TIỂU LUẬN
VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA CÁC MÁC
TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- GTTD: Giá trị thặng dư
- CNTB: Chủ nghĩa tư bản
- TBCN: Tư bản chủ nghĩa
- TLSX: Tư liệu sản xuất
- XHCN: Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA CÁC MÁC TRONG
XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
PHẦN 1: MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
PHẦN 2: NỘI DUNG ......................................................................................................... 3
Chương 1. Cơ sở lý luận của giá trị thặng dư, phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối ................................................................... 3
1.1 Quan điểm về giá trị thặng dư..................................................................................... 3
1.2 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư ....................................................................... 4
1.2.1 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối .................................................. 4
1.2.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và biến tướng của nó ............. 5
1.2.3. Mối quan hệ giữa phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối ....................................................................... 7
1.3. Lịch sử phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam................................................ 9
1.3.1. Khái niệm nền kinh tế thị trường......................................................................... 9
1.3.2 Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội nghĩa ở Việt Nam ............. 9
Chương 2 Vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư của Các Mác trong xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay .. 13
2.1 Sự cần thiết vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay ............................................................................... 13
2.2 Những hướng khai thác khi vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư của
C.Mác trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam hiện nay ................................................................................................. 15
2.2.1 Khai thác những di sản lý luận trong học thuyết giá trị thặng dư về nền kinh tế
hàng hóa....................................................................................................................... 15
2.2.2 Khai thác những luận điểm của Mác nói về quá trình sản xuất, thực hiện, phân
phối giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản cùng những biện pháp, thủ đoạn nhằm thu
được nhiều giá trị thặng dư của các nhà tư bản ........................................................... 17
2.2.3 Khai thác di sản lý luận của Mác nói về q trình tổ chức sản xuất và tái xuất tư
bản chủ nghĩa............................................................................................................... 19
2.2.4 Thu hồi giá trị thặng dư và định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cho phép
bóc lột giá trị thặng dư................................................................................................. 20
PHẦN 3: KẾT LUẬN ...................................................................................................... 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. a
1
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Học thuyết giá trị thặng dư của Các Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Học thuyết đã vạch trần thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa và cội
nguồn đối lập kinh tế giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Ngày nay, từ quan điểm đổi
mới về chủ nghĩa xã hội, học thuyết giá trị thặng dư đã và đang được nghiên cứu để đảm
bảo tính khoa học, phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam
Đất nước ta phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, việc vận dụng học thuyết
giá trị thặng dư trong học thuyết C. Mác trước hết phải nhận thức đúng khái niệm bóc lột
và bóc lột giá trị thặng dư trong học thuyết Mác. Từ đó, có cơ sở khoa học để luận giải
những hiện tượng kinh tế của xã hội hiện nay. “Bóc lột” là một bộ phận người trong xã hội
hoặc tập đồn xã hội nào đó chiếm đoạt khơng có bồi thường thành quả lao động của người
khác hoặc của tập đoàn xã hội khác. Theo C. Mác, việc bóc lột lao động đều có trong tất cả
các hình thái xã hội từ trước tới nay vận động trong những mâu thuẫn giai cấp. Nhưng chỉ
khi nào kẻ sở hữu tư liệu sản xuất tìm ra được người cơng dân tự do, với tư cách là đối
tượng bóc lột, và bóc lột người cơng nhân đó nhằm mục đích sản xuất ra hàng hóa để thu
được giá trị tăng thêm, thi khi đó mới là bóc lột giá trị thặng dư, tư liệu sản xuất mới mang
tính chất đặc biệt là tư bản.
1.
Lý do chọn đề tài
Sau hơn hai mươi năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu như kinh tế
ngày càng phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, với xuất phát điểm từ
nông nghiệp nên nền kinh tế nước ta có quy mơ nhỏ, q trình hịa nhập quốc tế đang gặp
phải nhiều khó khăn. Vì vậy, để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay, việc vận dụng các quy luật kinh tế mà đặc biệt là học thuyết giá
trị thặng dư đã và đang là một hướng áp dụng có hiệu quả.
Giá trị thặng dư là một trong những phát hiện vĩ đại của C.Mác và theo như
2
V.I.Lênin nhận xét thì học thuyết giá trị thặng dư là viên đá tảng của học thuyết kinh tế
của Mác .Gía trị thặng dư đã mang lại những bước phát triển cho nước ta trong giai đoạn
hiện nay
Trong bối cảnh đó, việc học tập và nghiên cứu mơn kinh tế chính trị mà đặc biệt là
học thuyết giá trị thặng dư sẽ góp phần giải quyết những vướng mắc trong quá trình phát
triển các thành phần kinh tế. Vì vậy, nhóm em quyết định chọn đề tài này để thực hiện
tiểu luận.
2.
Mục đích nghiên cứu
-
Nâng cao hiểu biết về các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
-
Khẳng định tầm quan trọng của việc vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
3.
Đối tượng nghiên cứu
- Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và việc vận dụng các phương pháp này trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
4.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: thu thập, phân tích, xử lý và tổng hợp tài liệu, so sánh,
lôgic lịch sử, trừu tượng hóa khoa học.
5.
Cấu trúc đề tài
Đề tài của nhóm gồm 2 chương
Chương 1. Cơ sở lý luận của giá trị thặng dư, phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối và giá trị thặng dư tương đối
Chương 2. Vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư của Các Mác trong xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
3
PHẦN 2: NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận của giá trị thặng dư, phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối
1.1 Quan điểm về giá trị thặng dư
Học thuyết về giá trị thặng dư là một trong những phát kiến lớn nhất mà Mác đã đóng
góp cho nhân loại. Cho đến nay học thuyết giá trị thặng dư của Mác vẫn giữ nguyên giá trị.
