Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Quy luật giá trị và sự vận dụng quy luật này trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.22 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ LÊ HỒNG PHONG
LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ K.17A-21 (QUẬN BA ĐÌNH)

BÀI THU HOẠCH
THI, KIỂM TRA HẾT PHẦN HỌC
Đề bài: Quy luật giá trị và sự vận dụng quy luật này trong nền Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta?


Mục Lục
MỞ ĐẦU..............................................................................................................3
CHƯƠNG 1..........................................................................................................4
QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG
NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ.............................................................................4
1.1. Quy luật giá trị..........................................................................................4
1.1.1. Nội dung của quy luật giá trị.............................................................4
1.1.2. Hình thức biểu hiện của quy luật giá trị...........................................5
1.2. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá........................5
CHƯƠNG 2........................................................................................................10
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG QUY LUẬT GIÁ TRỊ.........10
VÀO NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG..................................10
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.............................................................10
2.1. Thực trạng vận dụng quy luật giá trị trong nền kinh tế ở nước ta....10
2. 2. Giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở nước ta trong
thời gian tới....................................................................................................11
KẾT LUẬN........................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................15

2



MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hàng hố, có những quy luật kinh tế chi phối hoạt động
của những người quản lý sản xuất hàng hoá. Quy luật kinh tế hoạt động ở mỗi
phương thức sản xuất hợp thành hệ thống tác động chi phối hoạt động của
phương thức sản xuất đó. Vì vậy, việc tìm hiểu và nắm bắt các quy luật kinh tế
có ý nghĩa hết sức to lớn. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta
đang xây dựng mơ hình kinh tế là: “Nền kinh tếthị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa”.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thơng hàng
hóa, ở đâu có sản xuất và lưu thơng hàng hóa thì ở đó có quy luật giá trị hoạt
động và phát huy tác dụng. Xuất phát từ vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng đó, tác
giả lựa chọn chủ đề “Quy luật giá trị và sự vận dụng quy luật giá trị trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” là đề tài
tiểu luận của mình. Tiểu luận được kết cấu thành 02 chương gồm:
Chương 1: Quy luật giá trị và vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế
hàng hóa
Chương 2: Thực trạng và giải pháp việc vận dụng quy luật giá trị vào nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

3


CHƯƠNG 1
QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG
NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ

1.1. Quy luật giá trị
1.1.1. Nội dung của quy luật giá trị
Trong nền kinh tế hàng hoá, hàng hoá và dịch vụ do các doanh nghiệp,
những người sản xuất hàng hoá tư nhân, riêng lẻ sản xuất ra. Những chủ thể sản

xuất hàng hoá cạnh tranh với nhau. Mỗi người sản xuất hàng hoá đều nghĩ đến
cách chen lấn người khác, đều muốn giữ vững và mở rộng thêm địa vị của mình
trên thị trường, xét đến cùng đều vì mục đích lợi nhuận. Mỗi người đều tự mình
sản xuất khơng phụ thuộc vào người khác, nhưng trên thị trường những người
sản xuất hàng hố là bình đẳng với nhau. Sản xuất hàng hố càng phát triển thì
quyền lực của thị trường đối với người sản xuất hàng hố càng mạnh. Nói như
thế có nghĩa là trong nền kinh tế hàng hố có những quy luật kinh tế ràng buộc
và chi phối hoạt động của những người sản xuất hàng hoá.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và lưu
thơng hàng hố. Quy luật giá trị quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải
căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết. Nó biểu hiện mối quan hệ xã hội
giữa những người sản xuất, trao đổi hàng hóa, mà cơ sở của sự trao đổi chính là
hao phí lao động xã hội cần thiết chứ khơng phải là hao phí lao động cá biệt.
Bởi vì trong nền sản xuất hàng hóa, cùng một loại hàng hóa có thể có
nhiều người sản xuất ra. Tuy nhiên, do trình độ tay nghề khác nhau, cơng nghệ
khác nhau, năng suất khác nhau,…nên hao phí cá biệt để sản xuất ra hàng hóa là
khác nhau.
Quy định ấy là khách quan, đảm bảo sự công bằng hợp lý, bình đẳng giữa
những người sản xuất và trao đổi hàng hoá. Quy luật giá trị buộc những người
sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo "mệnh lệnh" của giá cả thị trường.
4


Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy
luật giá trị. Giá cả thị trường lên xuống một cách tự phát xoay quanh giá trị hàng
hoá và biểu hiện sự tác động của quy luật giá trị trong điều kiện sản xuất và trao
đổi hàng hoá. Song trên thị trường, do cạnh tranh giữa những người bán với
người bán, giữa người bán với người mua và giữa người mua với người mua…
mà hàng hóa khơng phải bán theo hao phí lao động cá biệt mà là hao phí lao
động xã hội cần thiết.

1.1.2. Hình thức biểu hiện của quy luật giá trị
Quy luật giá trị hoạt động thông qua sự lên xuống của giá cả thị trường,
giá cả thị trường là biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường. Nó lên xuống xoay
quanh giá trị thị trường, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu và một số yếu tố khác;
giá cả thị trường là mệnh lệnh đối với mọi người sản xuất và trao đổi hàng hóa,
căn cứ vào giá cả hàng hóa trên thị trường, người sản xuất sẽ biết được hao phí
lao động cá biệt của mình cao hơn hay thấp hơn hao phí lao động xã hội cần
thiết. Từ đó họ quyết định mở rộng hay thu hẹp quy mô sản xuất, cũng như đưa
ra các giải pháp tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất xuống thấp hơn
mức trung bình của xã hội. Tức là quyết định sản xuất ra cái gì? Sản xuất bao
nhiêu? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai?
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn: sản phẩm làm ra, trao đổi với mục
đích là để thoả mãn nhu cầu cá nhân.Vì vậy, lưu thơng và bn bán khơng phải
là mục đích chính của người sản xuất.
Trong nền sản xuất hàng hố TBCN: Hàng hố được làm ra khơng đơn
thuần để trao đổi mà cịn để bn bán và lưu thơng. Giá trị hàng hố biểu hiện ra
bằng tiền được gọi là giá cả hàng hoá.
Trong nền kinh tế XHCN, tiền tệ cũng dùng làm tiêu chuẩn giá cả. Tuỳ
vào từng giai đoạn mà quy luật giá trị có các hình thức chuyển hố khác nhau.
Trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, quy luật giá trị chuyển hoá thành quy
luật giá cả sản xuất. Trong giai đoạn CNTB độc quyền, quy luật giá trị chuyển
hoá thành quy luật giá cả độc quyền cao.
5


1.2. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và lưu
thông hàng hố. Trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn, quy luật giá trị có ba tác
dụng cơ bản đó là: Tự phát điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa; kích thích
cải tiến kỹ thuật và cơng nghệ, hợp lý hóa sản xuất tăng năng suất lao động;

phân hóa giàu nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa làm nảy sinh quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa, cụ thể như sau:
a) Điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hố
Trong nền sản xuất hàng hố dựa trên chế độ tư hữu thường xảy ra tình
hình: người sản xuất bỏ ngành này, đổ xô vào ngành khác; tư liệu sản xuất và
sức lao động xã hội được chuyển từ ngành này sang ngành khác, quy mô sản
xuất của ngành này thu hẹp lại thì ngành kia lại mở rộng ra với tốc độ nhanh
chóng. Chính quy luật giá trị đã gây ra những hiện tượng đó, đã điều tiết việc
sản xuất trong xã hội. Muốn hiểu rõ vấn đề này, cần xem xét ở 3 trường hợp
thường xảy ra trên thị trường hàng hoá gồm: Giá cả nhất trí với giá trị; giá cả
cao hơn giá trị; giá cả thấp hơn giá trị. Cụ thể:
Trường hợp thứ nhất: Khi giá cả phù hợp với giá trị nói lên cung và cầu
trên thị trường nhất trí với nhau, sản xuất vừa khớp với nhu cầu của xã hội. Do
dựa trên chế độ tư hữu, sản xuất hàng hoá tiến hành một cách tự phát, vơ chính
phủ, nên trường hợp này hết sức hiếm và ngẫu nhiên. (Hay nói cách khác trường
hợp cung = cầu là hiếm có).
Trường hợp thứ hai: Khi giá cả hàng hóa cao hơn giá trị nói lên cung ít
hơn cầu, sản xuất khơng thoả mãn được nhu cầu của xã hội nên hàng hoá bán
chạy và lãi cao. Do đó, những người sản xuất loại hàng hố đó sẽ mở rộng sản
xuất; nhiều người trước kia sản xuất loại hàng hoá khác cũng chuyển sang sản
xuất loại này. Tình hình đó làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động được
chuyển vào ngành này nhiều hơn các ngành khác.
Trường hợp thứ ba: Khi giá cả hàng hóa thấp hơn giá trị nó cho thấy cung
cao hơn cầu, sản phẩm làm ra quá nhiều so với nhu cầu xã hội, hàng hoá bán
6


