Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

lợi thế cạnh tranh quốc gia của ngành du lịch việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.11 MB, 108 trang )

TRƯỜNG
ĐẠI HỌC
NGOẠI
THƯƠNG
KHOA
KINH
TÊ VÀ
KINH
DOANH
QUỐC
TẾ
CHUYÊN NGÀNH
KINH
TẾ
Đối
NGOẠI
. „.***
KHÓA
LUẬN
TỐT
NGHIỆP
Đề tài:
LỢI THÊ CẠNH TRANH QUỐC GIA
CỦA NGÀNH DU
LỊCH
VIỆT NAM
L ^3
Sinh viên thực hiện
:
Hà Minh Ngọc


Lớp
ĩ
Anh 16
Khóa :44D
Giáo
viên
hướng dẫn
:
ThS. Đào Ngọc Tiên

Nội,
tháng 5 năm
2009
DANH
MỤC

HIỆU
VIẾT
TẤT

hiệu
Tiêng
Anh
Tiếng
Việt
ASEAN
Association
of
Southeast
Asian

Nations
Hiệp
hội
các quôc
gia
Đông
Nam
Á
FDI
Foreign
Direct
Investment
Đầu

trực
tiếp
nước ngoài
GDP
Gross Domestic
Product
Tổng
sản
phẩm
quốc
nội
roi
Iníormation and
Communication
Technology
Development

Index
Chỉ sô phát
triên
công
nghệ
thông
tin

truyền
thông
ITU
International
Telecommunication
Union
Liên
minh
Viễn
thông
quốc
tế
MICE
Meeting,
Incentive,
Convention,
Event
Loại
hình du
lịch
két hợp
với hội

họp,
khen
thưởng,
hội
nghị,
hội
thảo

triặn
lãm
ODA
Official
Development
Assistance

trợ
phát
triên
chính
thức
SARS
Severe
Acute
Respiratory
Syndrome
Hội
chứng
hô hấp
cấp
tính

nặng
SFC
Service
Flight
Corporation
Tông công
ty
Dịch vụ bay
Việt
Nam
UNESCO
United
Nations
Educational,
Scientiíic and
Cultural
Organization
Tổ
chức
Giáo
dục,
Khoa học

Văn hóa
của
Liên
Hiệp
Quốc
UNWTO
United

Nations
World Tourism
Organization
Tổ
chức
Du
lịch
Thặ
giới
VASCO
Viet
Nam
Air
Service
Company
Công
ty
Bay
dịch
vụ hàng không
VÁT
Value
added
tax
Thuê giá
trị
gia
tăng
VNPT
Viet

Nam
Post
and Communication
Tống
công
ty
Bưu
chính
Viễn
thông
Việt
Nam
WTTC
World
Travel
and
Tourism
Council
Hội
đồng
Du
lịch

Lữ
hành
Thế
giới
MỤC
LỤC
DANH

MỤC

HIỆU
VIẾT
TẮT
DANH
MỤC BẢNG
BIỂU, HÌNH
VẼ
LỜI
MỞ
ĐÀU
Ì
CHƯƠNG ì
MỘT SÒ VẤN ĐÈ LÝ
LUẬN
VỀ
LỢI
THÊ CẠNH TRANH QUỐC GIA
CỦA NGÀNH
DU
LỊCH
VIỆT
NAM 4
ì. Một
sợ
khái niệm cơ bản
4
Ì. Cạnh
tranh

và các cấp độ
cạnh
tranh
4
2. Lợi
thế
canh
tranh
quốc
gia
của
ngành
7
3. Dịch vụ du
lịch
và ngành du
lịch
8
li.

thuyết
về
lợi
thế
cạnh
tranh
quợc
gia
của
M.

Porter
14
Ì.

tưởng
chung
14
2.

hình kim cương

các nhân
tố
quyết
định
lợi
thế
cạnh
tranh
quốc
gia
của
ngành du
lịch
18
III.
Tính
tất
yếu
phải

nâng cao
lợi
thế
cạnh
tranh
quợc
gia
của ngành
du
lịch
30
CHƯƠNG
li
PHÂN TÍCH LỢI
THẾ CẠNH TRANH QUỐC GIA CỦA
NGÀNH
DU
LỊCH
VIỆT
NAM 33
ì. Phân tích
lợi
thế cạnh
tranh
quợc
gia
của ngành
du
lịch
Việt

Nam
theo

hình kim cương của
M.
Porter
33
Ì.
Điều
kiện
các
yếu
tố
sản
xuất
của
ngành du
lịch
33
ỉ.1. Nguồn
tài nguyên thiên nhiên
33
1.2. Nguồn
tài nguyên nhân
văn
36
1.3. Nguồn
vốn và cơ sở hạ
tầng
38

1.4. Nguồn
nhân lực
du
lịch
40
2.
Điều
kiện
về
cầu
du
lịch
44
3. Các ngành
hỗ
trợ

liên
quan
45
4.
Chiến
lược,

cấu

cạnh
tranh
nội
địa

của
các
doanh
nghiệp
du
lịch
Việt
Nam 51
5.
Vai
trò
của

hội
55
6.
Vai
trò
của
Chính
phủ
58
li.
Đánh giá
việc
phát
huy
lọi
thế
cạnh

tranh
quốc
gia
của ngành
du
lịch
Việt
Nam 61
Ì. Những thành
tựu
đạt
được
61
2.
Một
số
hạn
chế
67
2.1. về
việc
đầu

nâng cao
chất lượng các
yếu
tố
đầu vào của
ngành
du

lịch
67
2.2.
về
công tác kích cầu
du
lịch
69
2.3.
về
mối
liên kết giữa
du
lịch với các ngành
hỗ
trợ và Hên quan
69
2.4.
về

chế quản lý hoạt động du lịch
71
2.5.
về
hoạt động xúc tiến
du
lịch
72
CHƯƠNG ni
MỘT SÒ

GIẢI PHÁP NÂNG
CAO
LỢI
THẾ CẠNH TRANH QUỐC
GIA
CỦA
NGÀNH
DU
LỊCH
VIỆT
NAM 74
ì. Định hướng phát
triển
của ngành
du
lịch
Việt
Nam 74
Ì.
Dự
báo
thị
trường
du
lịch
trong
những
năm
tới
74

ỉ. 1. Thị trưểng quốc tế
74
1.2.
Thị trưểng Việt
Nam 75
2.
Định
hướng

mục
tiêu phát
triển
ngành du
lịch
đến
năm
2010,
tầm
nhìn
2020
76
2.1. Định hướng
tổng quát
7(5
2.2.
Mục
tiêu phát triển
du
lịch Việt
Nam 77

li.
Một
số
giải
pháp nâng cao
lợi
thế
cạnh
tranh
quốc
gia
của ngành
du
lịch
Việt
Nam 79
Ì. Nhóm
giải
pháp
đối với
điều
kiện
các
yếu tố sản
xuất
79
2.
Nhóm
giải
pháp