Tuy nhiên nó cần được phát triển phù hợp với thực tiễn ngày nay.
Trước Mác, ngay cả những nhà kinh tế tư bản lỗi lạc như D. Ricardo cũng khơng giải
thích được vì sao trao đổi hàng hoá theo đúng quy luật giá trị mà nhà tư bản vẫn thu được
lợi nhuận. Nhờ phân biệt được phạm trù lao động và tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hoá, C. Mác đã chứng minh một cách khoa học rằng trong quá trình sản xuất hàng hố
lao động cụ thể của cơng nhân chuyển giá trị của tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng sang
sản phẩm, đồng thời lao động trừu tượng của người đó thêm vào sản phẩm một giá trị mới
lớn hơn giá trị sức lao động của mình. Khoản lớn hơn đó, tức là số dư ra ngoài khoản bù lại
giá trị sức lao động, C. Mác gọi là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.
Khi nói đến tư bản người ta thường liên tưởng đến tiền, đến tư liệu sản xuất, nhưng
không phải như vậy, mà tư bản là quan hệ sản xuất hàng hoá, là mối quan hệ sản xuất giữa
giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân làm thuê, tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng
dư bằng cách bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê. Bởi vậy, cũng dễ hiểu
khi mục đích của giai cấp tư sản là giá trị thặng dư. Nhưng để sản xuất giá trị thặng dư,
trước hết nhà tư bản phải sản xuất ra hàng hố có giá trị sử dụng, vì giá trị sử dụng là nội
dung vật chất của hàng hoá, là vật mang giá trị và giá trị thặng dư. Đây cũng là quá trình
nhà tư bản tiêu dùng hàng hoá sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất giá trị thặng dư.
Bởi thế mỗi sản phẩm được làm ra đều được kiểm soát bởi nhà tư bản và thuộc sở hữu của
nhà tư bản. Trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, bằng lao động cụ thể của mình cơng
nhân lao động làm th sử dụng tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của chúng vào hàng hoá,
4
bằng lao động trừu tượng công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần
lớn hơn đó là giá trị thặng dư.
Khi thu được giá trị thặng dư nhà tư bản sẽ chia nó làm nhiều phần, sử dụng vào những
mục đích khác nhau, trong đó một phần rất lớn dùng mua tư liệu sản xuất, để tái mở rộng
sản xuất nhằm đem lại nhiều giá trị thặng dư hơn.
1.2 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Đã có nhiều phương pháp được dùng để tạo ra giá trị thặng dư, nhưng hai phương
pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp giá
trị thặng dư tương đối. Mỗi phương pháp đại diện cho một trình độ khác nhau của giai cấp
tư sản, cũng như những giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội.
1.2.1 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được áp dụng ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư
bản, thời kì này nền kinh tế sản xuất chủ yếu là sử dụng lao động thủ cơng, hoặc lao động
với những máy móc giản đơn ở các cơng trường thủ cơng. Đó là sự gia tăng về mặt lượng
của quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Bởi phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối là giá
trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong
khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu là không thay đổi.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là
thời gian lao động thặng dư, khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là 100%. Giả định nhà
tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu khơng thay đổi, vì thế
giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng lên đạt 150% (m’ = 150%)
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày lao
động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản. Nhưng
ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và
tinh thần của người lao động quyết định. Dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của
công nhân là hàng hố, nhưng nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, ngồi
5
thời gian người công nhân làm việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp, người cơng nhân địi
hỏi cịn phải có thời gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức lao động. Mặt khác,
sức lao động là thứ hàng hố đặc biệt vì vậy ngồi yếu tố vật chất người cơng nhân địi hỏi
cịn phải có thời gian cho những nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tơn giáo của mình.
Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút
ngắn thời gian lao động trong ngày. Giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời
gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thăng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh
tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu nhưng không thể vượt quá giới
hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.
Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh vi hơn, đó
là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
1.2.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và biến tướng của nó
Để khắc phục những vấn đề mà phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối gặp phải thì
nhà tư bản đã áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối vào sản xuất. Việc
kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động và vấp phải
cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản
chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại cơng nghiệp cơ khí, kĩ thuật đã tiến bộ làm cho năng
suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột
dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, bó lột giá trị thặng dư tương đối. Giá trị thặng dư
tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng
cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động thăng dư lên ngay trong điều
kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ. Vì giá trị sức lao động được quyết định bởi các tư
liệu tiêu dùng và dịch vụ để sản xuất, tái sản xuất sức lao động, nên muốn hạ thấp giá trị
sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người lao
động. Điều đó chỉ được thực hiện bằng cách tăng năng suất lao động xã hội cho các ngành
sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tư liệu
sinh hoạt và dịch vụ.
6
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, nó được chia ra 4 giờ là thời gian lao động tất yếu, 4
giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Nhưng khi máy
móc được thay đổi, ngày lao động khơng thay đổi, thời gian lao động tất yếu của người
công nhân chỉ còn lại là 3 giờ, thời gian lao động thặng dư đã tăng lên là 5 giờ, vì vậy tỷ
suất thặng dư đã tăng lên là 166%. (Đồng nghĩa với trình độ bóc lột tăng lên).