khơng chạy và bị lỗ vốn. Tình hình đó buộc một số người sản xuất ở ngành này
phải rút bớt vốn chuyển sang ngành khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao
động giảm đi ở ngành này.

Như vậy là theo "mệnh lệnh" của giá cả thị trường lúc lên, lúc xuống xoay
quanh giá trị mà có sự di chuyển tư liệu sản xuất và sức lao động từ ngành này
sang ngành khác, do đó quy mơ sản xuất của ngành đó mở rộng. Việc điều tiết tư
liệu sản xuất và sức lao động trong từng lúc có xu hướng phù hợp với yêu cầu
của xã hội, tạo nên những tỷ lệ cân đối nhất định giữa các ngành sản xuất. Đó là
biểu hiện vai trị điều tiết sản xuất của quy luật giá trị. Nhưng sản xuất trong
điều kiện chế độ tư hữu, cạnh tranh, vơ chính phủ nên những tỷ lệ cân đối hình
thành một cách tự phát đó chỉ là hiện tượng tạm thời và thường xuyên bị phá vỡ,
gây ra những lãng phí to lớn về của cải xã hội. Quy luật giá trị không chỉ điều
tiết sản xuất mà điều tiết cả lưu thông hàng hố. Giá cả của hàng hố hình thành
một cách tự phát theo quan hệ cung cầu. Cung và cầu có ảnh hưởng đến giá cả,
nhưng giá cả cũng có tác dụng khơi thêm luồng hàng, thu hút luồng hàng từ nơi
giá thấp đến nơi giá cao. Vì thế, lưu thơng hàng hố cũng do quy luật giá trị điều
tiết thông qua sự lên xuống của giá cả xoay quanh giá trị.
Ví dụ: Trong năm 2019, khi mới bắt đầu bùng phát dịch Covid-19, các
mặt hàng thiết bị y tế có giá tăng cao gấp nhiều lần so với giá trị thực của nó.
Điều đó cho thấy một thực trạng là: Nguồn cung thiết bị, vật tư y tế tại thời điểm
đó bị thiếu (sản xuất khơng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng) và nhu cầu của thị
trường lớn. Chính điều đó đã dẫn đến hệ quả các thiết bị, vật tư y tế tăng giá cao
gấp nhiều lần. Sau khih có sự can thiệp của nhà nước bằng nhiều biện pháp
(biện pháp kinh tế, biện pháp tâm lý, biện pháp pháp lý) thì đã dần ổn định được
thị trường thiết bị vật tư y tế ở nước ta.
b) Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hố sản xuất nhằm tăng năng suất
lao động.
Các hàng hoá được sản xuất trong những điều kiện khác nhau nên có giá
trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường đều phải trao đổi theo giá trị xã hội.
Người sản xuất nào có giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội thì có
7



