trong quá trình bồi dưỡng,
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, đảm bảo cơ hội phát triển chuyên môn
cho mọi giáo viên, góp phần xây dựng mỗi nhà trường trở thành cộng đồng học
tập
SHCM theo nghiên cứu bài học không nhằm đánh giá, xếp loại giờ dạy
mà ở đó giáo viên được khuyến khích học tập lẫn nhau, cùng nhau tìm ngun
nhân tại sao trẻ học/khơng học, trẻ có hứng thú- khơng có hứng thú với hoạt
động của cơ, đồng thời đề xuất các biện pháp để giúp tất cả trẻ học tập thực sự.
Qua q trình đó giáo viên sẽ có khả năng tự điều chỉnh nội dung, phương pháp
dạy học một cách linh hoạt, phù hợp với đối tượng trẻ của lớp mình.
Trong q trình thực hiện, chúng tơi rút ra 1 số bài học kinh nghiệm như
sau:
Thứ nhất: Đổi mới SHCM theo nghiên cứu bài học phải chú trọng từ việc
thay đổi nhận thức, hành vi của các bên tham gia, từ CBQL chỉ đạo chuyên môn
trong cách thức hướng dẫn giáo viên dạy, đến nhận thức của giáo viên dự giờ
trong cách thức nhận xét đánh giá chất lượng giờ dạy, sau đó mới có thể thay đổi



tư duy của người dạy SHCM, giúp người dạy SHCM tự tin trong thể hiện. Bên
cạnh đó, cần tạo cơ hội cho tất cả giáo viên được tham gia dạy SHCM, bao gồm
cả giáo viên chưa có nhiều kinh nghiệm, không chỉ tập trung ở 1 vài giáo viên
khá tốt thường xuyên tam gia dạy.
- Thứ hai: Đổi mới sinh hoạt chuyên môn phải bắt đầu từ việc đổi mới về
nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động trong Kế hoạch sinh
hoạt chuyên môn của trường, tổ chuyên môn:
+ Về nội dung, nội dung SHCM theo hướng NCBH cần đa dạng, phong
phú, kế hợp hài hòa giữa lý thuyết và thực hành, lấy lý luận về hình thức, nội
dung, phương pháp tổ chức các hoạt động trải nghiệm làm cơ sở lý luận cho việc
tổ chức các hoạt động giáo dục, đồng thời tăng cường các hoạt động thực hành
làm minh chứng cho lý luận. Các nội dung đưa vào SHCM cần bắt nguồn từ nhu
cầu của giáo viên, của học sinh chứ không chỉ là chỉ đạo một chiều theo mong
muốn chủ quan của Ban giám hiệu nhà trường. Mặt khác, cần mở rộng nội dung
sinh hoạt tới tất cả các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ như hoạt động ăn, ngủ,
lao động, vệ sinh, vui chơi…, khơng gói gọn trong các hoạt động học ở trên lớp.
+ Về phương pháp, cần linh hoạt, tránh gị bó, khn mẫu, áp đặt giáo
viên theo lối mịn. Khuyến khích giáo viên thử nghiệm những đề tài mới,
phương pháp mới, trên những đồ dùng, thiết bị mới. Cần xác định hoạt động tổ
chức trong buổi SHCM là hoạt động minh họa chứ không phải là hoạt động
mẫu, lý tưởng, khuyến khích giáo viên trao đổi, thảo luận dân chủ để tìm ra
những hướng đi đúng, những cách làm hay. Sinh hoạt chuyên môn cần phải thay
đổi và đi vào chiều sâu như coi trọng sinh hoạt cho giáo viên về đổi mới phương
pháp dạy học, cập nhật và chia sẻ những kinh nghiệm về tổ chức các hoạt động
dạy học, giải quyết các tình huống trong dạy học; kĩ năng dự giờ, đánh giá giờ
dạy; Dành thời gian nhiều hơn cho việc phân tích, đánh giá và rút kinh nghiệm
các giờ dạy đã được giáo viên trong tổ, nhóm chun mơn dự giờ. Khi thảo luận
cần quan tâm đến quá trình hoạt động của trẻ ra sao, thái độ của trẻ với hoạt