Sự ra đời và phát triển và sử dụng rộng rãi máy móc đã làm cho năng suất lao động
tăng lên nhanh chóng. Máy móc có ưu thế tuyệt đối so với các cơng cụ thủ cơng, vì cơng
cụ thủ cơng là cơng cụ lao động do con người trực tiếp sử dụng bằng sức lao động nên bị
hạn chế bởi khả năng sinh lý của con người, nhưng khi lao động bằng máy móc sẽ khơng
gặp phải những hạn chế đó. Vì thế, việc sử dụng máy móc làm năng suất lao động tăng lên
rất cao, làm giảm giá trị tư liệu sinh hoạt, làm hạ thấp giá trị hàng hoá sức lao động, rút
ngắn thời gian lao động tất yếu kéo dài thời gian lao động thặng dư, giúp nhà tư bản thu
được nhiều giá trị thặng dư hơn. Phương pháp giá trị thặng dư tương đối ngày càng được
nâng cao do các cuộc cách mạng khoa học, đặc biệt cuộc cách mạng khoa học công nghệ
phát triển với tốc độ vũ bão, đem lại sự phát triển chưa từng có trong lịch sử lồi người, nó
khác với cuộc cách mạng khoa học là dẫn đến sự hình thành các nguyên lý công nghệ sản
xuất mới, chứ không đơn thuần về công cụ sản xuất như cách mạng khoa học, do đó dẫn
đến sự tăng trưởng cao, đưa xã hội loài người bước sang một nền văn minh mới - nền văn
minh trí tuệ.
Một dạng của giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư siêu ngạch, đây là cái đích
hướng tới của các nhà tư bản. Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư thu được do áp
dụng công nghệ mới làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của nó. Xét
trong từng trường hợp giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, nó sẽ bị mất đi
khi cơng nghệ đó đã được phổ biến rộng rãi, nhưng xét theo phạm vi tồn xã hội thì đây
một hiện tượng thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là kì vọng của nhà tư
bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kĩ thuật, hợp lý hoá sản xuất,
tăng năng suất lao động, làm cho năng suất xã hội tăng lên nhanh chóng. C.Mác gọi giá trị
7
thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng
dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, chỉ
khác ở chỗ là một bên là tăng năng suất lao đông xã hội và một bên là tăng năng suất lao
động cá biệt.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công
nghệ để tăng năng suất lao động cá biệt, đánh bại đối thủ của mình trong cạnh tranh.
Tuy giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối có sự khác nhau nhưng cả hai loại đó đều
là một bộ phận giá trị mới do công nhân tạo ra, đều có nguồn gốc là lao động khơng được
trả cơng.
Trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối chiếm ưu
thế, song trong thế kỉ XX thì sản xuất giá trị thặng dư tương đối chiếm ưu thế hơn. Ngày
nay, để sản xuất giá trị thặng dư (m) nhà tư bản vẫn sử dụng kết hợp cả hai phương pháp
nói trên.
1.2.3. Mối quan hệ giữa phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Trên cơ sở nghiên cứu hai phương pháp sản xuất trong giá trị thặng dư ta thấy thực
ra, hai phương pháp giá trị thặng dư không hề bị tách rời nhau, mà chỉ trong mỗi thời kì
khác nhau sự vận dụng hai phương pháp là nhiều hay ít mà thơi, trong thời kì đầu của chủ
nghĩa tư bản thì phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối được sử dụng nhiều hơn so với
phương pháp giá trị thặng dư tương đối, cịn trong thời kì sau của chủ nghĩa tư bản thì ngược
lại.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, việc nhà tư bản kết hợp tốt hai phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư đã tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản, bằng cách tăng
cường các phương tiện kỹ thuật và quản lý để bóc lột ngày càng nhiều sức lao động làm
thuê. Máy móc hiện đại được áp dụng, các lao động chân tay bị cắt giảm nhưng điều đó
khơng đi đơi với giảm nhẹ cường độ lao động của người công nhân, mà trái lại do việc áp
8
dụng máy móc khơng đồng bộ nên khi máy móc chạy với tốc độ cao, có thể chạy với tốc
độ liên tục buộc người công nhân phải chạy theo tốc độ vận hành máy làm cho cường độ
lao động tăng lên, năng suất lao động tăng, ngoài ra nền sản xuất hiện đại áp dụng tự động
hoá cao cường độ lao động người cơng nhân tăng lên với hình thức mới đó là cường độ lao
động thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp, tạo ra sản phẩm chứa nhiều chất
xám có giá trị lớn. Hai phương pháp này là hai phương pháp cơ bản để nhà tư bản nâng cao
mức độ bốc lột giai cấp công nhân.
Ngoài ra, giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối có một cơ sở chung,
đó là đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động nên giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ là biến
tướng cuả giá trị thặng dư tương đối. Tuy vậy giữa chúng vẫn có sự khác nhau. Đó là giá
trị thặng dư tương đối dựa trên năng suất lao động xã hội còn giá trị thặng dư siêu ngạch
dựa trên năng suất lao động cá biệt. Giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ được thay thế bằng giá
trị thặng dư tương đối khi trình độ kỹ thuật mới được áp dụng cá biệt trở thành được áp
dụng phổ biến. Vì vậy giá trị thặng dư siêu ngạch mang tính chất tạm thời. Mác gọi giá trị
thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Sự hình thành và phát triển của nền đại cơng nghiệp thông qua cách mạng công nghiệp
đã mở ra những điều kiện mới cho phát triển khoa học và công nghệ thúc đẩy sản xuất nói
chung và sản xuất giá trị thặng dư nói riêng phát triển nhanh. Cùng với tồn cầu hố kinh
tế, khoa học và cơng nghệ ngày càng trở thành nhân tố quan trọng của sản xuất giá trị thặng
dư trong nền kinh tế thị trường trên thế giới hiện nay.