lợi; trái lại, người có giá trị cá biệt cao hơn giá trị xã hội sẽ ở thế bất lợi, có thể
bị phá sản. Để tránh bị phá sản và giành ưu thế trong cạnh tranh, mỗi người sản
xuất hàng hố đều tìm cách giảm giá trị cá biệt hàng hố của mình xuống dưới
mức giá trị xã hội bằng cách cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để tăng năng
suất lao động. Lúc đầu, chỉ có kỹ thuật của một số cá nhân được cải tiến, về sau
do cạnh tranh nên kỹ thuật của toàn xã hội được cải tiến. Như thế là quy luật giá
trị đã thúc đẩy lực lượng sản xuất và sản xuất phát triển.
Ví dụ: Có hai nhà máy là A và B cùng sản xuất xi măng. Nhưng khi bán ra
thị trường lại với 2 mức giá khác nhau. Cụ thể xi măng của nhà máy A bán với
mức giá 5$/ tạ; tuy nhiên do nhà máy B biết áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến
vào quá trình sản xuất, vì vậy đã làm tăng năng suất lao động của nhà máy, và
cùng thời gia lao động như nhau, nhưng nhà máy B lại sản xuất ra nhiều xi măng
hơn nhà máy A, vì vậy nhà máy B bán với mức giá là 4$/ tạ. Từ đó, để tồn tại
được thì buộc nhà máy A phải áp dụng các biện pháp để hạ giá thành sản phẩm,
tăng sức cạnh tranh với nhà máy B, và một trong các biện pháp được áp dụng đó
là ứng dụng, cải tiến kỹ thuật vào trong q trình sản xuất của nhà máy.
c) Phân hố những người sản xuất hàng hoá nhỏ, làm nảy sinh quan hệ
kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Trên thị trường, các hàng hố có giá trị cá biệt khác nhau đều phải trao đổi
theo giá trị xã hội. Do đó, trong q trình sản xuất và trao đổi hàng hố khơng
tránh khỏi tình trạng một số người sản xuất phát tài, làm giàu, còn số người khác
bị phá sản.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, sự tác động của quy luật giá trị
dẫn đến kết quả là một số ít người mở rộng dần kinh doanh, thuê nhân công và
trở thành nhà tư bản, còn một số lớn người khác bị phá sản dần, trở thành những
người lao động làm thuê. Thế là sự hoạt động của quy luật giá trị dẫn tới hệ phân
hoá những người sản xuất hàng hoá, làm cho quan hễ tư bản chủ nghĩa phát
sinh. Lênin nói "… nền tiểu sản xuất thì từng ngày, từng giờ, luôn luôn đẻ ra chủ
nghĩa tư bản và giai cấp tư sản, một cách tự phát và trên quy mơ rộng lớn".
Trong nền sản xuất hàng hố tư bản chủ nghĩa, quy luật giá trị cũng tác

8


động hoàn toàn tự phát "sau lưng" người sản xuất, hoàn toàn ngoài ý muốn của
nhà tư bản. Chỉ trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chiếm địa vị thống trị, con người mới có thể nhận thức và vận dụng
quy luật giá trị một cách có ý thức để phục vụ lợi ích của mình.
Nghiên cứu quy luật giá trị không chỉ để hiểu biết sự vận động của sản
xuất hàng hố, trên cơ sở đó nghiên cứu một số vấn đề khác trong xã hội tư bản
chủ nghĩa, mà cịn có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa coi trọng việc vận dụng
quy luật giá trị trong việc quy định chính sách giá cả, kế hoạch hoá nền kinh tế
quốc dân, thực hiện hạch toán kinh tế v.v..

9


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG QUY LUẬT GIÁ TRỊ
VÀO NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

2.1. Thực trạng vận dụng quy luật giá trị trong n ền kinh t ế ở n ước
ta.
Quy luật giá trị tạo ra một môi trường cạnh tranh khốc liệt. Nếu khơng có
cạnh tranh thì khơng có kinh tế thị trường nên nó dần hồn thiện cơ chế thị
trường đang được xây dựng ở nước ta. Tuy nhiên quy luật giá trị có tác dụng
phân hố những người sản xuất nhỏ, phân hoá giàu nghèo, dẫn dến bất cơng
bằng trong xã hội. Từ đó hình thành nên mâu thuẫn giữa hiệu quả và công bằng
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Quy luật giá trị, cùng với sự tác động của cung, cầu quyết định giá cả có ý
nghĩa quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó điều tiết sản xuất và lưu thơng
hàng hố, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật. Như vậy nó đã góp phần giúp nền kinh tế
phát triển mạnh.
Trước đổi mới, nền kinh tế của nước ta kém phát triển, hậu quả đó từ
nhiều nguyên nhân dẫn tới, tuy nhiên trong số rất nhiều ngun nhân thì có một
trong những ngun nhân cơ bản đó là sự vận dụng một cách máy móc học
thuyết Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước tá, trong đó có sự vận dụng
quy luật giá trị. Khi nhà nước ta thực hiện một nền kinh tế kế hoạch hóa, q
trình sản xuất hàng hóa được thực hiện theo kế hoạch mà không cần quan tâm
đến nhu cầu của thị trường, từ đó dẫn đến tình trạng một số hàng hóa sản xuất ra
thì thừa, một số hàng hóa sản ra lại khơng đáp ứng được nhu cầu thị trường,…
mặt khác, chủ trương đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất trong khi đó quan
hệ sản xuất của ta vẫn còn chưa đáp ứng, chưa phù hợp với trình độ của lực
10