động như thế nào, việc tác động của giáo viên tới hoạt động của trẻ có hợp lý


hay không…chứ không chỉ quan tâm đến phương pháp tổ chức đặc trưng của
từng hoạt động.
+ Về hình thức, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chuyên môn và
nhà trường, để sinh hoạt chuyên môn các cấp tổ, trường…không bị chồng chéo
về nội dung và thời gian tổ chức. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin
trong việc bồi dưỡng chun mơn. Chẳng hạn: lập hịm thư tổ/trường để cùng
chia sẻ thông tin, hướng dẫn chia sẻ kinh nghiệm khai thác tài nguyên phục vụ
bồi dưỡng chuyên môn trên mạng (violet, trang web của Bộ, Sở,...). Các buổi
sinh hoạt chun mơn nên giảm tính hành chính (họp hành, đánh giá, triển
khai... có thể đưa lên hịm thư nội bộ hoặc dán/thông báo lên bảng tin), dành thời
gian chia sẻ kinh nghiệm, lên chuyên đề,... tập trung tháo gỡ khó khăn vướng
mắc cho giáo viên trong chun mơn.
- Thứ ba: Cần chú trọng bồi dưỡng năng lực tổ chức điều hành cho đội
ngũ tổ trưởng những người chủ trì các buổi SHCM vì thực tế cho ta thấy buổi
sinh hoạt chuyên môn thành công phụ thuộc rất nhiều vào khả năng và chun
mơn của người chủ trì. Tổ trưởng tổ chuyên môn phải nêu được vấn đề cần thảo
luận, như vị trí, vai trị, các hình thức tăng cường hoạt động trải nghiệm cho trẻ,
xây dựng môi trường hoạt động trải nghiệm cho trẻ, các tác động của giáo viên
đối với hoạt động của trẻ thế nào là phù hợp và hiệu quả…, hướng giáo viên đến
các tình huống có vấn đề và thống nhất quan điểm chung với vấn đề đưa ra thảo
luận. Cần tăng cường quản lý chặt chẽ của BGH nhà trường tới các hoạt động
sinh hoạt chuyên môn để định hướng, giúp đỡ tổ chuyên môn khi cần.
- Thứ tư: Cần xây dựng một nề nếp sinh hoạt chuyên môn ổn định, chất
lượng. Trong đó, việc tổ chức các hoạt động sinh hoạt chuyên mơn cần thường
xun, đúng kế hoạch. Có sự điều chỉnh, bổ sung trong suốt năm học và năm sau
để sinh hoạt chuyên môn hiệu quả và phong phú hơn.
Qua tổ chức thực hiện SHCM theo hình thức nghiên cứu bài học, cùng với

việc triển khai có hiệu quả mơ hình xây dựng môi trường GD lấy trẻ làm trung
tâm, chất lượng đội ngũ giáo viên nói riêng, chất lượng CSGD trẻ của nhà
trường nói chung đã có nhiều khởi sắc. Đa số giáo viên trong nhà trường đã


mạnh dạn, tự tin hơn trong xây dựng kế hoạch và tổ chức các hoạt động. Các
buổi SHCM của nhà trường khơng cịn là những “màn biểu diễn điêu luyện” của
1 vài giáo viên cốt cán, mà thực sự là không gian cho tất cả giáo viên giao lưu,
trao đổi, chia sẻ tri thức, góp phần hình thành nên một mơi trường học tập tích
cực tại nhà trường.
Xin gửi tới thầy cô bài viết Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên
module GVMN 5theo quy định Thông tư 12/2019/TT-BGDĐT về chương trình
bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non để thầy cơ cùng tham khảo. Bài thu
hoạch có chủ đề là hoạt động tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của GVMN.
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVMN 5: Hoạt động
tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của GVMN
Bậc mầm non là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có
nhiệm vụ chăm sóc, ni dưỡng và giáo dục giúp trẻ phát triển tồn diện. Chính
vì vậy, việc bồi dưỡng chuyên môn, nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên
mầm non luôn là mục tiêu đặt ra hàng đầu đối với các cán bộ quản lí nhà trường.
Trong bài viết dưới đây, KidsOnline xin tổng hợp một số những biện pháp
hữu ích giúp cán bộ, quản lí nhà trường có thể chủ động xây dựng kế hoạch và
có những cách thức phù hợp nhằm bồi dưỡng chuyên môn đội ngũ giáo viên
mầm non.
Biện pháp 1: Nâng cao trình độ trên chuẩn của giáo viên
Để thực hiện tốt công tác bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên
cần phải xây dựng kế hoạch cụ thể xuất phát từ nhu cầu đào tạo của từng giáo
viên (những giáo viên nào cần được nâng cao trình độ? Về vấn đề gì?). Đồng
thời, lập kế hoạch bồi dưỡng dài hạn nhằm xác định mục tiêu và định hướng đào
tạo nhân lực ( Số lượng khóa đào tạo, thời gian diễn ra, kết quả dự tính đạt được,

…). Tham mưu với hiệu trưởng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giáo viên đi học
nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ ở các trường sư phạm.
Ngoài việc được tham gia các lớp tập huấn, khóa đào tạo nghiệp vụ, trong
q trình làm việc giáo viên đều phải có ý thức tự học: tham gia các buổi dự giờ,