Vì vậy, sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện hiện đại là sự kết hợp tinh vi và áp
dụng song song các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nhưng nhìn chung kỹ thuật càng
phát triển thì sự bóc lột giá trị thặng dư tương đối chiếm ưu thế.
9
1.3. Lịch sử phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
1.3.1. Khái niệm nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là
nền kinh tế hàng hố phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thông
qua thị trường, chịu tác động, điều tiết các quy luật thị trường. Ở đó cịn tồn tại nhiều thành
phần kinh tế, nhiều loại hình sở hữu cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong một
cơ chế cạnh tranh bình đẳng và ổn định. (Bộ Giáo dục và Đào tạo 2021)
Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về kinh tế thị trường. Theo Xmit (Adam
Smith), với lí thuyết “bàn tay vơ hình" thì nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự điều tiết,
vận động theo quy luật của thị trường, hầu như khơng có sự can thiệp của Nhà nước. Kinh
tế thị trường được hiểu dưới góc độ khác là có sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước “bàn tay
hữu hình" mà đại diện cho thuyết này là Kâynơ (J. M. Keynes) với “Lí thuyết chung về việc
làm, lãi suất và tiền tệ". Theo P.Samuelson, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế trong đó
các cá nhân và các hãng tư nhân đưa ra các quyết định chủ yếu về sản xuất và tiêu dùng.
Các hãng sản xuất hàng tiêu dùng thu được lợi nhuận cao nhất bằng các kỹ thuật sản xuất
có chi phí thấp nhất.
Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử: từ kinh tế tự nhiên, tự
túc, kinh tế hàng hoá rồi từ kinh tế hàng hoá phát triển thành kinh tế thị trường. Kinh tế thị
trường cũng trãi qua quá trình phát triển ở các trình độ khác nhau từ kinh tế thị trường sơ
khai đến kinh tế thị trường hiện đại ngày nay. Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn
minh nhân loại.
1.3.2 Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các
quy luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở
đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, có sự điều tiết của Nhà nước do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. (Bộ Giáo dục và Đào tạo 2021)
10
Nền kinh tế thị trường Việt Nam, cũng như các nền kinh tế thị trường khác, cần có
vai trị điều tiết của Nhà nước, nhưng đối với Việt Nam, nhà nước phải được đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam – đảng cầm quyền do lịch sử khách quan khẳng
định.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một kiểu nền kinh tế
thị trường phù hợp với với đặc trưng lịch sử, trình độ phát triển, hồn cảnh chính trị – xã
hội của Việt Nam, phản ánh trình độ phát triển và điều kiện lịch sử của Việt Nam.
- Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu ở Việt Nam xuất
phát từ những lí do cơ bản sau:
Một là, phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hóa vẫn
tồn tại và ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu ở nước ta hiện nay. (Bộ Giáo
dục và Đào tạo 2021)
Hai là, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế: Do tồn tại nhiều hình thức sở hữu (sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể
kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan
hệ hàng hóa - tiền tệ. (Bộ Giáo dục và Đào tạo 2021)
Ba là, thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền
tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng, mặt khác các đơn vị kinh tế cịn có sự
khác nhau về trình độ kỹ thuật – cơng nghệ, về trình độ quản lý, nên chi phí sản xuất và
hiệu quả cũng khác nhau nên quan hệ kinh tế giữa họ phải thực hiện bằng quan hệ hàng hóa
tiền tệ. (Bộ Giáo dục và Đào tạo 2021)
11
Bốn là, trong quan hệ kinh tế đối ngoại trong điều kiện phân công lao động quốc tế
mỗi quốc gia riêng biệt là chủ sở hữu đối với mỗi hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trường,
sự trao đổi này phải trên nguyên tắc ngang giá. (Bộ Giáo dục và Đào tạo 2021)
-
Hệ thống mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta
Mục tiêu kinh tế - xã hội - văn hóa mà nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta phải đạt là làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. (Bộ Giáo dục và Đào tạo 2021)
Mục tiêu chính trị: làm cho xã hội dân chủ, biểu hiện ở chỗ dân chủ hóa nền kinh
tế, mọi người, mọi thành phần kinh tế có quyền tham gia vào hoạt động kinh tế, vào sản
xuất kinh doanh, có quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của mình; quyền của người sản xuất
và người tiêu dùng được bảo vệ trên cơ sở pháp luật của nhà nước. (Bộ Giáo dục và Đào
tạo 2021)
-
Chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế
Nền kinh tế có nhiều thành phần, với nhiều hình thức sở hữu. Các thành phần kinh
tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với nhau trên cơ sở pháp
luật của nhà nước, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt
đối khi chủ nghĩa xã hội về cơ bản được xây dựng xong. (Bộ Giáo dục và Đào tạo 2021)
-
Chế độ phân phối
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thực hiện phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; đồng thời có các hình thức phân
phối khác nữa (phân phối theo vốn, theo tài năng cùng các nguồn lực khác đóng góp vào
12
sản xuất kinh doanh), vừa khuyến khích lao động, vừa bảo đảm phúc lợi xã hội cơ bản, bảo
đảm sự phân phối công bằng, hợp lý và hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội.