lượng sản xuất, từ đó khơng những nó kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế mà
còn làm cho nền kinh tế của nước ta ngày càng lâm vào tình trạng khó khăn.
Sau khi đổi mới quy luật giá trị được nhà nước vận dụng vào kế hoạch
hoá mang tính định hướng và phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Nhà
nước phải dựa trên tình hình định hướng giá cả thị trường để tính tốn vận dụng
quy luật giá trị vào việc xây dựng kế hoạch. Do giá cả hàng hố là hình thức
biểu hiện riêng của giá trị, nhưng nó cịn chịu sự tác động của các quy luật kinh
tế khác như quy luật cung cầu.
Nhờ thực hiện đổi mới kinh tế, vận dụng đúng các quy luật kinh tế. Từ
năm 1991 nền kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng với tốc độ khá cao, trung bình
7,67% hàng năm từ 1991-1999, mức kỷ lục là 9,54% năm 1995. Từ năm 1998,
tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm do nhiều nguyên nhân trong đó chủ yếu là
yếu kém về cơ cấu và thể chế cũng như tác động của cuộc khủng hoảng tài chính

châu Á. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao trong những năm
1990, Việt Nam đã khá thành công trong việc kiềm chế và kiểm soát lạm phát.
Chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 67,5% năm 1991 xuống còn 0,1% năm 1996. Một
trong những tác động quan trọng nhất của chuyển đổi nói chung và của tăng
trưởng kinh tế nói riêng là cải thiện chỉ số GDP bình qn đầu người. Theo giá
hiện hành, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng từ 222 USD năm
1991 lên 400 USD năm 2000. Thu nhập của nhóm dân cư tăng đã làm thay đổi
cơ cấu chi tiêu theo hướng tích cực. Tăng trưởng kinh tế trong thập kỷ qua đã có
tác động tích cực tới giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị, từ 9-10% năm
1990 xuống còn 5,8% năm 19961.
2. 2. Giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở nước ta

trong thời gian tới
Một là, điều tiết, quản lý vĩ mô: Nhà nước sử dụng các công cụ để điều tiết
vĩ mô nền kinh tế, cụ thể sử dụng pháp luật, chính sách đầu tư, thuế, đào tạo
nhân lực,…. Đồng thời nhà nước cần có những giải pháp như: Hoạch định chính
sách ngành nghề dài hạn cho nền kinh tế quốc dân. Thực hiện quản lý, giám sát
1 Tổng cục Thống kê, Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội, con người.

11


và bảo vệ trật tự thị trường. Hoạch định chính sách thu nhập, điều tiết phân phối
thu nhập,…để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường ở nước ta. Cùng với đó là phát huy vai trò giám sát của xã hội, nhằm
khắc phục nhược điểm và mặt tiêu cực của thị trường.
Hai là, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, tham gia các tổ chức
thương mại quốc tế và khu vực: Cần phải nâng cao sức cạnh tranh trên mọi lĩnh
vực. Bao gồm 3 yếu tố: khả năng cạnh tranh của từng mặt hàng dịch vụ, khả
năng cạnh tranh của quốc gia và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.

