Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Tài liệu Những bài ca dao truyền miệng hay nhất docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.44 KB, 29 trang )





Những bài ca dao truyền miệng hay nhất

Nhọc nhằn chẳng muốn ăn khoai
Luộc một nồi bộng, lựa hai củ sùng

Nhọc nhằn nỏ muốn ăn khoai
Nấu một nồi bộng, lựa hai củ sùng
Đánh một tiếng tùng
Của sùng cũng hết

Nhỏ còn thơ dại biết chi
Lớn thì đi học, học thì phải siêng
Theo đòi cũng thể bút nghiêng
Thua em kém chị cũng nên hổ mình

Người khôn nhọc lo
Người dại ăn no lại nằm.

Ở bầu hình dáng nên tròn
Xấu tốt thì đều rắp một khuôn
Lân cận nhà giàu no bữa cốm
Bạn bè kẻ trộm phải ăn đòn
Chơi cùng đứa dại nên người dại
Kết với người khôn học nết khôn
Sống nới đẳng thấp, thành đẳng thấp
Muốn đen gần mực, đỏ gần son!


Quả cau nho nhỏ
Cái vỏ vân vân,
Nay anh học gần,
Mai anh học xạ
Tiền gạo thì của mẹ cha
Cái nghiên cái bút thật là của em

Quả cau nho nho cái vỏ vân vân
Nay anh học gần, Mai anh học xa
Lấy nhau từ thuở mười ba
Đến năm mười tám thiếp đà năm con.
Ra đường người nghĩ còn son
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.

Quả cau nho nhỏ cái vỏ vân vân ()
Nay anh học gần, mai anh học xa
Tiền gạo thì của mẹ cha
Cái nghiên cái bút thật là của em

Quý hồ nhiều lúa là tiên
Rõ ràng phú túc, bình yên cả nhà
Bốn mùa xuân lại thu qua
Muốn cho thóc lúa đầy nhà hán sương
Bước sang hạ giá thu tàn
Thu thu tiền hoạch, giầu sang Thạch Sùng
Quý nhân dùng kẻ anh hùng
Rắp toan muốn hỏi nhà nông ê hề
Thật là chân chỉ thú quê
Chuyên cần học nghiệp, học nghề đoan trang
Gặp thời là được thọ khang

Tam đa ngũ phúc, rõ ràng trời cho!

Rắp toan cỡi ngựa ra về
Chàng đề câu đối thiếp đề câu thơ.
Mải vui ngồi chốn đám cờ
Tưởng nhân duyên ấy bao giờ cho quên.
Chàng về giữ việc bút nghiên
Đừng tham nhan sắc mà quên học hành.
Một mai chiếm được khoa danh
Trước là rạng nghiệp sau mình vinh thân.

Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưụ
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừạ

Rủ nhau đi học i o
Mỗi ngày một chữ, con bò cũng thông

Thân anh khó nhọc trăm phần
Sáng đi ruộng lúa, tối nằm ruộng dưa
Vội đi quên cả cơm trưa
Vội về quên cả trời mưa ướt đầu

Thấy anh ăn học Sài Gòn
Tôi đây xin hỏi trăng tròn mấy đêm
Anh đứng giữa trời không dám nói thêm
Trăng rằm mười sáu hai đêm trăng tròn
Xem bài đọc thêm: Chơ. Saigòn
Tiếng anh ăn học cựu trào ()

Chị dâu té giếng, anh nắm chỗ nào kéo lên
- Nắm đầu thì khổ
Nắm cổ lại không nên
Nắm chân tay thì lỗi niềm huynh đệ
Vậy anh cứ "bớ làng là hơn"
Câu đố nầy dựa vào quan điểm "nam nữ thụ thụ bất tương thân"
Tháng giêng lúa mới chia vè
Tháng tư lúa đã đỏ hoe đầy đồng.
Chị em đi sắp gánh gồng
Đòn càn tay hái ta cùng ra đị
Khó nghèo cấy mướn gặt thuê
Lấy công đổi của chớ hề luy aị
Tháng hai cho chí tháng mười
Năm mười hai tháng em ngồi em suy
Vụ chiêm em cấy lúa đi
Vụ mùa lúa ré, sớm thì ba giăng.
Thú quê rau cá đã từng
Gạo thơm cơm trắng chi bằng tám xoan.
Việc nhà em liệu lo toan
Khuyên chàng học tập cho ngoan kẻo mà.
Tháng sáu em cấy anh bừa
Tháng mười em gặt anh đưa cơm chiềụ