đối với
điều
kiện
về cầu
84
3. Nhóm
giải
pháp
đối với
các
ngành
hỗ
trợ

liên
quan
86
4. Nhóm
giải
pháp
đối với
chiến
lược,

cấu

cạnh
tranh
ngành
89

KẾT
LUẬN
92
DANH
MỤC
TÀI
LIỆU
THAM KHẢO 93
PHỤ LỤC
DANH
MỤC
BẢNG
BIỂU
Hình 1.1: Mô hình
kim
cương
tr.
17
Biểu
đồ
2.1:

cấu
FDI vào
lĩnh
vực
bất
động
sản
tám tháng đầu năm

2008
tr.
39
Bảng
2.1: Thống
kê cơ sở lưu
trú

Việt
Nam năm
2008
tr.
40
Biểu
đồ 2.2:
Chất lượng
đào
tạo
của nguồn
nhân
lực
du
lịch Việt
Nam
tr.
42
Bảng
2.2: Đánh giá năng
lực
cạnh

tranh
về
nguồn
nhân
lực
của
ngành
du
lịch Việt
Nam ừ. 43
Biểu
đồ 2.3: Phân
loại
doanh
nghiệp
lữ
hành
quốc
tế theo
loại
hình
doanh
nghiệp
tr.
51
Hình 2.1: Mô hình
tổng
quát về các nhân
tố
tác động

ti lợi
thế
cạnh
tranh
của
ngành du
lịch Việt
Nam
tr.
60
Biểu
đồ
3.1: Lượng
khách du
lịch
quốc
tế
đến
Việt
Nam
giai
đoạn
1995-2008
ừ. 61
Bảng
3.1:
FDI vào
lĩnh
vực du
lịch

giai
đoạn 2000-2007
tr.
64
Biểu
đồ 3.2: Cơ
cấu
chi
tiêu
bình quân một ngày
của
khách du
lịch
quốc
tế
đến
Việt
Nam
tr.
70
Hình 3.1: cấu trúc và
liên
kết
của
cụm du
lịch
Huế
-
Đà Nằng
-

Quảng
Nam
tr.
88
LỜI
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp
thiết
của đề tài
Ngày
nay,
du
lịch
đã
trở
thành
hiện
tượng
kinh tế
-

hội
phổ
biến
trên
phạm
vi
toàn cầu và có xu
hướng
phát

triển
nhanh.
Nhiều
nước trên
thế
giới,
đặc
biệt
là các
quốc
gia
Đông Nam Á đã phát
triển
du
lịch
thành ngành
kinh
tế
giữ
vị trí quan
trọng trong
nền
kinh tế
quốc dân,
mang
lại
nhiều
lợi
ích
kinh

tế
- xã
hội.
Ngành du
lịch Việt
Nam
tuy
được đánh giá là còn non
trẻ
so
với
ngành du
lịch
của các nước
trong
khu vậc nhưng đã có
những
tiến
bộ
nhất
định
và đóng góp đáng kể vào công
cuộc
phát
triến
kinh tế

tiến
bộ xã
hội

của
đất
nước
trong
những
năm
qua.
Trong
bối
cảnh hội nhập quốc tế
ngày
càng sâu
rộng,
nhất

sau
khi Việt
Nam chính
thức gia
nhập
Tổ
chức
Thương
mại
Thế
giới
(WTO), ngành du
lịch
càng được
Đảng

và Nhà nước chú
trọng
phát
triển,
nâng cao
chất
lượng
sản
phẩm du
lịch,
mở
rộng
quy mô
hoạt
động
theo
chủ trương đã nêu
ra từ đại hội
IX là "phát
triển
du
lịch
thực sự
trở
thành ngành kinh
tế
mũi nhọn".
Tuy đạt
được
những

thành
tậu
đáng khích
lệ
về
tốc
độ tăng trưởng du
lịch trong
một
thời
gian
ngắn (chủ
yếu
từ
năm 1990
trở
lại
đây) nhưng
hội
nhập quốc tế
bên
cạnh
việc
mở
ra những

hội
phát
triến
mới

cũng đặt
ra
không
ít
khó khăn, thách
thức với
ngành du
lịch Việt
Nam. Để
tồn
tại
trong
môi trường
quốc
tế
khắc
nghiệt,
cạnh
tranh với
những
ngành du
lịch
phát
triển
trong
khu vậc và trên
thế
giới,
vấn đề
đặt ra

đối với
ngành du
lịch Việt
Nam

phải
xác
lập
được cho mình
những
thế
mạnh
nhất
định trên cơ sở nâng cao
những
lợi
thế
cạnh
tranh
quốc
gia
bền
vững song song
với việc
không
ngừng

duy,
định vị
những

lợi
thế
cạnh
tranh
quốc
gia
mới và tìm cách
khắc phục
những bất
lợi
thế
cạnh
tranh
quốc
gia
của
ngành.
Chỉ
bằng
cách
đó,
ngành du
lịch Việt
Nam mới có
thể
phát
triển
trong
dài hạn và
bắt

kịp
tốc
độ phát
triển
-1
-
của
các
quốc
gia
có ngành du
lịch
tiến
bộ hơn
trong
khu
vực,
từng
bước đưa
du
lịch Việt
Nam
trở
thành ngành
kinh tế
mũi
nhọn của
cả
nước.
Tuy

nhiên,
nhận
thức
về
lợi
thế
cạnh
tranh
quốc
gia
của ngành du
lịch
còn khá hạn chế
với
số đông
người
dân và tư
tưởng
"rừng
vàng
biẫn
bạc"
cùng tư duy phát
triẫn
ngành du
lịch
chỉ
dựa trên
khai
thác một

chiều
lợi
thê
từ
nguồn
tài nguyên vô hạn vẫn khá phổ
biến.
Do đó, cần
thiết
phải có cái
nhìn toàn diện về
lợi
thế
cạnh
tranh
quốc
gia
của ngành du
lịch

các
yếu
to
cấu thành đẫ
trả
lời
câu
hỏi:
Lợi thế
cạnh

tranh
quốc
gia
của
ngành du
lịch
Việt
Nam là gì và làm
thế
nào đẫ tác động nâng cao
những
lợi
thế
cạnh
tranh
đó.
Những câu
hỏi
cấp
thiết
này chính

nguyên nhân đẫ em
chọn
đề
tài
"Lợi
thế cạnh tranh quốc gia của ngành du
lịch Việt
Nam" làm đề tài khóa

luận
tốt
nghiệp
của
mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm
hiẫu
mô hình kim cương của M.
Porter trong
phân tích
lợi
thế
cạnh
tranh
quốc
gia
của
một ngành
dịch
vụ,
cụ
thẫ

ngành du
lịch.
Vận dụng
mô hình này đẫ phân tích các nhóm nhân
tố
tác động

tới
lợi
thế
cạnh
tranh
quốc
gia
của ngành du
lịch Việt
Nam,
từ
đó đánh giá
thực
trạng
của
việc
phát huy
những
lợi
thế
cạnh
tranh
quốc
gia
của
ngành.
Đề
xuất
một số
giải

pháp nhằm phát huy
hiệu
quả
những
lợi
thế
cạnh
tranh
quốc gia
của ngành du
lịch Việt
Nam,
hướng
tới
mục tiêu phát
triẫn
ngành du
lịch
bền
vững.
3.
Đối
tượng và
phạm
vi
nghiên cứu
Đối
tượng:
Đối
tượng

nghiên cứu của khóa
luận

lợi
thế cạnh
tranh
quốc
gia
của
ngành du
lịch Việt
Nam và các
yếu
tố
cấu
thành.
Thời
gian:
Nghiên cứu sự phát
triẫn
của ngành du
lịch Việt
Nam
trong
giai
đoạn
từ
năm 1990 đến
nay.
-2-

4. Phương pháp nghiên cứu
- Khóa
luận
được
thực hiện
trên

sở
phương pháp
luận
duy
vật biện
chứng

duy
vật lịch
sử.
Khóa
luận
sử
dụng
phương pháp
quan
sát
thực
tế,
phân
tích
thống
kê, tổng

hợp so
sánh để đưa
ra
các
đánh
giá,
nhận
định.
5. Kết cấu khóa
luận
Ngoài các
phần
mở đầu và
kết luận,
khóa
luận
được bố cục thành 3
chương:
Chương 1: Một số vẩn đề

luận về
lợi
thế cạnh tranh quốc gia của
ngành du
lịch Việt
Nam
Chương 2: Phân
tích
lợi
thế cạnh tranh quốc gia của ngành du

lịch
Việt
Nam
Chương 3: Một số
giải
pháp nâng cao
lợi
thế cạnh tranh quốc gia
của ngành du
lịch Việt
Nam
Do
thời
gian

trình
độ còn
nhiều
hạn
chế,
khóa
luận
chủc
chủn
không
tránh
khỏi
những
thiếu
sót.