Muốn nâng cao sức cạnh tranh cần đầu tư vào nghiên cứu, ứng dụng và triển
khai khoa học cơng nghệ. Vì chính khoa học cơng nghệ sẽ làm giảm chi phí cá
biệt tăng năng suất lao động, từ đó tăng khả năng cạnh tranh. Mặt khác cần phải
khuyến khích nghiên cứu khoa học công nghệ thông qua các cách thức, biện
pháp phù hợp như: đầu tư về trang thiết bị, xây dựng văn bản pháp luật về "bảo
hộ sở hữu trí tuệ" v.v..
Ba là, có cơ chế, chính sách giải quyết tốt mâu thuẫn giữa hiệu quả và
công bằng, giảm bất bình đẳng trong xã hội: Về mặt khách quan bộ phận dân cư
cần được hỗ trợ của các chính sách xã hội được chia thành hai phần. Phần dân
cư chịu sự thiệt thòi tự nhiên so với phần còn lại do họ bị khiếm khuyết mặt nào
đó trong năng lực cá nhân và do đó thường xuyên có thu nhập thấp. Đó chủ yếu
là người tàn tật, thương binh, gia đình chính sách, các dân tộc thiểu số có trình
độ văn hố thấp. Phần cịn lại bao gồm những cá nhân gặp khó khăn về thu nhập
khơng thường xun do biến động của kinh tế, chính trị, chiến tranh và thiên tai.
Bộ phận này ln thay đổi theo tình hình phát triển kinh tế của đất nước.
Nhìn chung gánh nặng phúc lợi xã hội của nước ta khá lớn do hậu quả
chiến tranh kéo dài do điều kiện kinh tế xã hội quá thấp và do tốc độ tăng dân số
quá nhanh trong khi đất đai, tài nguyên của nước ta có hạn. Để giải quyết tốt các
vấn đề an sinh xã hội, chính phủ cần xây dựng phát huy các chính sách như: tạo
ra cơ hội có việc làm, mở các trường dạy nghề, giúp đỡ gia đình neo đơn khó
khăn, nhóm người yếu thế trong xã hội,...
12


Bốn là, chú trọng đầu tư cho giáo dục: Giáo dục để nâng cao trình độ,
kiến thức cho tồn dân trong đó có trình độ về tổ chức, quản lý hoạt đọng sản
xuất kinh doanh, trình độ ứng dụng khoa học cơng nghệ vào sản xuất kinh
doanh, trình độ, tay nghề của người lao động,… Khi đó, góp phần làm giảm giá
trị cá biệt của hàng hoá so với giá trị xã hội, có khả năng giành ưu thế trong cạnh
tranh. Bên cạnh đó, đầu tư cho giáo dục sẽ giúp cho năng lực lao động của toàn

xã hội được gia tăng nhanh chóng.

13


KẾT LUẬN
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích về quy luật giá trị và vai trò của quy luật
giá trị cũng như sự vận dụng quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Chúng ta có thể
thấy được vai trị và phạm vi ảnh hưởng vô cùng to lớn của quy luật giá trị đối
với nền kinh tế của Việt Nam. Quy luật là khách quan, sự vận dụng của con
người là chủ quan, chính vì vậy chỉ có nhận thức đúng quy luật khách quan và
nắm chắc điều kiện cụ thể của nền kinh tế thì chúng ta mới có sự vận dụng đúng
đắn, sáng tạo và hiệu quả để phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đặc biệt chỉ có nhận thức sâu sắc và vận dụng linh hoạt, sáng tạo quy
luật giá trị vào điều kiện cụ thể của nền kinh tế nước ta thì mới tạo điều kiện để
kích thích phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế, đẩy nhanh hội nhập kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng.
Bên cạnh đó, cùng với q trình phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, mỗi chúng ta cần phải nâng cao cảnh
giác, chủ động đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái xuyên tạc lý luận giá
trị của C.Mác, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ thành quả
của công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.

C. Mác, Ăng ghen toàn tập, quyển 3, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự

thật, H.1999
2.

C. Mác, Ăngghen toàn tập, quyển 1, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia- Sự

thật, H.1999.
3.

Giáo trình Trung cấp lý luận chính trị, Nội dung cơ bản của chủ nghĩa

Mác - Lênin, Nxb Lý luận chính trị.
4.

Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin về phương thức sản xuất tư bản

chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia.

15



×