-
Vai trị quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự quản lý và điều tiết nền kinh
tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Vì vậy, sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường phải định hướng cho
nền kinh tế phát triển có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia, lợi ích của nhân dân
lao động thông qua hệ thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát
triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, có sử dụng cơ chế thị trường (vận dụng các quy luật kinh
tế thị trường để đưa ra những công cụ tác động vào thị trường) kích thích sản xuất, giải
phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
-
Nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ chủ yếu
Kết hợp ngay từ đầu giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm giải
phóng sức sản xuất; xây dựng lực lượng sản xuất kết hợp với củng cố và hoàn thiện quan
hệ sản xuất mới XHCN, nhằm phục vụ cho phát triển sản xuất và cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; giữa phát triển sản xuất với từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân
dân; giải quyết tốt các vấn đề xã hội và công bằng xã hội, ngăn chặn các tệ nạn xã hội; giải
quyết tốt các nhiệm vụ chính trị, xã hội, văn hóa, mơi trường và an ninh, quốc phịng.
-
Tính cộng đồng và tính dân tộc
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta mang tính cộng đồng cao
theo truyền thống của xã hội Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường có sự tham gia của
cộng đồng và vì lợi ích của cộng đồng, hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội Việt Nam
giàu có, đầy đủ về vật chất, phong phú về tinh thần, dân chủ, công bằng, văn minh, đảm
bảo cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân.
-
Quan hệ quốc tế
13
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta dựa vào sự phát huy tối đa nguồn
lực trong nước và triệt để tranh thủ nguồn lực nước ngoài theo phương châm “Kết hợp sức
mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại” và sử dụng các nguồn lực đó một cách hợp
lý, đạt hiệu quả cao, để phát triển nền kinh tế đất nước với tốc độ nhanh, hiện đại và bền
vững.
Chương 2. Vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư của Các
Mác trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay
2.1 Sự cần thiết vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Cần phải khẳng định rằng chiếm đoạt giá trị thặng dư là xấu so với chế độ khơng
có người bóc lột người mà chúng ta đang phấn đấu để xây dựng và chỉ xây dựng được
chừng nào đã tạo ra một lực lượng sản xuất xã hội cao với năng suất lao động cao hơn năng
suất lao động của chủ nghĩa tư bản hiện nay rất nhiều, đó là một thời kỳ q độ lâu dài,
khơng thể nóng vội. Nhưng chủ nghĩa tư bản lại tốt so với sản xuất nhỏ và sản xuất tự cung
tự cấp dựa trên lao động thủ công. Trong khi phê phán mặt tiêu cực của chủ nghĩa tư bản,
C.Mác và V.I.Lênnin đồng thời ca ngợi công lao to lớn của chủ nghĩa tư bản chỉ trong mấy
thế kỷ đã tạo ra một lực lượng sản xuất khổng lồ bằng lực lượng sản xuất của mấy ngàn
năm trước đó cộng lại, đồng thời đã nâng cao trình độ xã hội hố sản xuất. Và chính C.Mác
đã viết: “Chúng ta đau khổ khơng những vì sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa,
mà cịn đau khổ vì nó phát triển chưa đầy đủ. Ngoài những tai hoạ của thời đại hiện nay,
chúng ta còn phải chịu đựng cả một loạt những tai hoạ thừa kế do chỗ phương thức sản xuất
cổ xưa lỗi thời vẫn tiếp tục sống dai dẳng với những quan hệ chính trị và xã hội trái mùa do
chúng đẻ ra”.
14
Nước ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát là nước tiểu
nông, nghĩa là từ một nước chưa có nền kinh tế hàng hố, mặc dù có sản xuất hàng hố. Cái
thiếu của đất nước ta, theo cách nói của Mác - khơng phải là và chủ yếu là cái đó, mà chính
là chưa trải qua sự ngự trị của cách tổ chức của kinh tế xã hội theo kiểu tư bản chủ nghĩa.
Nhưng nền kinh tế nước ta là nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do vậy “cách tổ chức
của kinh tế xã hội” theo kiểu sản xuất hàng hố cũng mang tính q độ. Nghĩa là, trong
cùng một nền kinh tế vừa có kinh tế hàng hố vì lợi ích của nhân dân, vừa có kinh tế hàng
hố vì lợi ích của tư nhân. Nhưng dù là nền kinh tế hàng hố nào thì sản phẩm cũng đều
mang hình thức giá trị thặng dư, mặc dù chúng phản ánh những quan hệ xã hội đối lập nhau.
Trong đó, giá trị thặng dư phản ánh mối quan hệ bóc lột và bị bóc lột vẫn được coi là nhân
tố “trợ thủ của chủ nghĩa xã hội”, “xúc tiến chủ nghĩa xã hội”, là cái “có ích” và “đáng
mong đợi”. Vì thế, cốt lõi của vấn đề là phải tạo điều kiện môi trường cho sự gia tăng khối
lượng giá trị thặng dư toàn xã hội ngày càng lớn, tỷ suất ngày càng cao.