Em
mong
nhận
được
những
góp
ý,
phê bình của
thầy
cô và bạn bè để khóa
luận
được hoàn
thiện
hon và
cũng
là để có thêm
luận cứ,
cơ sở để
tiếp
tục
nghiên cứu sâu
hơn,
toàn
diện
hơn nữa về vấn đề
này
trong
thời
gian
tới.

Đe có
thể
hoàn thành khóa
luận
này,
em
xin
chân thành cảm ơn các
thầy
cô Khoa
Kinh
tế

kinh
doanh
quốc
tế,
đặc
biệt
là sự giúp đỡ
tận
tình
của thầy
giáo
-
Thạc
sỹ
Đào Ngọc
Tiến trong suốt
thời

gian
qua.
Em
xin
chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 2009
Sinh
viên

Minh
Ngọc
-3-
CHƯƠNGì
MỘT
SỐ VÁN ĐÈ LÝ
LUẬN
VÈ LỢI THẾ
CẠNH TRANH
QUỐC
GIA
CỦA
NGÀNH
DU
LỊCH
VIỆT
NAM
ì. MỘT SỐ KHÁI NIỆM Cơ BẢN
1.
Cạnh
tranh

và các cấp độ cạnh
tranh
/./.
Khái niệm cạnh
tranh
Cạnh
tranh
nói
chung, cạnh
tranh trong kinh
tế
nói riêng là một khái
niệm
khá
rộng
và có
nhiều
cách
hiểu
khác
nhau.
Theo
cách
hiểu
thông thường
nhất,
cạnh
tranh
thường gắn
với

khái
niệm
mang
tính
ganh
đua,
hơn
thua.
K.
Marx
đã
định
nghĩa cạnh
tranh
như
là "sự
ganh
đua, đấu
tranh
gay
gắt giữa
các nhà tư bản nhằm dành
giật
những điều
kiện
thuận
lợi
trong
sản
xuất


tiêu dùng hàng
hóa để
thu
được
lợi
nhuận
siêu
ngạch". Marx
cho
rằng,
cạnh
tranh
là đặc
điểm
nỞi
bật
của nền
kinh tế thị
trường

một
trong
những
nhân
tố
để tăng
khả
năng
cạnh

tranh

tăng năng
suất
lao
động,
trong

nghiệp

trong
toàn xã
hội [19].
Ở phạm
vi
cạnh
tranh
quốc
gia,
M.
Porter
nhấn
mạnh
tính
cạnh
tranh
phụ
thuộc
vào
năng

suất
của
quốc gia
trong việc
sử
dụng nguồn lực
con
người,
tài nguyên

vốn
[39].
Cùng
chung quan
điểm
về
cạnh
tranh
với
Marx,
M.
Porter
chú
trọng tới
tính
sáng tạo

đổi
mới
trong

cạnh
tranh,
trong
đó
nhân
tố
công
nghệ,
nhân
lực

phương
thức
sản
xuất
đóng
vai
trò
thiết
yếu.
Trong
bối
cảnh
nền
kinh tế hiện đại
ngày
này,
khái
niệm
cạnh

tranh
cần
được
nhìn
nhận
không
chỉ dừng
lại

những
nỗ
lực
của các chủ
thể
nhằm tiêu
diệt
đối thủ

phải tạo ra

mang
lại
cho khách hàng
những
giá
trị
gia
tăng
cao
hoai

hoặc
mới
lạ
hơn
đối
thủ
đế họ có
thể
lựa chọn
mình

không đến
với
đối thủ
cạnh
tranh.
Nói
theo
cách của
M.
Porter
thì cạnh
tranh
không
đơn
-4-
thuần
là vươn lên vị trí
tốt nhất theo
cách

hiểu
của
nhiều
lãnh đạo
doanh
nghiệp
mà chính là xây
dựng
sự độc đáo cho sản phẩm và thương
hiệu
của
mình
[20].
Tóm
lại,
cạnh
tranh trong kinh
doanh là
một quả
trình
ganh đua giữa
tí nhất hai đối thủ nhằm có được những nguồn lực hoặc ưu thế về sản
phẩm hoặc khách hàng về phía mình, đạt được
lợi
ích
tối đa.
Đê tôn
tại
trong
nền

kinh
tế thị
trường,
các
doanh
nghiệp
nói riêng và các
quốc
gia
nói
chung
phải
chấp nhận cạnh
tranh
như là
lựa
chọn
duy
nhất.
Do
đó, cạnh
tranh
chính là một
trong
những
quy
luật
cơ bản và động
lực
phát

triến
của
nền
kinh
tế
thị
trường,

linh
hứn
sống của
thị
trường.
1.2.
Các cấp độ cạnh
tranh
• Cạnh
tranh
sản
phẩm
Cạnh
tranh
diễn ra giữa
các
sản
phẩm hay nhóm
sản
phẩm được
hiểu


tương
quan
về sức
cạnh
tranh
của một sản phẩm hay nhóm sản phẩm so
với
các sản phẩm hay nhóm sản phẩm cùng
loại
trên
thị
trường.
Một sản phàm
hay
nhóm
sản
phẩm có
thể
được tiêu
thụ
mạnh
hơn do
những
ưu
thế
về giá
cả,
chất
lượng
sản

phẩm, uy
tín sản
phẩm,
chất
lượng
của dịch
vụ
sau
bán hàng
• Cạnh
tranh
doanh
nghiệp
Khái
niệm
cạnh
tranh
đầu tiên được sử
dụng
trong

thuyết
công
nghiệp.

thuyết
này cho
rằng
một
doanh

nghiệp
được
coi
là có sức
cạnh
tranh khi
nó có
thể
đứng
vững
trên
thị
trường
bằng
cách
sản
xuất ra
những
sản
phẩm tương
tự với
mức giá
thấp
hơn hay
cung
cấp các
sản
phẩm tương
tự với
các đặc tính về

chất
lượng
hay
dịch
vụ cao
hơn,
đáp ứng được
thị hiếu
khách
hàng
trong
môi trường
cạnh
tranh
(không
trợ
cấp hay bảo
hộ).
Một
doanh
nghiệp
cạnh
tranh
không thành công sẽ bị đẩy ra
khỏi
thị
trường nếu như
doanh
nghiệp
đó không

cải
thiện
được
hoạt
động của nó. Lợi ích mà một
doanh
nghiệp
đạt
được
trong
cạnh
tranh
sẽ không tránh
khỏi việc
gây
ra tổn
thất
cho
doanh
nghiệp
khác là
đối thủ
cạnh
tranh
của
nó.
Cạnh
tranh
của một
-5-

doanh
nghiệp
trong
một ngành nào đó
mang
tính
sống
còn và được đặc
trung
bởi
trò chơi mà một bên được
thì
bên
kia phải
mất
(zero-sum
game).
• Cạnh
tranh
quốc
giã
Cạnh
tranh
không chỉ
dừng
lại
ở cấp độ sản phẩm và
doanh
nghiệp.
Trong

bối
cảnh
hội
nhập
toàn
cầu
hóa
hiện nay,
cạnh
tranh
được
biết
đến phô
biến
hơn ở phạm
vi
toàn
cầu,
tức

cạnh
tranh giữa
các
quốc
gia.
Nêu ở cáp
độ
cạnh
tranh giữa
các

doanh
nghiệp,
cạnh
tranh

thằ
đẩy một
doanh
nghiệp
ra
khỏi
hoạt
động
kinh
doanh
nếu họ không thành công
trong
cạnh
tranh
thì

cấp
độ
quốc
gia,
điều
đó là không
thằ.
Chính vì lý do này nên một số các nhà
kinh tế (P.