Tháng năm cho chí tháng mười
Năm mười hai tháng em ngồi em suy:
Vụ chiêm em cấy lúa đi
Vụ mùa, lúa dé, sớm thì ba trăng,
Thú quê, rau cá đã từng
Gạo ngon, cơm trắng chi bằng tám xoan
Việc nhà em liệu lo toan

Khuyên chàng học tạp cho ngoan kẻo mà

Thầy đi học đạo làm chi
Tương chao có biết hơn gì hay không ?

Thú quê rau cá đã từng
Gạo thơm cơm trắng chi bằng tám xoan
Việc nhà em liệu lo toan
Khuyên chàng học tập cho ngoan kẻo mà

Con ăn con ngủ cho no
Con lẫ con chửng con bò con đi
Ngày sau con học con thi
Mẹ mong con đỗ mẹ thì nhờ con

Tiếng anh nho sĩ học trò
Sao anh cạn dạ không dò ý em

Trai thì đi học đỗ ba khoa liền
Khoa trước thì đỗ khôi nguyên
Khoa sau tiến sĩ đỗ liền ba khoa
Vinh qui bái tổ về nhà
Ăn mừng hai họ đủ ba tháng chày
Hàng phủ, hàng huyện đông tây
Rủ mừng quan trạng tới ngày hiển vinh

Trách lòng em bậu đãi đưa
Gạt anh dãi nắng dầm mưa nhọc nhằn

Trên trời có đám mây vàng

Bên sông nước chảy có nàng quay tơ.
Nàng buồn nàng bỏ quay tơ
Chàng buồn chàng bỏ thi thơ học hành.
Nàng buồn nàng bỏ cửi canh
Chàng buồn chàng bỏ học hành chàng đi.

Triều đình còn chuộng thi thư
Khuyên anh đèn sách sớm trưa học hành.
May nhờ phận có công danh
Mà anh phú quý, ấy mình vẻ vang
Khuyên đừng trai gái loang toàng
Khuyên đừng chè rượu nữa mang tiếng người.
Cũng đừng cờ bạc đua chơi
Sao cho sự nghiệp ra người trượng phu.
Làm sao nên tiếng danh nho
Thần trung, tử hiếu để cho vang lừng!

Trời mưa cho ướt lá riềng
Mua giấy mua bút mua nghiên học hành.
Chàng về em gửi đôi chanh
Trái chín nhuộm áo, trái xanh gội đầu.

Văn chương (Thông ngôn) phú lục chẳng hay
Trở về làng cũ học cày cho xong
Ngày ngày vác cuốc thăm đồng
Hết nước thì lấy gàu sòng tát lên.
Hết mạ ta lại quẩy thêm
Hết lúa ta lại mang tiền đi đong.
Nay mai lúa tốt đầy đồng
Gặt về đập sảy bõ công cấy cày.


Một yêu mặt trắng má tròn
Hai yêu môi mọng thoa son điểm hồng
Ba yêu mắt sáng mày cong
Bốn yêu mái tóc nực nồng nước hoa Năm yêu mảnh áo ngắn tà
Sáu yêu quần trắng là đà gót sen
Bảy yêu vóc liễu dịu mềm
Tám yêu giọng nói vừa hiền vừa vui
Chín yêu học thức hơn người
Mười yêu, yêu cả đức tài hình dong!
Tại Sài Gòn vào năm , trong truyện dài bằng thơ Lời Tâm Sự của Thuần Phong
đăng trên tạp chí Cùng Bạn, cũng có một bài thơ giễu nhẹ các cô tân thời:

Xin chàng kinh sử học hành
Để em cày cấy cửi canh kịp người
Mai sau xiêm áo thảnh thơi
Ơn trời lộc nước đời đời hiển vinh

Em thì canh cửi việc nhà
Nuôi anh ăn học đăng khoa bảng vàng
Trước là vinh hiển tổ đường
Bõ công đèn sách lưu hương con nhà
Rước vinh quy về nhà bái tổ
Ngả trâu bò làm lễ tế vua
Họ hàng ăn uống say sưa
Hàng Tổng hàng Huyện mừng cho ông Nghè
Nghè là người đỗ tiến sĩ thời xưa; Hoãn là đôi bông tai

Trời làm tháng sáu giá chân
Tháng một nằm trần nóng đổ mồ hôi

Con chuột kéo cày lồi lồi
Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong
Vườn rộng thì thả rau rong
Ao sâu giữa đồng vãi cải làm dưa
Con bò đi tắm ban trưa
Một đàn con vịt cày bừa ruông nương
Con voi nằm ở gầm giường
Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn
Chuồn chuồn thấy cám liền ăn
Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua
Trời mưa cho mối bắt gà
Thòng đong con cấn đuổi cò lao xao
Lươn nằm cho trúm bò vào (*)
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô
Thóc giống cắn chuột trong bồ
Lá lúa lá mạ đuổi vồ chân trâu
Chim chích cắn cổ diều hâu
Gà con tha qua biết đâu mà lần
Cầy cáo thì đuổi chó săn
Một đàn con chuột đuổi ăn con mèo
Trúm: Ống tre bẫy lươn
Trèo lên cây khế nửa ngày
Ai làm chua xót lòng này khế ơi!
Khế chết khế lại mọc chồi
Để sung mọc nhĩ để hồi đeo hoa (*)
Đôi bên bác mẹ cùng già
Lấy anh hay chữ để mà cậy trong
Mùa hè cho chí mùa đông
Mùa nào áo ấy cho chồng đi thi
Hết gạo thiếp lại gánh đi

Hỏi thăm trường học vậy thì nơi nao
Hỏi thăm đến ngõ thì vào
Tay cắp thúng gạo miệng chào thưa anh
Trong thì mặc áo đào xanh
Ngoài thì bươm bướm bay quanh dập dìu
Gỗ cây sung mọc nấm tai mèo; (Bác mẹ là cha mẹ)
Vịt nằm bờ mía rỉa lông
Cám cảnh thương chồng ăn học đường xa

Dốt đến đâu học lâu cũng biết
Lợi đâu không biết lại thiệt vào thân
Hơn nhau tấm áo manh quần
Thả ra mình trần ai cũng như ai

Thứ nhất Ba Gia Thứ hai Tú Xuất
Tráo trưng lưng bát ngồi mát bát đầy
Khéo miệng mà chả khéo tay
Đẽo cày ra cuốc còn hay nỏ mồm
Hai người đứng đầu về châm biếm chuyên trêu chọc giới quan quyền và người đời

Muốn hành nghề, chẳng nề học hỏi
Năng ăn năng đói năng nói năng làm
Thế gian họ nói chẳng lầm
Lụa là tuy trang,vứng cầm cũng đen

Chưa học bò đã lo học chạy
Vén mây mù mới thấy trời xanh
Gươm linh sứt cán còn trành (*)
Bình hương dẫu vỡ mẻ sành còn thơm
Learn to creep before you leap Trành là chắn tay ở cán gươm


Trượt vỏ dưa vỏ dừa phải tránh (phải trợt)
Học khôn đi lính học tính đi buôn
Chữ rằng: "Họa phúc vô mô"
Tìm giầu thì dễ tìm khôn khó tìm
The scalded dog fears cold water. OR: Once bitten, twice shy, OR: Many men
many minds