Ngày nay, trải qua thực tiễn, chúng ta ngày càng nhận thức rõ: “Sản xuất hàng hố
khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại,
tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa
xã hội đã được xây dựng”. Đường lối đổi mới của Đảng được thể chế hóa thành pháp luật
tạo hành lang pháp lý cho việc hình thành và phát triển nền kinh tế thi trường xã hội chủ
nghĩa.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả trong chủ nghĩa xã hội vẫn cịn
phạm trù giá trị thặng dư. Vì thế, chúng ta phải học tập các nhà tư bản để sản xuất ra càng
nhiều giá trị thặng dư càng tốt. Điều đó hồn tồn phù hợp với lý luận của V.I.Lênin: “Tri
thức về chủ nghĩa xã hội thì chúng ta có, nhưng chúng ta chưa có tri thức về tổ chức với
quy mơ hàng triệu người, chưa có tri thức về tổ chức và phân phối sản phẩm... Cho nên
chúng ta nói: dù hắn là tên đại bịp bợm, nhưng một khi hắn là một thương nhân đã từng làm
công việc tổ chức sản xuất và phân phối cho hàng triệu và hàng chục triệu người, một khi
hắn có kinh nghiệm thì chúng ta phải học ở hắn”.
15
Nghiên cứu để khẳng định sự đúng đắn về lý luận giá trị thặng dư không phải để
nhằm kỳ thị thành phần kinh tế tư nhân. Trái lại, hiểu rõ mục đích, bản chất động lực của
kinh tế tư nhân, để có chính sách thích hợp, vừa khuyến khích nó phát triển, vừa có chính
sách quản lý và điều tiết hợp lý để sử dụng kinh tế tư nhân phục vụ cho sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở một nước kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Khuyến khích kinh tế tư nhân khơng phải là một “thủ đọan vỗ béo để làm thịt”,
không phải dụ tư nhân bỏ vốn ra, đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh rồi lại “dẹp”, “xóa”
như trước đây. Lại càng không phải để kinh tế tư nhân phát triển tự phát theo con đường tư
bản chủ nghĩa. Khai thác động lực kinh tế tư nhân là để phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Có chính sách đúng đắn và bảo đảm mức lợi nhuận thỏa đáng cho
tư nhân. Đây không chỉ là một khoản “cống nộp” mà còn phải coi là một khoản “học phí”
để có cơ hội tiếp xúc với trang thiết bị và công nghệ hiện đại, với phương pháp tổ chức
quản lý tiên tiến, có hiệu quả. Hiện nay, kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng
khá, chiếm tỉ trọng 39 - 40% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh
tế, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước,
tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội.
Theo tinh thần đó, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay, việc vận dụng học thuyết giá trị thặng dư là cần thiết.
2.2 Những hướng khai thác khi vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư của
C.Mác trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay
2.2.1 Khai thác những di sản lý luận trong học thuyết giá trị thặng dư về nền kinh tế
hàng hóa
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu lịch sử
nền sản xuất hàng hoá, đặc biệt là nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Cho nên, chính
Mác chứ khơng phải ai khác là một trong những người nghiên cứu sâu sắc về kinh tế thị
16
trường. Nước ta đang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù nền kinh
tế hàng hoá ở nước ta có những đặc trưng riêng của nó, song đã là sản xuất hàng hố thì ở
đâu cũng đều có những đặc tính phổ biến, cũng phải nói đến giá trị và giá trị thặng dư. Điều
khác nhau chỉ là trong những quan hệ kinh tế khác nhau thì giá trị và giá trị thặng dư mang
bản chất xã hội khác nhau. Do vậy, việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của nền
sản xuất hàng hố tư bản, nghiên cứu những phạm trù, quy luật và việc sử dụng chúng trong
nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa từ di sản lý luận của Mác là việc làm có nhiều ý
nghĩa thực tiễn ở nước ta hiện nay.
Khi phân tích sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, Mác cho rằng mọi hoạt động của
tư bản đều xoay quanh việc tận dụng phương tiện bóc lột nhằm khai thác tối đa sức lao động
để tăng thêm lao động thặng dư. Do đó, dẫn đến tất yếu kéo dài ngày lao động, tăng cường
độ lao động hay cải tiến kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới, tăng năng suất lao động để có
thêm điều kiện thu hút nhiều hơn nữa giá trị thặng dư, nguồn gốc làm giàu của giai cấp tư
sản. Trong hai yếu tố của sản xuất hàng hóa, thì sức lao động là yếu tố cơ bản nhất, còn tư
liệu sản xuất là phương tiện cần thiết cho sản xuất. Nếu trong xã hội tư bản, tư liệu sản xuất
đã được tận dụng để tăng hiệu quả bóc lột thì trong xã hội ta nó phải được chú trọng phát
huy để đạt năng suất lao động cao - yếu tố quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Yếu tố thực sự tạo ra của cải, tạo ra giá trị và giá trị tăng thêm là người lao động. Người lao
động là yếu tố năng động, sáng tạo nhất của lực lượng sản xuất. Chính họ đã cải tạo và làm
biến đổi thế giới tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình, sáng tạo ra lịch sử của mình. Do
đó, vấn đề lao động và chiến lược con người đang được các nước và toàn thế giới hết sức
quan tâm.
Nước ta có nguồn lao động dồi dào. Để tạo được bước phát triển nhảy vọt trong lực
lượng sản xuất, phải tập trung mọi nguồn lực để thực hiện chiến lược đào tạo nguồn nhân
lực đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ: “Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển
17
là vì con người, do con người, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí
trung tâm...”. Đồng thời, phát triển đồng bộ các loại thị trường: tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu
dùng, sức lao động, vốn, tiền tệ…. Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tạo môi trường
pháp lý thuận lợi cho các chủ thể kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh, tự do làm giàu
trong khuôn khổ pháp luật. Điều đó hồn tồn phù hợp với việc phát triển kinh tế hàng hóa,
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng.