Krugman,
1994)
cho
rằng
không
tồn
tại
khái
niệm
cạnh
tranh
quốc
gia.
Một số các nhà
kinh
tế
khác (M.
Porter,
1990)
tìm cách phân
biệt
giữa
cạnh
tranh
doanh
nghiệp

cạnh
tranh
quốc

gia.
Cạnh
tranh
doanh
nghiệp
chủ
yếu
tồn
tại
và tìm
kiếm
lợi
nhuận
trên cơ sở
cạnh
tranh
quốc
gia
hay
quốc
tế.
Trong
khi
đó,
đối với
quốc
gia,
cạnh
tranh
được

thằ hiện
qua
việc
nâng cao
mức
sống
dân cư
bằng
cách
tạo
ra môi trường
kinh
doanh
hiệu
quả nhằm
khuyến
khích các
doanh
nghiệp
nâng cao năng
suất
trong
môi trường
đó. [29]
Tóm
lại,
dù ở cấp độ
sản
phẩm,
doanh

nghiệp
hay
quốc
gia,
khái
niệm
cạnh
tranh
cũng
gắn
liền
với việc cải
tiến,
nâng cao và
đổi
mới
của
mỗi
doanh
nghiệp,
ngành
nghề.
Việc
đối
mới,
như trình bày ở
trên,
bao gồm kỹ
thuật


phương
pháp;
gồm
sản
phẩm
mới,
phương
thức
sản
xuất
mới, chiến
lược
tiếp
thị mới,
nhận
diện
khách hàng mới và
những
hoạt
động tương
tự.
Schumpeter
(1942),
từ cách đây
nhiều
thập
kỷ,
trong
cuốn
Capitalism,

Socialism and
Democracy của mình đã
nhấn
mạnh
phương
diện
này. Ông
khẳng
định,
bản
chất
của sự
cạnh
tranh
là tính năng
động.
Tính
chất
của
cạnh
tranh trong kinh
tế
không
phải
là "cân
bằng",
mà không
ngừng
thay đổi.
Cải

tiến

đổi
mới
trong
một ngành
nghề
nào đó là một quá trình không bao
giờ kết
thúc,
chứ
không
phải

một sự
kiện
riêng
lẻ
chỉ xảy
ra
một
lần
duy
nhất.
-6-
2.
Lợi thế
cạnh
tranh
quốc

gia
của
ngành
Lợi
thế cạnh
tranh
quốc
gia
là một khái
niệm
được sử
dụng
thường
xuyên nhưng
hiểu
biết
về nó
với đại
đa số còn khá mơ
hồ.
Đe có
nhận
thức
đúng đắn về khái
niệm
này,
việc
cần
thiết


phữi
phân
biệt

thấy
được sự
tương
quan
giữa
lợi
thế
cạnh
tranh
quốc
gia với
một khái
niệm
liên
quan
mật
thiết
tới
nó nhưng thường xuyên
bị
nhầm
lẫn,
đó

khái
niệm

năng
lực
cạnh
tranh.
Bữn
thân khái
niệm
năng
lực
cạnh
tranh
cũng

nhiều
cách
hiếu
gằn
với
những
cấp độ
cạnh
tranh
khác
nhau.
Ở cấp độ
sữn
phàm, năng
lực
cạnh
tranh

là sự
thể hiện
tính ưu
việt
hay tính
vượt
trội
về cữ định tính và định
lượng.
Nói
theo
cách
khác,
cạnh
tranh giữa
các
sữn
phẩm
trên
một
thị
trường
là quá trình
thể hiện
khữ năng hấp dẫn tiêu dùng của các
sữn
phẩm
đối với
khách hàng trên một
thị

trường cụ
thể, trong
một
thời
gian
nhất
định.
Năng
lực
cạnh
tranh
của sữn
phẩm có
thể
gắn
với
một
doanh
nghiệp,
một
quốc
gia
cụ thể
hoặc
xét
chung
cho
tất
cữ các
quốc

gia,
các
doanh
nghiệp.
Ở cấp độ
doanh
nghiệp,
năng
lực
cạnh
tranh

thể
được
hiểu
là khữ
năng nắm
giữ thị
phần
nhất
định
với
mức độ
hiệu
quữ chấp nhận
được
[12].
Xét ở góc độ
ngành,
một ngành

kinh tế
được
coi
là có năng
lực
cạnh
tranh khi
các
doanh
nghiệp
trong
ngành và
sữn
phẩm chủ đạo
của
ngành có
năng
lực
cạnh
tranh
trên
thị
trường.
Tuy nhiên đó mới
chỉ là
hai
yếu
tố
cần,
yếu tố

đủ
quyết
định năng
lực
cạnh
tranh
của
một ngành
kinh tế phữi
kể
tới
bao
gồm
lợi
thế
so sánh
của
ngành và môi trường
kinh
doanh của
ngành đó.
Các
yếu
tố
này
sẽ
tác động nâng
cao
lợi
thế

so sánh đơn
thuần
mang
tính
sẵn
có thành
lợi
thế
cạnh
tranh
của
ngành,
hay
thực
chất

lợi
thế
cạnh
tranh
của
sữn
phẩm
đặc
thù
thuộc
ngành
đó.
Nói tóm
lại,

lợi thế
cạnh tranh
của ngành
chính
là kết
quả của
việc
nâng
cao
năng
lực
cạnh
tranh
nội
tại
của
ngành,
cũng

thước
đo cụ
thế
cho
khả năng cạnh
tranh
của ngành đó thông qua
sự
vượt
trội
về

năng
lực
cạnh
tranh đối với
sữn
phẩm
đặc
thù ngành.
-7-
Với
cách
tiếp
cận
như
trên,

thể hiểu lợi
thế cạnh tranh quốc
gia
của
một ngành như

sự vượt
trội
của quốc gia
trong
năng lực cạnh tranh đối
với
sản phàm đặc thù của ngành đó.
3. Dịch vụ du

lịch
và ngành du
lịch
Trước
khi
tiếp
cận
với

thuyết lợi
thế cạnh
tranh
quốc gia
của M.
Porter
dưới
góc nhìn của ngành du
lịch,
chúng
ta
cần nắm được
những
hiếu
biết
cơ bản
nhất
về
dịch
vụ du
lịch

cũng
như ngành du
lịch
-
một ngành
kinh
tế
dịch
vụ có
nhiều
đặc thù.
3.1.
Khái niệm về
dịch
vụ du
lịch
về khái
niờm
dịch
vụ du
lịch, nhiều
học
giả
đã đưa
ra
các khái
niờm
khác
nhau
đi

từ nhiều
góc độ
tiếp
cận
khác
nhau.
Theo
cách định
nghĩa của
Giáo trình
Kinh
tế
du
lịch,
dịch
vụ du
lịch