sinh hoạt chuyên môn cùng đồng nghiệp, tham quan các trường bạn về cách sắp
xếp, tổ chức môi trường hoạt động cho trẻ,… chủ động học và tìm hiểu thêm
một số kỹ năng cần thiết trong công tác giảng dạy như: các kĩ năng phịng – xử
trí các bệnh và tai nạn thường gặp ở trẻ, kĩ năng ứng xử sư phạm,…
Biện pháp 2: Bồi dưỡng giáo viên chủ động xây dựng hồ sơ
Để công tác bồi dưỡng chuyên môn giáo viên đạt hiệu quả cao, người
quản lí cần phải hiểu rõ giáo viên của mình: trình độ chun mơn, cá tính, năng
lực sư phạm, sở trường trong từng hoạt động, những hạn chế và yếu kém trong
công tác giảng dạy,…Bồi dưỡng giáo viên xây dựng bộ hồ sơ, giáo án là một
trong những phương pháp hữu hiệu giúp đánh giá năng lực, trình độ của giáo
viên để từ đó đưa ra điều chỉnh phù hợp nhằm cải thiện và nâng cao năng lực
cho họ.
Vd: Một số giáo viên còn yếu về năng lực soạn bài, cần tìm hiểu nguyên
nhân cụ thể:
+ Giáo viên chưa biết phương pháp soạn
+ Chưa xác định được mục đích yêu cầu bài
+ Phương pháp biện pháp để ra trong bài soạn chưa chính xác, chưa hợp
lí.
Biện pháp 3: Bồi dưỡng kiến thức tổ chức các hoạt động
Bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ giáo viên qua tiết dạy (dự giờ, thao
giảng, kiến tập) giúp nhà quản lí đánh giá đúng năng lực, trình độ của từng giáo
viên, phân loại theo nhóm để áp dụng kế hoạch bồi dưỡng phù hợp với từng
nhóm giáo viên.
Vd: Cô B dạy lớp trẻ 4-5 tuổi chưa biết cách gây hứng thú để trẻ tập trung

vào bài học. Sau tiết dự giờ, cán bộ quản lí sẽ đưa ra nhận xét và phân tích cho
cơ B hiểu về tầm quan tọng của việc gây hứng thú cho trẻ trước khi bước vào bài
học và đưa ra gợi ý hướng giải quyết vấn đề cô B đang gặp phải.
Biện pháp 4: Đẩy mạnh sinh hoạt tổ chuyên môn
Một biện pháp không thể thiếu trong công tác bồi dưỡng, nâng cao năng
lực cho đội ngũ giáo viên là đẩy mạnh sinh hoạt tổ chuyên môn. Ngay từ khi bắt


đầu năm học, người quản lí cần phân cơng giáo viên phù hợp với các tổ dựa theo
năng lực và trình độ. Khi chọn tổ trưởng cho mỗi tổ chuyên mơn cần chọn lựa
những giáo viên có năng lực chun mơn, nhiệt tình năng động, có khả năng
lãnh đạo để dẫn dắt và điều hành tổ.
Biện pháp 5: Bồi dưỡng thông qua các phong trào thi đua
+ Thi giáo viên dạy giỏi: Thông qua các hội thi giáo viên sẽ được thể hiện
năng lực của bản thân, đánh giá điểm mạnh điểm yếu, rút kinh nghiệm và tự
điều chỉnh để nâng cao trình độ, chun mơn trong cơng tác giảng dạy.
+ Làm đồ dùng sáng tạo: Tổ chức cuộc thi làm đồ dùng mầm non không
chỉ giúp giáo viên nắm được phương pháp và yêu cầu bài dạy mà còn tăng tính
sáng tạo, chủ động tích cực trong việc tự nâng cao năng lực, trình độ của bản
thân
Biện pháp 6: Thực hiện kiểm tra, thanh tra nội bộ
Kiểm tra, thanh tra nội bộ là chức năng, nhiệm vụ của các cấp quản lí nhà
trường và xun suốt q tình quản lí. Cơng tác kiểm tra, giám sát giúp đánh giá
mặt mạnh, yếu của từng cá nhân trong đội ngũ để hoàn thiện tập thể. Kiểm tra
định kỳ hay đột xuất nhằm nâng cao tính tự giác, chủ động của giáo viên và đảm
bảo tính cơng bằng, khách quan.
Biện pháp 7: Phối hợp với các lực lượng trong và ngoài nhà trường
Kết hợp với đoàn thể ngoài trường thực hiện tốt cơng tác giáo dục, chăm
sóc nói chung và bồi dưỡng năng lực đội ngũ giáo viên nói riêng như: Tham
mưu kịp thời với hiệu trưởng đề nghị với các cấp chính quyền địa phương,

Phịng giáo dục và dào tạo hỗ trợ trang thiết bị dạy học như máy tính, máy chiếu
đa năng,…; Huy động phụ huynh học sinh mang đồ phế thải sẵn có để giúp giáo
viên sáng tạo đồ dùng, đồ chơi mầm non…
Mỗi tháng tổ chức chuyên đề, kỹ năng phương pháp giảng dạy cho tổ
chuyên môn thảo luận. Sau đó tổ chức dạy mẫu để thực hiện các chủ đề, chủ
điểm nói trên. Bên cạnh đó, khảo sát lại năng lực chuyên môn của từng giáo
viên thông qua dự giờ, thăm lớp. Đối với những giáo viên mới vào trường và
giáo viên lớn tuổi cần có kế hoạch bồi dưỡng phù hợp.


×