Trên trời có cái cầu vồng
Kẻ Chợ Cầu Muống Kẻ Đông Cầu Dền
Vua (Việc) trên đền cầu tiền cầu bạc
Các lái buôn cầu nước cầu non
Đôi ta cầu của cầu con
Con đẹp giống mẹ con dòn giống cha
Con gái dệt cửi trong nhà
Con trai đi học đỗ ba khoa liền
Con lớn thì đỗ trạng nguyên
Hai con tiến sĩ đỗ liền cả ba
Vinh quy bái tổ về nhà (*)
Bõ công đèn sách mẹ cha nuôi thầy (*)
Vốn em chỉ có "Thâm Chầy"
Anh cho "Tắc lái" cho đầy quan năm
Buôn trầu đếm cuốn bán trăm
Mưa dầm gió bấc, em nằm em lo
Thi đậu vua ban võng lọng về quê ăn mừng; Nuôi thầy là ngày xưa trường học
chưa phổ biến, cha mẹ phải rước thầy về nuôi trong nhà để dạy con học hành; Tắc
lái là tiến lóng của lái buôn trâu bò chỉ ba tiền, quan hai

Ai về Phú Lộc gửi lời
Thư nầy một bức nhắn người tri âm

Mối tơ chín khúc ruột tằm
Khi tháng tháng đợi khi năm năm chờ
Vì tình ai lẽ làm lơ
Cắm sào quyết chí đợi chờ bến xuân
Ước sao chỉ Tấn tơ Tần (*)
"Sắc cầm hòa hợp" lựa vần "quan thư" (*)
Đôi bên ý hiệp lòng ưa
Đắp đền công thiếp lại vừa lòng anh
Thiếp thời tần tảo cửi canh
Chàng thì nấu sử xôi kinh kịp thì (*)
Một mai chúa mở khoa thi (*)
Bảng vàng chói lọi có đề tên anh ()
Tấn Tần: hai nước ở đời Xuân Thu bên Trung-quốc. Kẻ Tấn người Tần: mỗi người
một xứ khác nhau; Trong Kinh Thi có câu: "Quan quan thư cưu" là như đôi chim
thư cưu luôn luôn đi cặp đi đôi; Nấu sử xôi kinh là lo học hành để đạt công danh;
Xem Đại Việt Sử Thi Đặi Việt Sử Thi () Có bản khác: Ấy là đề diệp tinh kỳ từ đây,
Ai ơi nghe thiếp lời này.


Trăm trâu trăm bó cỏ
Trâu đứng ăn năm
Trâu nằm ăn ba
Nghé hoa ba con ăn một (*)
Câu đố toán học - Có bản khác: Con ở đàng xa một bó ba con

Xin anh đi học cho ngoan
Để em dệt cửi kiếm quan tiền dài.
Quan tiền dài em ngắt làm đôi
Nửa thì giấy bút nửa nuôi mẹ già.


Vui đâu bằng hội đề danh
Nghề nào bằng nghiệp học hành là hơn
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy xuôi
Phu nhân thì có công nuôi
Toàn gia hưởng phúc lộc trời ban ơn
Mừng nay thái vũ xuân hồi
Miệng dâng câu hát, hoan bồi cuọc vui!

Mã nhật tượng điền xe liền pháo cách (*)
Vô sư vô sách bất trách qủy thần (*)
Mua lầm chớ bácn chẳng lầm
Nết na con gái tiếng tăm thầy đồ
Mã nhật… những cách đi con cờ tướng; Bất trach Nếu không có sach , không có
thầy để học thì sơ xuất qủy thần cũng không trách

Ông đồng ông chổi
Hàng kẹo mạch nha
Nào bà hàng quế
Vừ đi vừ tế
Một lũ học trò
Người cầm quạt mo
Là vợ ông Chỗi
Trôi nổi mà lên
Ba bề bốn lên
Nổi lên cho chóng
Chuông kêu trống gióng
Cũng bước vào mà
Bước lên giường cao
Thấy gà mái ấp

Bước xuống giường thấp
Thấy con rồng chầu
Bước ra đàng sau
Thấy nhà mới lợp
Trâu ông còn buộc
Ngựa ông còn cầm
Ông sống một trăm
Mười lăm tuổi lẻ