"kết
quả
mang
lại
nhờ các
hoạt
động tương tác
giữa
những
tổ
chức cung
ứng

du
lịch
và khách du
lịch
và thông qua các
hoạt
động tương tác đó để đáp ứng
nhu cầu của
khách du
lịch,
mang
lại
lợi
ích cho
tổ
chức cung
ứng du
lịch"
[7].
Luật
Du
lịch
Viờt
Nam
(2005)
thì
định
nghĩa:
"Du
lịch


hoạt
động có
liên
quan
đến
chuyến
đi của con
người
ngoài nơi cư trú thường xuyên của
mình nhằm đáp ứng nhu cầu
tham quan,
tìm
hiểu,
giải
trí,
nghỉ
dưỡng
trong
một khoảng
thời
gian
nhất
định".
Còn
dịch
vụ du
lịch

"việc

cung cấp các
dịch vụ về lữ hành, vận chuyến, lưu
trú,
ăn uống, vui chen
giải
trí,
thông
tin,
hướng dẫn và những
dịch
vụ khác nhm đáp ứng nhu cầu của khách
du
lịch"
[13].
Đây được
coi
là định
nghĩa
khá đầy đủ và toàn
diờn
về khái
niờm
dịch
vụ du
lịch.
3.2.
Phân
loại dịch
vụ du
lịch

• Xét
theo
hình thái
vật chất
Dịch
vụ du
lịch
được phân thành 2
loại:
dịch
vụ du
lịch
hàng hóa
(thức
ăn,
quà lưu
niờm,
vận
chuyển )

dịch
vụ du
lịch phi
hàng hóa (hướng dẫn,
thăm
quan, tổ chức
trò
chơi,

vấn

tiêu
dùng ).
Trong
dịch
vụ
phi
hàng hóa,
-8-
dịch
vụ du
lịch
được
hiểu
theo
nghĩa
thuần
túy,
không có hình
thái
vật
chát.
Dịch
vụ du
lịch
thuần
tày
thường
chiếm
từ
2/3 đến 3/4

sản
phẩm
dịch
vụ du
lịch.
• Xét
theo

cấu
tiêu dùng
Dịch
vụ du
lịch
được
chia
làm 2
loại:
Dịch vụ cơ bản và
dịch
vụ bổ
sung.
-
Dịch
vụ du
lịch

bản:
Bao gồm các
dịch
vụ ăn

uống,
lưu
trú

vận
chuyến.
Đó

những
nhu cầu cơ
bản,
không
thế
thiếu
được
vỷi
khách hàng
trong
thời
gian
du
lịch
- Dịch vụ du
lịch
bổ
sung:
Bao gồm các
dịch
vụ thăm
quan,

giải
trí,
mua sắm hàng
hóa.
Đó

những
nhu
cầu
phải
có nhưng không
thật
cần
thiết
lắm
so
vỷi
loại
hình du
lịch
trên,
và nó không
định
lượng
được.
Quan
hệ
tỷ
lệ giữa
2

loại
này
rất
quan
trọng
để phân tích
chi
tiêu của
khách,
chuẩn bị phục
vụ
của
ngành du
lịch,
đặc
biệt

để phân
biệt
hiệu
quả
tỷ
trọng giữa
dịch
vụ cơ bản và
dịch
vụ bổ
sung.
Tỷ
trọng

này càng nhỏ thì
hiệu
quả
tổng
hợp
của
kinh
doanh
du
lịch
ngày càng
cao.
Tức
là tỷ
lệ
nhu yếu
phẩm ngày càng
nhỏ,
khách du
lịch
ngày càng
giàu,
du
lịch
càng phát
triển

kinh
doanh
càng

nhiều
lãi.
• Xét
theo
tính
chất
tham
gia
vào
dịch
vụ du
lịch
Dịch
vụ du
lịch chia ra
làm
dịch vụ
trực
tiếp

dịch
vụ
gián
tiếp:
- Dịch vụ
trực tiếp:

dịch
vụ du
lịch

do đơn
vị
kinh
doanh
du
lịch
trực
tiếp
làm, ví
dụ như
dịch vụ
tại
các
nhà
hàng,
khu nghỉ
biển,
bể
tắm
hơi
-
Dịch
vụ
gián tiếp:

dịch
vụ du
lịch
không do đom
vị kinh

doanh
du
lịch
trực
tiếp
làm mà
chỉ
thực
hiện
chức
năng môi
giỷi.
Đơn
vị
thực
hiện
dịch
vụ
gián
tiếp
thường

các
đại
lý du
lịch.
Tuy không
trực
tiếp
phục

vụ khách
hàng nhưng
đại
lý du
lịch
đóng
vai
trò
rất
quan
trọng
như: nghiên cứu
thị
trường
du
lịch,
chức
hình thành các
sản
phẩm du
lịch,
tuyên
truyền,
quảng
cáo
các
loại
hình du
lịch
đã hình

thành,
xác
định
hiệu
quả của
tuyên
truyền,
quảng
-9-
cáo
Trong
các công
ty
du
lịch, trung
tâm
điều
hành
hướng
dẫn du
lịch thực
hiện
nhiệm
vụ
dịch
vụ gián
tiếp
này.
• Xét
theo

nội
dung
Dịch
vụ du
lịch phải thỏa
mãn bốn yêu cầu của khách là đi
lại,
nghỉ
ngơi,
vui
chơi,
ăn
uống
và làm
việc.
Tương ứng bốn yêu cầu này là bốn
loại
dịch
vụ
phục
vụ khách
hàng.
Đây

cách phân
loại
quan
trọng nhửt, xuửt
phát
từ

bản
chửt
của
hoạt
động du
lịch.
Du
lịch
là ngành
kinh
doanh
tống
hợp sử
dụng
sản phẩm của
những
ngành
khác,
nhằm đáp ứng nhu cầu
tống
họp của
khách du
lịch.
3.3.
Các ngành nghề
kinh
doanh
chính trong lĩnh
vực
dịch

vụ du
lịch
• Khách
sạn
và nhà hàng
Kinh
doanh
khách sạn là công
đoạn
phục
vụ khách du
lịch
để họ hoàn
tửt
chương trình du
lịch
đã
lựa
chọn.
Thuật
ngữ
"kinh
doanh
khách
sạn"
được
hiểu
là "làm
nhiệm
vụ đón

tiếp,
phục
vụ
việc
lưu
trú,
ăn
uống,
vui
chơi,
giải
trí bán hàng cho khách du
lịch"[7].

thế,
ngoài
hoạt
động
kinh
doanh
lưu trú
ra
thì
trong lĩnh
vực
hoạt
động
kinh
doanh
này còn có cả các

hoạt
động
kinh
doanh
khác như ăn
uống,
vui
chơi
giải
trí,
bán hàng cho khách du
lịch
Hiện
nay trên
thế
giới
tửt
cả các
quốc gia
đều có khách sạn và
kinh
doanh
khách
sạn,
đặc
biệt
là ở
những quốc gia
có nền
kinh

tế,
khoa
học kỹ
thuật
văn hóa
nghệ
thuật,
thể thao,
du
lịch
phát
triển

Kinh
doanh
lữ
hành
Khi
nói đến
hoạt
động
kinh
doanh
lữ
hành nói
chung,
các chuyên
gia
về
du

lịch
muốn
đề cập đến các
hoạt
động chính như "làm
nhiệm
vụ
giao
dịch,

kết với
các
tổ
chức
kinh
doanh
du
lịch trong
nước,
nước ngoài để xây
dựng

thực hiện
các chương trình du
lịch
đã bán cho khách du
lịch"
[7].
Tuy
nhiên,

trên
thực
tế,
khi
nói đến
hoạt
động
kinh
doanh
lữ
hành,
chúng
ta thửy
tồn
tại
song song
ba
hoạt
động phổ
biến
sau:
-10-
-
Kinh doanh
lữ
hành
:

việc thực hiện
các

hoạt
động nghiên
cứu
thị
trường,
thiết
lập
các chương trình du
lịch
trọn
gói hay
từng
phần,
quảng
cáo
và bán các chương trình này
trực
tiếp
hay gián
tiếp
qua các
trung gian
hoặc
văn phòng
đại
diện,
tổ
chức
thực hiện
chương

trình

hướng
dẫn
du
lịch.
- Kinh doanh
đại lý
lữ
hành:

việc thực hiện
các
dịch
vữ đưa đón,
đăng ký nơi lưu
trú,
vận
chuyển,
hướng
dẫn
thăm
quan,
bán các chương trình
du
lịch
của
các
doanh
nghiệp

lữ
hành,
cung cấp
thông
tin
du
lịch

tư vấn
du
lịch
nhằm
hưởng
hoa hồng.
- Kinh doanh vận
chuyển
khách du
lịch:
Đặc trưng
nối bật
của
hoạt
động
du
lịch
là sự
dịch chuyển của con người
từ
nơi này
tới

nơi khác ngoài
nơi cư
trú
thường xuyên
của
họ,
thường

với
một
khoảng
cách
xa.
Do đó,
khi
đề
cập đến
hoạt
động du
lịch
nói
chung,
đến
hoạt
động
kinh
doanh
du
lịch
nói

riêng không
thể
không đề
cập đến
hoạt
động
kinh
doanh vận
chuyển.
Kinh
doanh vận chuyển là
hoạt
động
kinh
doanh
nhằm giúp
cho
khách du
lịch
dịch
chuyển
được
từ
nơi

trú
của
mình
đến
điểm

du
lịch
cũng
như

dịch chuyến
tại
điểm
du
lịch.
Đe
phữc
vữ cho
hoạt
động
kinh
doanh
này có
nhiều
phương
tiện
vận
chuyển
khác
nhau
như ô
tô,
tàu
hỏa,
tàu

thủy,
máy
bay.
Thực
tế
cho
thấy, ít

các
doanh
nghiệp
du
lịch
(trừ
một
số
tập
đoàn du
lịch lớn
trên
thế
giới)

thể
đảm
nhận
được toàn bộ
việc
vận
chuyển

khách du
lịch
từ
nơi cư trú
của
họ
đến
điểm
du
lịch

tại
điểm
du
lịch.
Phần
lớn trong
các
trường
hợp khách du
lịch
sử
dững dịch
vữ vận
chuyển
của các phương
tiện
giao
thông
đại

chúng
hoặc của
các công
ty
chuyên
kinh
doanh dịch vữ vận
chuyển.
Trong
khuôn
khổ
nghiên
cứu của
khóa
luận
này,
ngành du
lịch
được đề
cập
tới
bao gồm
cả
hai
mảng
kinh
doanh
lữ
hành


kinh
doanh
lữ
hành
quốc
tế (tổ
chức cho
khách
Việt
Nam
đi
du
lịch
nước
ngoài)

kinh
doanh
lữ
hành
nội
địa
(tổ
chức
cho khách
quốc
tế
và khách
Việt
Nam

đi
du
lịch nội
địa
trên
-
li
-
lãnh
thổ
Việt
Nam),
trong
đó tác
giả
đặc
biệt
nhấn
mạnh
vào
kinh
doanh
du
lịch
lữ
hành
nội
địa.
Khái
niệm

kinh
doanh
du
lịch
được xem
xét
trong luận
văn
bao
gồm cả
3
mảng
kinh
doanh
lữ
hành:
Du
lịch
Inbound
(đưa khách
quốc
tế
vào
Việt
Nam), du
lịch
Outbound
(đưa khách
Việt
Nam

ra
quốc
tế)
và du
lịch nội
địa
(người
Việt
Nam
đi
du
lịch trong
lãnh
thổ
nước
mình).

Kinh
doanh
phát
triển
khu du
lịch,
điểm
đến du
lịch
Theo điều
67
Luật
Du

lịch
ban hành năm
2005,
kinh
doanh
phát
triến
khu
du
lịch,
điếm
du
lịch
bao
gồm
đỹu tư bảo
tồn,
nâng
cấp
tài
nguyên du
lịch
đã
có;
đưa các
tài
nguyên du
lịch tiềm
năng vào
khai

thác,
phát
triến
khu du
lịch,
điểm
du
lịch mới, kinh
doanh
xây
dựng
kết cấu,
hạ
tỹng
du
lịch,
cơ sở
vật chất
-
kỹ
thuật
du
lịch

Kinh
doanh
các
dịch
vụ du
lịch

khác
Trước
đây,
kinh
doanh
du
lịch
chỉ quan
tâm
khai
thác
lĩnh
vực
lưu trú
và ăn
uống,
dịch
vụ bổ
sung
chỉ là thứ
yếu
nhằm đáp ứng
phỹn
nào
những
yêu
cỹu
phất
sinh
của

khách
trong
chuyến
đi.
Tuy nhiên
hiện nay,
loại
hình
kinh
doanh dịch
vụ bố
sung
đã được
coi
như
phỹn
không
thế
thiếu
trong
hoạt
động
du
lịch
và góp
phỹn
đáng kể
trong
doanh
thu

của
các
doanh
nghiệp
du
lịch.
Không
những
thế,
nó còn
tạo ra
sự hài
lòng và
tin
tưởng của
khách
vì những
yêu
cỹu
của
họ
được đáp ứng ở mức
cao
nhất
với chất
lượng
đảm
bảo.
Ngoài
những

hoạt
động
kinh
doanh
đã nêu ở
trên,
trong lĩnh
vực
hoạt
động
kỉnh doanh
du
lịch
còn có một
số
hoạt
động
kinh
doanh
bổ
trợ;
như
kinh
doanh
các
loại
hình
dịch
vụ
vui

chơi,
giải
trí,
tuyên
truyền,
quảng
cáo du
lịch

tư vấn đỹu tư
đu
lịch.
Cùng
với
xu
hướng
phát
triển
ngày càng đa
dạng những
nhu cỹu của
khách du
lịch,
sự
tiến
bộ
của khoa học
-
kỹ
thuật


sự
gia
tăng
mạnh
của
các
doanh
nghiệp
du
lịch,
dẫn đến sự cạnh
tranh
ngày càng tăng
trên
thị
trường
du
-12-
lịch
thì
các
hoạt
động
kinh
doanh
bổ
trợ
ngày càng có xu
hướng

phát
triển
mạnh.
3.4.
Đặc thù của ngành du
lịch
Du
lịch

một ngành
kinh tế
dịch
vụ.
Ngành du
lịch
được định
nghĩa
theo
nghĩa
rộng
là khu
vực
kinh tế
bao gồm
tất
cả các ngành
phục
vụ khách
du
lịch.