Mặc dù chịu ảnh hưởng lớn bởi đại dịch COVID-19 trong năm 2020, dự kiến tăng
trưởng GDP cả thời kỳ chiến lược đạt 5,9%/năm, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao
trong khu vực và trên thế giới; trong đó giai đoạn 2011 - 2015 tăng trưởng bình quân đạt
5,9%/năm; giai đoạn 2016 - 2019 đạt 6,8%/năm và năm 2020 ước đạt trên 2%, phấn đấu
đạt khoảng gần 3%. GDP bình quân đầu người tăng từ 1.331 USD năm 2010 lên khoảng
2.750 USD năm 2020. Không chỉ số lượng, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng
suất lao động được nâng lên rõ rệt. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đạt
khoảng 39%, vượt mục tiêu chiến lược đề ra (35%); năng suất lao động giai đoạn 2016 2020 tăng bình quân 5,8%/năm.
2.2.2 Khai thác những luận điểm của Mác nói về q trình sản xuất, thực hiện, phân
phối giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản cùng những biện pháp, thủ đoạn nhằm
thu được nhiều giá trị thặng dư của các nhà tư bản
Nghiên cứu quá trình sản xuất của tư bản, C.Mác đã xây dựng lý luận giá trị lao
động thật sự khoa học. Đặc biệt, học thuyết GTTD được hình thành trên cơ sở học thuyết
giá trị - lao động mà trực tiếp là việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng.
Trước C. Mác, ngay cả những nhà kinh tế học lỗi lạc của trường phái tư sản cổ điển,
như A-đam Xmít và Đa-vít Ri-các-đơ đã khơng giải thích nổi vì sao các nhà tư bản trao đổi
hàng hóa đúng giá trị mà vẫn thu được GTTD. C.Mác đã luận giải một cách khoa học về
nguồn gốc của giá trị sử dụng và giá trị hàng hóa. C.Mác phân tích nguồn gốc, bản chất của
18
tiền tệ, luận giải quy luật lưu thông tiền tệ, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến khối lượng
tiền cần thiết trong lưu thơng. Ơng đã khắc phục được những nhầm lẫn, hạn chế của trường
phái cổ điển và làm cho học thuyết giá trị - lao động đạt tới sự hồn bị. Nghiên cứu về kinh
tế hàng hóa, C.Mác chỉ ra bản chất sản xuất tư bản chủ nghĩa là tạo ra giá trị thặng dư. Trên
cơ sở xây dựng lý luận hàng hóa sức lao động, C.Mác chỉ ra nguồn gốc, bản chất của giá trị
thặng dư là do sức lao động của người công nhân làm thuê sáng tạo ra; luận giải khoa học
bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Để làm rõ bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác cịn phân tích
trình độ và quy mơ bóc lột của tư bản; chỉ ra các phương pháp làm tăng giá trị thặng dư và
q trình tích lũy tư bản làm cho tư bản không ngừng lớn lên.
Như vậy, điểm mấu chốt của học thuyết GTTD là:
Thứ nhất, chỉ có lao động sống mới tạo ra giá trị của hàng hóa, tạo ra GTTD. Nguồn
gốc tạo ra GTTD là sức lao động của công nhân làm thuê, chỉ có lao động sống (sức lao
động đang hoạt động) mới tạo ra giá trị, trong đó có GTTD, nguồn gốc của GTTD là sự tiêu
dùng sức lao động kéo dài ngoài thời gian tái sản xuất ra giá trị của nó;
Thứ hai, GTTD là quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất TBCN, khơng
có sản xuất GTTD thì khơng có CNTB, GTTD là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản, nội tại
của xã hội tư bản (mâu thuẫn giữa lao động và tư bản, giữa giai cấp tư sản và giai cấp công
nhân), mâu thuẫn này ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu CNTB bằng một xã
hội cao hơn.
Thứ ba, chừng nào còn chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX, cịn hàng hóa
sức lao động, chừng nào mà người lao động còn phải thêm vào thời gian lao động cần thiết
để ni sống mình một số thời gian lao động dôi ra để sản xuất những tư liệu sinh hoạt cho
người chiếm hữu TLSX, chừng đó, học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác vẫn còn nguyên
giá trị.
19
Cho đến nay, các học giả tư sản vẫn không thể bác bỏ được mà còn phải thừa nhận
học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác. Học thuyết giá trị thặng dư của Mác vẫn là học
thuyết kinh tế quan trọng khi nguyên cứu về chủ nghĩa tư bản. Nó có một ý nghĩa thời đại
sâu sắc mà chúng ta cần biết khai thác, vận dụng để xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu q trình lưu thơng của tư bản. C.Mác khẳng định:
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là phương thức tồn tại vĩnh viễn, mà nó
chỉ là một giai đoạn lịch sử đặc biệt và tất yếu được thay thế bằng một xã hội mới cao hơn,
tốt đẹp hơn, đó là chủ nghĩa cộng sản.
2.2.3 Khai thác di sản lý luận của Mác nói về q trình tổ chức sản xuất và tái xuất tư
bản chủ nghĩa
Ngoài ra, C.Mác còn nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội; sự trao đổi giữa hai khu
vực của nền sản xuất xã hội và các điều kiện thực hiện sản phẩm trong tái sản xuất giản đơn
và tái sản xuất mở rộng tư bản xã hội. Đây là cơ sở khoa học cho nhận thức về tính cân đối
trong phát triển kinh tế và các quy luật của tái sản xuất mở rộng trên phạm vi toàn xã hội
trong nền kinh tế thị trường.
Ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa tư bản đã phát triển nền kinh tế hàng hóa, thơng
qua thị trường, giai cấp tư sản mới mua được tư liệu sản xuất và sức lao động. Trong nền
kinh tế của chủ nghĩa tư bản, dưới sự tác động của các quy luật kinh tế, trong đó có quy luật
giá trị thặng dư, nhà tư bản thực hiện phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là
thực hiện kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động nhưng phương pháp này vấp phải
những phản kháng của người lao động nên các nhà tư bản thực hiện phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư tương đối bằng cách ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào
sản xuất để tăng năng suất lao động xã hội, bên cạnh đó các nhà tư bản cịn tích cực cải tiến
tổ chức sản sức, tiết kiệm chi phí sản xuất, tìm hiểu nhu cầu của thị trường. Các tiềm năng
về vốn, khoa học cơng nghệ, trình độ quản lý sản xuất kinh doanh được khơi dậy và phát
triển mạnh mẽ, từ đó làm cho nền kinh tế năng động. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thành phần kinh tế cần phải vận dụng các
20
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư mà các nhà tư bản đã vận dụng để phát triển sản xuất
đặc biệt là chú trọng vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối để năng cao
năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế kết hợp với phân phối theo
lao động và hiệu quả kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao
động.
Những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực mạnh mẽ trong việc cải thiện
năng suất lao động, nhờ đó đã có những cải thiện đáng kể, cả về giá trị và tốc độ. Theo Báo
cáo của Tổ chức Năng suất Châu Á (APO) năm 2020 đã cho thấy:
Năng suất lao động của Việt Nam được cải thiện rõ nét, NSLĐ năm 2020 tính theo
giá so sánh năm 2010 chỉ tăng 5,4% (so với mức tăng 6,2% năm 2019, và ở mức thấp nhất
trong 5 năm gần đây), đạt mức 117,94 triệu đồng/lao động theo giá hiện hành (tương đương
5.081 USD/lao động).
Mức tăng này cao hơn khi so sánh với các quốc gia trong khu vực. Năng suất lao
động của Việt Nam được cải thiện rõ nét, bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 5,8%/năm,
cao hơn giai đoạn 2011-2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%). Đóng góp của năng suất
các nhân tố tổng hợp (TFP) bình quân 5 năm đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30-35%).
Cũng theo Báo cáo 2020 của Tổ chức Năng suất châu Á (APO), năng suất lao động Việt
Nam tụt hậu so với Nhật Bản 60 năm, so với Malaysia 40 năm và Thái Lan 10 năm. Điều
này cho thấy Việt Nam cần phải có nhiều nỗ lực mạnh mẽ hơn nữa trong việc cải thiện năng
suất quốc gia, bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011-2015
(4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%).
2.2.4 Thu hồi giá trị thặng dư và định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cho
phép bóc lột giá trị thặng dư
Ngày nay, CNTB tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu, quản lý
và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự thống trị của
CNTB tư nhân vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của nó vẫn khơng hề thay đổi. Nhà
nước tư sản hiện nay tuy có tăng cường can thiệp vào đời sống kinh tế - xã hội, nhưng về
21
cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản. Những khái niệm và luận điểm phản
ánh, đề cập những sự kiện, quan hệ kinh tế - xã hội mới nhất bao giờ cũng hấp dẫn người
ta. Nhưng chúng không bác bỏ được thực tế là: khơng phải lao động q khứ như máy móc,
thiết bị kỹ thuật làm ra giá trị mới, mà lao động sống mới làm ra giá trị mới, lao động sống
mới tạo ra GTTD trong thời đại kinh tế công nghiệp trước đây đã như vậy, trong kinh tế tri
thức hiện đại cũng vậy.
Tuy nhiên, do trình độ đạt được của văn minh nhân loại và do cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân, mà một bộ phận không nhỏ công nhân ở các nước tư bản phát triển có mức
sống tương đối sung túc, nhưng về cơ bản, họ vẫn phải bán sức lao động và vẫn bị nhà tư
bản bóc lột GTTD. Chỉ có điều khác biệt ở chỗ, quy luật GTTD ngày càng phát huy tác
dụng mạnh mẽ trong điều kiện tồn cầu hóa và kinh tế tri thức, song, cơ chế tác động của
quy luật này phức tạp hơn, hình thức bóc lột GTTD tinh vi hơn nhiều so với trước đây.
Trong điều kiện hiện nay, sản xuất GTTD có những đặc điểm mới:
Một là, do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi, nên khối lượng
GTTD được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động.
Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến đổi
lớn.
Ba là, điểm cần lưu ý, xem xét quan hệ bóc lột của CNTB ngày nay khơng chỉ bó
hẹp trong quan hệ giữa nhà tư bản và người lao động làm thuê ở các nước TBCN, mà phải
xem xét cả quan hệ thống trị, bóc lột của các nước phát triển với các nước kém và đang phát
triển, thể hiện ở sự phân hóa hai cực: giàu, nghèo của thế giới. Bởi vì, sự bóc lột GTTD của
CNTB đã mang “tính quốc tế”.
Bốn là, những sự “điều chỉnh” để thích ứng của CNTB tuy có tác động tới sự phát
triển, song đưa lại hệ quả xấu là khoét sâu thêm khoảng cách giữa giàu và nghèo, làm cho
các nước nghèo ngày càng nghèo hơn, các nước giàu ngày càng giàu hơn