Ai về anh dặn lời này
Phượng hoàng chỉ quyết đậu cây ngô đồng
Song le còn chút ngại ngùng
Biết rằng thầy mẹ thương cùng cho chăng?
Nẻo xa thấp thoáng bóng trăng
Cũng mong nhờ gió cát đằng (*) đưa dây
Quảng Hàn cách mấy lần mây
Để cho duyên hiệp đấy đây cho gần.
Cát đằng: loài dây leo phải bám vào những cây to khác. Trong văn học cổ thường
dùng cát đằng để chỉ sự phụ thuộc, lẽ mọn. () Quảng Han:nghìa gốc là rộng và
lạnh, theo Long thành lục, vua Đường Minh Hoàng, nhân đêm rằm tháng tám,
được nhà thuật sĩ làm phép lạ đưa lên mặt trăng chơi, thấy cửa vào cung trăng có
biển đề "Quảng hàn thanh hư chi phủ" (cái phủ trống rỗng, trong suốt, lạnh và
rộng) do đó Quảng Hàn, Cung Quảng Hàn, Cung Quảng, Cung Han,v.v`. đều
dùng để chỉ mặt trăng.

Ra về nhớ đến Chọc Cuôi
Nhớ làng Thanh Thủy, nhớ người Lệ Sơn

Anh đi bờ lở một mình
Phất phơ chéo áo giống hình trò Ba

Trò Ba đi học trường xa
Cơm canh ai nấu mẹ già ai coi

Ách giữa đàng quàng vào cổ
Tự nhiên chuốc lấy cái khó nhọc của người

Ăn hóc học nên

Ăn vóc học hay

Ăn vóc học nên

Bạch diện thư sinh
Người học trò yếu ớt trói gà không chặt
Bán tôm bán cá
Đức tính hàm hồ, thiếu học thức
Cách vật trí tri
Chia tách sự vật ra rồi dùng trí suy luận để biết , phân tích đối tượng sự vật rồi
dùng trí thức để tìm biết ra nguyên lý của nó, nghiên cứu của sách đại học là muốn
trị quốc thì phải tề gia , tề gia thì phải tu thân , tu thân thì phải chỉnh tâm , chỉnh
tâm thì phải thành ý , và sau cùng muốn thành ý , thì phải trí tri , mà muốn trí tri
tất phải cách vật

Ấu bất học lão hà vi
Nhỏ mà không học, thì lớn lên không làm được trò trống gì

Ấu nhi học tráng nhi hành

Bác cổ học viện
Trường chuyên khảo về cổ học

Bất hiếu hữu tam
Có ba điều bất hiếu : - không vâng lời cha mẹ không lo học hành Không có
con để nối dòng

Bất học vô thuật
Không học thì không thông thạo sự việc

Bảy mươi còn học bảy mốt

Bảy mươi học bảy mốt

Cầm gậy chọc trời

Càng học càng thấy dốt

Chẳng hẹn mà gặp chẳng rắp mà nên
Có bản khác: Chẳng học mà hay chẳng rắp mà nên

Chẳng học mà hay chẳng cày mà biết

Chọc bát cơm đơm bát cháo

Chọc cứt không nên lỗ

Chọc gậy bánh xe

Chọc gậy xuống nước

Chọc trời khuấy nước


Chồng học trò vợ con hát

Chưa học (Chưa tập) bò đã lo học (lo tập) chạy

Chưa học làm xã đã hay ăn bớt

Chưa làm xã đã học ăn bớt

Có học mới biết có đi mới đến

Con học thóc vay

Con không học thóc không vay

Con lên ba cả nhà học nói

Con nhà giàu học giỏi đẹp trai

Con ơi học lấy nghề bà

Đại Nam hải nhai lão thơ sanh tánh Phan chi cữu
Linh cữu của người học trò già họ Phan ở ven biển của nước Ðại Nam

Đâm bị thóc thọc bị gạo

Hay học thì sáng hay làm thì tối

Đi bữa chợ học mớ khôn

Đi học thầy đánh đi gánh đau vai


Đi một buổi chợ học được mớ khôn

Đi một đàng học một sàng khôn

×