Do
đó,
ngành
kinh
doanh
này được
định
nghĩa gắn
liền
với thị
trường
riêng
biệt
của
nó và
bao
gồm
tất
cả các
hoạt
động
cung cấp dịch
vụ du
lịch

nhẩng
nguồn
thu từ
khách
du

lịch.
Là một ngành
kinh tế
dịch
vụ,
ngành du
lịch
cũng

nhẩng
đặc
điểm
chung
như
nhẩng
ngành
dịch vụ
khác:
• Tính vô hình
về cơ
bản, sản
phẩm du
lịch
không
phải
là sản
phẩm
cụ
thể,
không

tồn
tại
dưới
dạng
vật
thể.
Sản phẩm du
lịch

loại
sản
phẩm vô
hình,
không
thể
nhận
biết
bằng
thị
giác,
khứu
giác,
vị
giác,
xúc
giác.
Do
đó,
việc
đánh

giá
chất
lượng
sản
phẩm du
lịch
không hề đơn
giản

thường
mang
tính
chủ quan

phần
lớn
không phụ
thuộc
vào
người
kinh
doanh

phụ
thuộc
vào khách du
lịch.
Chất
lượng
của sản

phẩm du
lịch
được xác
định
dựa
vào chênh
lệch giẩa
mức độ kỳ
vọng
và mức độ cảm
nhận về
chất
lượng
của
khách du
lịch.
• Tính không đồng
nhất
Sản
phẩm du
lịch
chịu
ảnh
hường
của
nhiều
yếu
tố
tác động bao gồm
nguồn cung

cấp,
dịch
vụ
(cung),
người
mua
dịch
vụ
(du
khách),

cả yếu
tố
thời
gian

thời
điểm
mua bán
dịch vụ
du
lịch.
Dịch vụ du
lịch

tính
phi
tiêu
chuẩn
hóa

cao
nên
muốn

dịch
vụ
tốt
cần
phải

sự
thực hiện
tốt
của cả
hai
phía
người
cung cấp
và khách hàng
cũng
như
các nguồn cung
khác.
• Tính không
thể
tách
rời
Quá
trình
sản

xuất

tiêu
dùng
dịch
vụ
diễn ra
đồng
thời,
do
vậy cung
cầu
dịch
vụ không
thể
tách
rời
nhau.
Thêm vào
đó, phần
lớn
quá
trình
tạo
ra
và tiêu dùng các
sản
phẩm du
lịch
trùng

nhau
về không
gian

thời
gian.
-13-
Chúng không
thể tồn
kho hay
cất
đi
như các hàng hóa thông thường
khác.
Do
đó,
một vấn
đề
đặt ra

phải
tạo ra
được
sự ăn
khớp
giữa
sản
xuất

tiêu

dùng.
Ngoài
những
đặc
điểm
chung của
ngành
dịch
vụ,
ngành du
lịch
còn

những
nét
đặc
thù:
Sản
phẩm du
lịch
được
tạo ra
thường
gắn
với yếu
tố
tài
nguyên
du
lịch

- bao
gồm
cả
tài
nguyên thiên nhiên và
tài
nguyên văn
hóa.
Sản phẩm du
lịch

dạng
sản phẩm không
dịch
chuyển
được.
Khách
du
lịch
muện
thỏa
mãn
nhu cầu của
mình
phải
thông qua
việc
tiêu dùng
sản
phẩm du

lịch
tại
địa
điếm
du
lịch.
Chính vì
vậy,
muện
tiêu
thụ
sản
phẩm du
lịch,
bài toán
đặt ra
cho

nhân
kinh
doanh
du
lịch

phải
tìm cách
thu
hút khách du
lịch
tới

địa bàn
du
lịch
của
mình.
Hoạt
động
kinh
doanh
du
lịch
thường mang tính thời vụ:
Việc
tiêu
dùng sản phẩm
du
lịch
tập
trung
vào
những
thời
gian
nhất
định
trong
ngày
(đệi với
nhóm
sản

phẩm

bộ
phận
nhà
hàng),
trong tuần (với
gói du
lịch cuệi
tuần),

trong
năm
(với
sản phẩm của một sệ
loại
hình
du
lịch
như du
lịch
biển,
du
lịch leo núi
.)•
Tính mùa vụ
trong
sản
phẩm du
lịch

gây
ra
không ít
khó khăn cho
việc
tổ chức
hoạt
động
kinh
doanh

từ
đó
ảnh
hưởng
tới
kết
quả
kinh
doanh của
các nhà
kinh
doanh
du
lịch.
li.
LÝ THUYẾT
VÈ LỢI THÊ
CẠNH TRANH QUỐC
GIA

CỦA
M.
PORTER
1. Tư tưởng chung
Khái
niệm
lợi
thế
cạnh
tranh
quệc
gia
mới
chỉ
xuất hiện từ
thập
niên
80
của thế
kỷ 20
nhưng
những
nỗ
lực
nhằm
giải
thích
nguồn
gệc


lợi
ích của
thương mại
quệc
tế
đã
xuất hiện từ thế
kỷ 15
với
những
học
thuyết ra đời
sau
đó

thể
kể
tới
như

thuyết
lợi
thế
tuyệt
đối
(Adam
Smith,
thế
kỷ
18),


thuyết
về
lợi
thế so
sánh
(David Ricardor, thế
kỷ
18)
hay

thuyết
về
tỷ lệ
các
yếu tố
(Heckscher
Ohlin, thế
kỷ
20).
Cuộc
thảo
luận
về
thuật
ngữ
cạnh
tranh
-
14-

quốc gia

thể bắt
đầu
bằng

thuyết
về
lợi
thế
so sánh của một
quốc gia
cũng
như sự khác
biệt
về công
nghệ
giữa
các ngành. Lý
thuyết
này cho
rằng,
một quốc
gia
sẽ có
lợi
thế
so sánh
trong
những

ngành sử
dụng
nhiều
yếu tố
sản xuất

quốc
gia
đó
dồi
dào.

chở
cần có
lợi
thế
so sánh
thì quốc
gia
đó

thể thu
được
lợi
ích
từ
ngoại
thương cho dù năng
suất
của quốc

gia
đó tháp
trên
tất
cả các ngành. Tuy nhiên
những
giả
thiết
làm cơ sở cho lý
thuyết
này
không
thực
tiễn
trong
hầu
hết
các ngành như
giả
thiết
về công
nghệ
đồng nhát
giữa
các
quốc
gia,
không có
lợi
thế kinh tế

theo
quy mô và các
yếu
tố
sản
xuất
không
dịch chuyến
giữa
các
quốc
gia.
Khắc
phục những bất
cập
trong việc
áp
dụng
các học
thuyết
về thương
mại
cổ
điển
để
giải
thích
lợi
thế
của một

quốc
gia trong
thương mại
quốc tế
ngày
nay,

thuyết
về
lợi
thế
cạnh
tranh
quốc gia được đề
xuất bởi
M.
Porter
đã đề cập đến
lợi
thế cạnh
tranh với
một cách
tiếp
cận
mới,
"động" hơn. Lý
thuyết
này đã
giải
thích

tại
sao một
quốc
gia
lại
thành công
trong khi
những
quốc
gia
khác
lại
thất
bại trong
cạnh
tranh
quốc
tế.
Qua nghiên
cứu,
M.
Porter
cho
rằng,
các đầu vào
quan
trọng đối với
hoạt
động sản
xuất

của nền
kinh tế,
tạo
nên
lợi
thế cạnh
tranh
cho một
quốc gia
trong
những
ngành
nhất
định
không phải chỉ đơn thuần

lao động, vốn,
tài
nguyên
thiên
nhiên mà còn
là những đầu vào do chính doanh nghiệp hoặc Chính phủ
tạo
ra.

thuyết
cổ
điển
giải
thích sự thành công

của
các
quốc
gia trong
các ngành cụ
thể
được
dựa
trên cái
gọi
là các nhân
tố
sản
xuất
ví dụ như đất
đai, lao
động và tài
nguyên thiên
nhiên.
Trong
môi trường
cạnh
tranh
quốc
tế
ngày
nay,
các nhân
tố
này chưa

đủ.
Lợi
thế
cạnh tranh của một quốc
gia chỉ

thể đạt
được khi
mỗi doanh nghiệp
trong
quốc
gia
đó phải chuyển từ
lợi
thế so
sảnh sang
lợi
thế cạnh tranh của một quốc
gia.
Lợi
thế
cạnh
tranh
quốc
gia
bao hàm một
khái
niệm
phong
phú về sức

cạnh
tranh
mà bao gồm các
thị
trường phân
khúc,
các sản phẩm khác
biệt
về công
nghệ,
hiệu
quả
kinh
tế
tăng dần
theo
quy

[16].
-15-
Lợi
thế quốc
gia
trong

thuyết hiện
đại
cần đi xa hơn khái
niệm
chi

phí,

phải
dựa vào
chất
lượng,
tính năng và sự cách tân
sản
phàm
mới.
Khái
niệm
về
lợi
thế
cạnh
tranh
quốc
gia theo
M.
Porter
chú
trọng
khả năng duy trì
lợi
thế cạnh
tranh
của các
doanh
nghiệp

và khả năng này phụ
thuộc
vào ba
điều
kiện:
Trước
hết
là nguồn tạo ra
lợi
thế và hệ thống thứ bậc những
nguồn tạo nên
lợi
thế cạnh tranh theo
tính
bền vững. Những
lợi
thế

thứ
bổc
cao
hơn,
ví dụ như công
nghệ
tiên
tiến,
tính khác
biệt
của sản
phẩm,

danh
tiếng
thương
hiệu

những
mối
quan
hệ khách hàng lâu dài có tính lâu bền
và đem
lại
mức năng
suất
cao
hơn.
Điều
kiện
này đòi
hỏi
một quá trình đầu tư
tích
lũy
bền
vững cũng
như
đổi mới,
sáng
tạo
không
ngừng.

Điều
kiện
thứ hai
chính

so lượng nguồn
lợi
thế
cạnh tranh mà một doanh nghiệp có được.
Nếu một
doanh
nghiệp
chỉ
dựa vào một
lợi
thế
duy
nhất
thì
sê dễ dàng bị các
đối
thủ
vượt
qua
lợi
thế
này. Do
đó,
các
doanh

nghiệp
trong
xu
hướng
cạnh
tranh
gay
gắt
của
thị
trường
hiện
nay
cần đi
theo
xu
hướng
tạo ra nhiều
lợi
thế
trong
suốt chuỗi
giá
trị.
Điều
kiện cuối
cùng để duy
trì
lợi
thế

cạnh
tranh

các doanh nghiệp phải không ngừng
cải
tiến
và nâng cấp
liên
tục
lợi
thể
cạnh tranh của mình. Đây chính
là minh chứng
rõ ràng
nhất
cho tính
"động"
trong
quan
điểm
về
lợi
thế
cạnh
tranh
của M.
Porter,
ở cấp độ
doanh
nghiệp

cũng
như cấp độ
quốc
gia,
khẳng
định một
lần
nữa sự
gia
tăng mức
sống

sự thịnh
vượng
của
quốc
gia
phụ
thuộc
chủ yếu vào khả năng
đổi mới,
khả
năng
tiếp
cổn
nguồn
vốn và
hiệu
ứng
lan

truyền
công
nghệ
của nền
kinh
tế.
Với
cách nhìn
nhổn
mới
đó,
lợi
thế
cạnh
tranh
quốc
gia
qua phân tích của M.
Porter
chịu
tác động của bốn nhóm nhân
tố
chính được
tổng
hợp
trong

hình
kim
cương

(Porter 's
Diamond) và được trình bày
trong
hình
Ì.
Ì
-16-
Hình
1.1.

hình
kim
cương
CHIẾN
LƯỢC,
CO CÂU

CẠNH TRANH
NGÀNH
ĐIÊU KIỆN CÁC
YÊU
TỐ
SẤN XUẤT
à

ĐIỀU KIỆN
VÊ CÂU
CÁC NGÀNH
HÔ TRỌ
VÀ LIÊN

QUAN
Nguồn:
M.
Porter
(1990)
Theo
đó,
4
yếu
tố
chính
tạo
nên
lợi
thế
cạnh
tranh
quốc
gia
là:
(l)Điều
kiện
các
yếu tố sản
xuất:
Nhân
tố
này được
hiểu là vị thế
của

quốc
gia
về
các
yếu
tố
sản xuất
đầu vào như
lao
động được đào
tạo hay
cơ sở
hạ
tầng,
cần
thiết
cho
cạnh
tranh trong
một ngành công
nghiệp nhất
định.
(2)Điều
kiện
về
cầu:
Nhân
tố
này còn được
hiểu

là đặc tính của cầu
trong
nước
đối
với
sản
phẩm
hoặc
hàng
hoa của
ngành đó.
17-
(3)
Các ngành hỗ
trợ
và liên
quan:
Nhân
tố
này có
thể
hiếu
theo
góc
độ sự
tồn
tại
hay
thiết
hụt

những
ngành công
nghiệp
liên
quan
và hỗ
trợ

tính
cạnh
tranh
quốc
tế

quốc
gia
đó.
(4)Chiến
lược,

cấu

cạnh
tranh
ngành: Đây
là những điều
kiện
trong
một
quốc

gia
liên
quan
tới
việc
thành
lập,
tổ chủc

quản

doanh
nghiệp,
cũng
như
những đặc
tính
của cạnh
tranh trong
nước.
Hai
biến
số
bổ
sung
khác có
thể
ảnh
hưởng
đến hệ

thống
quốc
gia
theo
những
cách
rất
quan
trọng
và chúng
cần
thiết
để hoàn thành

thuyết
này,
đó


hội

Chính
phủ.

thể nói,

hội

những
sự phát

triển
nằm ngoài
tầm kiểm
soát của các
doanh
nghiệp,
các Chính phủ của các
quốc
gia
như
chiến
tranh,
sự phát
triển
chính
trị
bên
ngoài
Yếu
tố
cuối
cùng hoàn thành
bủc
tranh
là Chính
phủ.
Chính phủ ở mọi cấp
độ,

thể cải

thiện
hoặc
làm
giảm
lợi
thế
quốc
gia.

thể
nhìn
thấy

nhất khi
xem xét ảnh
hưởng
của
những
chính sách
lên mỗi
nhân
tố.
2.
Mô hình kim cương và các nhân
tố quyết
định
lợi
thế
cạnh
tranh

quốc
gia
của
ngành du
lịch.
Mô hình
kim
cương được trình bày
trong

thuyết
lợi
thế
cạnh
tranh
quốc
gia
của
M.
Porter
bao gồm bốn nhân
tố
chính và
hai
biến
số bổ
sung.
Bốn
nhân
tố

này,
với vai
trò

những yếu
tố
riêng
lẻ
hoặc hệ
thống
tạo ra
môi
trường
kinh
doanh
trong
đó các
doanh
nghiệp
của
quốc
gia
đó thành
lập

cạnh
tranh.
Thêm vào
đó,
mô hình

kim
cương

một hệ
thống

khả
năng tương
tác, củng
cố
lẫn
nhau.
Tác động
của
một
yếu
tố
sẽ phụ
thuộc
vào
trạng
thái
của
các yếu
tố
khác.
Lợi thế
trong
một
yếu

tố
cũng

thể tạo ra
hoặc
phát
triển lợi
thế
ở các
yếu
tố
khác.
Tuy
nhiên,
lợi
thế trong
mỗi yếu
tố
không
phải

điều
kiện
tiên
quyết
để có
lợi
thế
cạnh
tranh trong

một
ngành.
Sự tương tác
lẫn
nhau của
các
lợi
thế
trong
các
điều
kiện
quyết
định sẽ đem
lại
những
lợi
ích
tự
củng
cố
lẫn
nhau,
khiến
cho
các
đối thủ
cạnh
tranh
nước ngoài khó có

-18-

×