Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Một số biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại SGDI-NHĐT&PTVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.34 KB, 113 trang )

Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá và quốc tế hoá ngày càng mở ra cho nhân loại nhiều thuận
lợi trong việc giao lưu đầy triển vọng. Ngày nay, các nước đang xích lại gần
nhau hơn thông qua cầu nối thương mại quốc tế. Càng ngày những luồng chu
chuyển hàng hoá, dịch vụ, tiền tệ ngày càng nhiều, đã tạo nên sự gắn kết giữa
những nước có trình độ kinh tế khác nhau và kéo theo sự phức tạp ngày càng
lớn trong khâu cuối cùng của quá trình trao đổi là thanh toán quốc tế.
Với xu hướng quốc tế ngày càng tăng và giao lưu thương mại ngày càng
mở rộng đã đặt ra cho các ngân hàng thương mại trong việc phát triển các dịch
vụ kinh tế đối ngoại tương ứng, trong đó không thể không kể tới hoạt động
thanh toán quốc tế với nhiều phương thức đa dạng và phong phú. Trong các
phương thức này, tín dụng chứng từ là một phương thức được sử dụng phổ
biến nhất do tính ưu việt của nó. Tuy nhiên, đây là nghiệp vụ không phải đơn
giản và thực tế công tác này gặp phải nhiều khó khăn, gây thiệt hại cả về tài
chính lẫn uy tín cho ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp Việt Nam.
Là một trong những ngân hàng thương mại nhà nước được thành lập từ
lâu, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã đổi mới phương thức hoạt
động phù hợp với yêu cầu của từng thời kỳ, đáp ứng và phục vụ yêu cầu của
khách hàng. Hoạt động thanh toán quốc tế mới được triển khai chưa lâu, do
vậy phòng ngừa rủi ro trong thanh toán quốc tế đặc biệt là phương thức thanh
toán tín dụng chứng từ là một việc làm cần thiết và cấp bách.
Với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào công tác phòng ngừa
rủi ro tín dụng chứng từ tại SGDI- NHĐT&PTVN, em đã chọn đề tài: “Một số
biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức
thanh toán tín dụng chứng từ tại SGDI-NHĐT&PTVN” là nội dung nghiên
cứu của luận văn tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của luận văn gồm có 3 chương:
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
1


Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế và phương thức
thanh toán tín dụng chứng từ.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức
tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam
Chương 3: Một số biện pháp nhằm hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong
thanh toán quốc tế theo phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
Phạm vi đề tài: chủ yếu là tìm hiểu tình hình, kinh nghiệm thực tế, thực
trạng còn tồn tại trong công tác thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng
chứng từ tại Sở giao dịch I- NHĐT&PTVN. Từ thực tế đó em xin nêu ra ý
kiến đóng góp nhằm hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong thanh toán quốc tế
theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHĐT&PTVN nói riêng và các Ngân
hàng thương mại nói chung.
Rủi ro trong thanh toán quốc tế và phương thức tín dụng chứng từ mang
tính chất tiềm ẩn và hết sức phức tạp, với thời gian nghiên cứu và tìm hiểu
thực tế không nhiều, trình độ người viết còn hạn chế nên luận văn chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót và chưa đáp ứng hết yêu cầu của độc giả.
Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, bạn đọc và những
người có cùng mối quan tâm tới vấn đề này .
Hoàn thành luận văn này, em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới cô
giáo Nguyễn Thị Liên Hương đã tận tình chỉ bảo em trong suốt quá trình làm
luận văn ; gửi lời cảm ơn tới các anh chị phòng TTQT của SGDI-
NHĐT&PTVN đã tạo điều kiện thuận lợi và hướng dẫn trong em trong thời
gian thực tập tại phòng. Em xin gửi lời cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa
Thương mại- Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã dạy dỗ và giúp đỡ em
trong những năm học tập vừa qua.
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
2

Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ VÀ PHƯƠNG
THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
1. Thanh toán quốc tế và các phương thức thanh toán
quốc tế thông dụng.
1.1. Khái niệm và vai trò của thanh toán quốc tế:
1.1.1. Khái niệm về thanh toán quốc tế:
Trong quan hệ kinh tế thì thanh toán quốc tế được hiểu đó là việc
thực hiện các nghĩa vụ chi trả về tiền tệ phát sinh từ các quan hệ kinh tế,
thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức kinh tế quốc tế, giữa các
hãng, các cá nhân ở các nước khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động
trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
Theo một cách hiểu khác thì thanh toán quốc tế là sự vận dụng các
điều kiện thanh toán quốc tế. Các điều kiện thanh toán quốc tế bao gồm:
Điều kiện về tiền tệ, về địa điểm thanh toán, về thời gian thanh toán, về
phương thức thanh toán.
Những điều kiện này được quy định một cách cụ thể trong các điều
khoản ký kết giữa các nước trong các hiệp định thương mại và cụ thể hơn nó
được quy định trong các điều khoản của hợp đồng ngoại thương ký kết giữa
người xuất khẩu và người nhập khẩu.
Yêu cầu đặt ra đối với những người làm công tác thanh toán là phải
hiểu rõ các điều kiện thanh toán quốc tế nhằm vận dụng nó một cách có hiệu
quả trong việc ký kết các hợp đồng ngoại thương với mục đích mang lại lợi
nhuận cho doanh nghiệp và đồng thời cũng phải phù hợp với chính sách kinh
tế đối ngoại và chính sách tiền tệ của quốc gia.
1.1.2. Vai trò của thanh toán quốc tế:
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
3

Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
Hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng có vai trò quan trọng trong
quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước. Thông qua hoạt động thanh
toán quốc tế chúng ta mới thu được nguồn ngoại tệ để nhập khẩu máy móc,
thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng trong nước. Qua đó chúng
ta mới có thể phát huy được tiềm năng thế mạnh của đất nước, đồng thời tận
dụng được vốn và công nghệ hiện đại của các nước công nghiệp phát triển
nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, rút ngắn khoảng
cách giữa nước ta với các nước khác trong khu vực và trên thế giới.
Hoạt động thanh toán quốc tế là một trong những khâu quan trọng
không thể thiếu trong quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá, dịch vụ giữa các
tổ chức, cá nhân, các quốc gia khác nhau, và nó được xem như là một chiếc
cầu nối quan trọng trong quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ thương mại
giữa các nước trên thế giới. Sự giao lưu buôn bán ngày càng mở rộng dẫn
đến sự phát triển của thanh toán quốc tế cả về chất và lượng.
Hoạt động thanh toán quốc tế còn có ý nghĩa đối với các doanh
nghiệp- đặc biệt đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất
nhập khẩu. Vì việc tiến hành mua bán với các bạn hàng ở các nước khác
nhau, có vị trí địa lý khác nhau nên việc tìm hiểu bạn hàng bị hạn chế. Bên
cạnh đó, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, khoa học kỹ thuật và công
nghệ thông tin ngày càng phát triển tạo cơ hội cho những kẻ xấu tiến hành
lừa đảo. Vì vậy, rủi ro đối với các doanh nghiệp trong việc thực hiện các hợp
đồng xuất nhập khẩu ngày càng tăng. Do đó, tổ chức thực hiện tốt hoạt động
thanh toán quốc tế sẽ giúp các doanh nghiệp hạn chế được rủi ro có thể xảy
ra trong hoạt động kinh doanh quốc tế, qua đó thúc đẩy hoạt động xuất nhập
khẩu phát triển.
Đối với các ngân hàng thương mại, hoạt động thanh toán quốc tế
không chỉ là một nghiệp vụ không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44

4
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
ngân hàng, bổ sung và hỗ trợ cho các hoạt động khác như: huy động vốn
ngoại tệ, đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu…cùng phát
triển. Ngoài ra, hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho ngân hàng thu hút
thêm khách hàng có nhu cầu giao dịch kinh doanh quốc tế, nâng cao uy tín
của ngân hàng đối với khách hàng.
Tóm lại, trong xu thế toàn cầu hoá và nền kinh tế thị trường ngày càng
phát triển thì hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng có vai trò quan trọng
không chỉ đối với nền kinh tế nói chung mà còn có ý nghĩa đối với các ngân
hàng thương mại nói riêng.
1.2.Các phương thức thanh toán quốc tế thông dụng:
Phương thức thanh toán quốc tế là một trong những điều kiện không
thể thiếu và quan trọng nhất trong các điều kiện thanh toán quốc tế. Phương
thức thanh toán quốc tế được hiểu là cách thức mà người bán sử dụng để thu
tiền từ người mua, và cách mà người mua dùng để trả tiền cho người bán.
Trong buôn bán quốc tế, người mua và người bán có thể lựa chọn
nhiều phương thức thanh toán khác nhau. Việc lựa chọn phương thức thanh
toán nào cũng phải xuất phát từ nhu cầu: người bán mong muốn thu được
tiền hàng về một cách nhanh chóng và đầy đủ; người mua mong muốn sau
khi trả tiền hàng thì phải nhận được hàng đúng số lượng, chất lượng, thời
gian giao hàng theo đúng thời gian quy định trong hợp đồng.
Người mua và người bán có thể lựa chọn các phương thức thanh toán
khác nhau. Tuy nhiên trên thực tế, có một số phương thức thanh toán mà
người mua và người bán hay sử dụng là:
1.2.1. Phương thức chuyển tiền:
Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán mà một khách
hàng (được gọi là người chuyển tiền) yêu cầu đối với ngân hàng phục vụ
mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác(được gọi là người
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế

44
5
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách
hàng yêu cầu.
Các bên tham gia : Người trả tiền; người hưởng lợi; ngân hàng chuyển
tiền; ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền.
Phương thức chuyển tiền có thủ tục và quy trình thanh toán đơn giản,
thời gian thanh toán nhanh. Tuy nhiên quá trình giao hàng và thanh toán
không gắn liền với nhau, do vậy nó không đảm bảo chắc chắn quyền lợi cho
người xuất khẩu. Bên cạnh đó, ngân hàng tham gia trong phương thức này
chỉ có nhiệm vụ chuyển tiền để nhận phí chuyển tiền, không có gì ràng buộc
trách nhiệm của ngân hàng nếu như hợp đồng buôn bán không được thực
hiện. Do vậy, phương thức chuyển tiền chỉ áp dụng trong trường hợp thanh
toán các hợp đồng có giá trị nhỏ, các bên có quan hệ thương mại thường
xuyên và tin cậy lẫn nhau.
1.2.2. Phương thức nhờ thu:
Phương thức nhờ thu là phương thức thanh toán mà trong đó người
bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho khách
hàng thì uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người mua
trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra.
Các bên tham gia: người bán, người mua, ngân hàng uỷ thác và ngân
hàng đại lý của ngân hàng uỷ thác.
Phương thức nhờ thu có hai loại:
* Nhờ thu phiếu trơn: là phương thức thanh toán trong đó người bán
uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người mua chỉ căn cứ
vào hối phiếu do mình lập ra, còn bộ chứng từ hàng hoá thì gửi thẳng đến
cho người mua không thông qua ngân hàng.
Phương thức nhờ thu phiếu trơn có lợi hơn cho người nhập khẩu,
người xuất khẩu không được đảm bảo quyền lợi vì việc trả tiền hàng và quá

Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
6
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
trình giao hàng không gắn liền với nhau. Tuy nhiên rủi ro cũng có thể xảy ra
đối với người nhập khẩu trong trường hợp hối phiếu đòi tiền đến trước bộ
chứng từ hàng hoá. Trong phương thức nhờ thu phiếu trơn, ngân hàng cũng
chỉ đóng vai trò là trung gian thu hộ số tiền cho người bán và nhận phí.
Phương thức nhờ thu chỉ áp dụng đối với việc thanh toán giữa công ty
mẹ với công ty con, các bên có quan hệ buôn bán lâu đời và tin tưởng lẫn
nhau.
* Nhờ thu kèm chứng từ: là phương thức thanh toán trong đó người
bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng thì lập một bộ chứng từ thanh
toán nhờ thu gửi đến ngân hàng phục vụ mình,nhờ ngân hàng thu hộ số tiền
ghi trên hối phiếu với điều kiện người mua trả tiền hối phiếu hoặc ký chấp
nhận trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới trao cho người mua bộ chứng từ để
đi nhận hàng.
Trong phương thức này ngân hàng có trách nhiệm cao hơn. Ngân
hàng không chỉ thu hộ số tiền người mua mà còn khống chế hộ người bán bộ
chứng từ. Do vậy quyền lợi của người bán được bảo đảm hơn. Tuy nhiên rủi
ro vẫn xảy ra đối với người bán vì người bán mới chỉ khống chế được quyền
nhận hàng của người mua mà chưa khống chế được việc thanh toán của
người mua.
Phương thức này cũng chỉ áp dụng đối với các lô hàng có giá trị nhỏ,
hai bên có quan hệ buôn bán lâu đời và tin tưởng lẫn nhau.
1.2.3. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ:
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một trong những phương
thức được sử dụng phổ biến nhất trong thanh toán quốc tế. Sở dĩ như vậy vì
việc thanh toán chặt chẽ dựa trên bộ chứng từ hàng hoá và trong phương
thức này trách nhiệm của ngân hàng đã được nâng cao hơn. Với sự tham gia

Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
7
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
của ngân hàng, người bán sẽ chắc chắn hơn trong việc nhận được tiền và
người mua cũng đảm bảo nhận được hàng khi đã trả tiền.
Các bên tham gia vào quy trình thanh toán: người xuất khẩu, người
nhập khẩu, ngân hàng mở thư tín dụng, ngân hàng thông báo, ngân hàng xác
nhận, ngân hàng thanh toán.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tuy rằng có nhiều ưu điểm
hơn hẳn so với phương thức chuyển tiền và phương thức nhờ thu. Tuy nhiên
bản thân phương thức này vẫn tồn tại nhiều rủi ro có thể xảy ra đối với các
bên có liên quan: người xuất khẩu vẫn có thể gặp rủi ro do lập chứng từ sai,
rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng hoá… Ngân hàng cũng có thể gặp rủi
ro do tư cách đạo đức của người nhập khẩu, do nhà nhập khẩu mất khả năng
thanh toán; nhà nhập khẩu có thể gặp rủi ro do nhận phải bộ chứng từ giả
không đúng với thực tế hàng hoá được giao..
Để có thể hiểu rõ và vận dụng một cách thành thạo nhằm hạn chế rủi
ro có thể xảy ra là yêu cầu không chỉ đối với các cán bộ hoạt động trong lĩnh
vực xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp mà cũng có ý nghĩa quan trọng
đối với các ngân hàng thương mại. Vấn đề này sẽ được đề cập một cách chi
tiết và cụ thể ở phần sau.
1.2.4. Các phương thức thanh toán khác:
Ngoài ba phương thức thanh toán trên, trong thanh toán quốc tế còn
sử dụng một số phương thức thanh toán khác như:
 Phương thức trả tiền mặt ( Cash payment).
Trong phương thức này, người mua thanh toán tiền hàng cho người
bán khi ký hợp đồng hoặc đặt hàng (CWO- Cash with order) hoặc trước khi
người bán giao hàng (CBD- Cash before delevery) hoặc khi người bán giao
hàng (COD- Cash on delevery) hoặc khi người bán xuất trình chứng từ

Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
8
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
( CAD- Cash against documents). Phương thức này tuy đơn giản nhưng
trong thanh toán quốc tế hiện nay ít dùng vì rủi ro cao và hiệu quả thấp.
 Phương thức ghi sổ (Open account). Đây là phương thức thanh toán
trong đó người bán mở một tài khoản( Hoặc một quyển sổ) để ghi nợ người
mua. Sau khi người bán đã hoàn thành việc giao hàng hay cung cấp dịch vụ,
theo đó, đến thời hạn quy định ( tháng, quý, năm…) người mua sẽ trả tiền
cho người bán. Đặc điểm của phương thức này là đơn giản, chỉ có hai bên
mua và bán tham gia thanh toán, ngân hàng không tham gia với chức năng
mở tài khoản để thực thi thanh toán, chỉ mở tài khoản đơn biên, không mở
tài khoản song biên. Nếu người mua mở tài khoản để ghi thì tài khoản đó chỉ
là tài khoản theo dõi, không có giá trị quyết toán giữa hai bên. Do vậy
phương thức này chỉ thích hợp trong thanh toán mua bán nội địa; thanh toán
tiền gửi bán hàng ở nước ngoài; dùng cho phương thức hàng đổi hàng; thanh
toán khi đôi bên thực sự tin cậy lẫn nhau; dùng để thanh toán tiền phí dịch
vụ như: tiền cước phí vận tải, tiền phí bảo hiểm, tiền hoa hồng trong nghiệp
vụ môi giới uỷ thác…
2. Khái niệm và đặc điểm của phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ:
2.1. Khái niệm phương thức thanh toán tín dụng chứng từ:
Theo “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” số 500,
bản sửa đổi năm 1993- gọi tắt là UCP500 của phòng thương mại quốc tế
Paris thì: Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức thanh
toán trong đó một ngân hàng( ngân hàng mở thư tín dụng) sẽ theo yêu cầu
của khách hàng( người xin mở thư tín dụng) cam kết sẽ trả một số tiền
nhất định cho một người thứ ba(được gọi là người hưởng lợi) hoặc chấp
nhận hối phiếu do người thứ ba này ký phát trong phạm vi số tiền đó, khi

Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
9
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
người thứ ba này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán
phù hợp với những quy định đã được đề ra trong thư tín dụng.
2.2. Đặc điểm của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ:
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ được sử dụng một cách phổ
biến trong buôn bán quốc tế. Điều này xuất phát từ ưu điểm của phương thức
này hơn hẳn các phương thức thanh toán khác. Nếu như các phương thức
thanh toán khác thường mang lại nhiều rủi ro hơn cho bên nhập khẩu hoặc
xuất khẩu, thì phương thức thanh toán tín dụng chứng từ lại đảm bảo quyền
lợi không chỉ đối với người nhập khẩu, mà cả đối với người xuất khẩu. Nhờ
sự có mặt của ngân hàng, người bán đảm bảo chắc chắn sẽ nhận được tiền
hàng khi đã giao hàng; đồng thời người mua cũng đảm bảo chắc chắn nhận
được hàng đúng số lượng, chất lượng, thời gian như đã yêu cầu.
3. Những văn bản pháp lý làm cơ sở cho thanh toán quốc
tế theo phương thức tín dụng chứng từ:
Kinh doanh quốc tế ngày càng phát triển, càng ngày càng có nhiều
quốc gia tiến hành giao dịch, buôn bán với nhau trên thị trường quốc tế. Tuy
nhiên, ở mỗi quốc gia khác nhau đều có sự khác biệt về văn hoá, luật pháp,
chính trị. Do vậy, nếu trong quá trình giao dịch xảy ra sự tranh chấp thì hai
bên sẽ gặp khó khăn và trở ngại trong việc giải quyết các tranh chấp đó. Yêu
cầu cần thiết là phải có những quy định,luật lệ mang tính thống nhất chung
cho tất cả các quốc gia khi tham gia vào thương mại quốc tế nhằm ngăn
ngừa, giải quyết những khó khăn và trở ngại trong thương mại quốc tế.
* Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của phòng thương mại quốc tế(
The International Chamber of Commerce - ICC) là làm cho việc buôn bán
của các công ty ở các nước khác nhau được dễ dàng hơn, thông qua đó sẽ

Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
10
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
mở rộng quan hệ buôn bán quốc tế. Vì thế năm 1993 ICC đã xuất bản: “Quy
tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ”. Tuy nhiên, trong giai
đoạn hiện nay, khi mà công nghệ và thông tin liên lạc thay đổi và cải tiến
nhanh chóng thì việc sửa đổi định kỳ các quy tắc của ICC để thuận tiện hơn
cho việc buôn bán là điều kiện không tránh khỏi. Các quy tắc được sửa đổi
không những phải theo kịp sự phát triển của công nghệ mới mà còn phải
quan tâm tới luật pháp hiện hành của các quốc gia trên thế giới cũng như luật
pháp quốc tế. Qua nhiều lần sửa đổi, ấn bản số 500 là bản điều lệ hoàn chỉnh
nhất, đáp ứng được yêu cầu của các bên tham gia vào quan hệ thương mại
quốc tế, đặc biệt phần lớn các quy định trong bản điều lệ số 500 có liên quan
tới hoạt động của ngân hàng.
Đến nay bản điều lệ số 500 đã tỏ rõ vai trò không thể thiếu trong việc
hướng dẫn và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ, tạo điều kiện cho
phương thức thanh toán tín dụng chứng từ ngày càng phát triển và hoàn
thiện hơn, đồng thời góp phần làm hạn chế những rủi ro có thể phát sinh
trong phương thức thanh toán này.
* Tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế dùng để kiểm tra chứng từ
trong thanh toán tín dụng chứng từ( The International Standard Banking
Practise - ISBP).
Tại cuộc họp tháng 5-2000. Uỷ ban kỹ thuật và Tập quán Ngân hàng
của phòng thương mại quốc tế Paris đã lập nên nhóm công tác soạn thảo văn
bản “Tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế” để kiểm tra chứng từ xuất
trình theo thư tín dụng được ban hành kèm theo Quy tắc và Tập quán thống
nhất về tín dụng chứng từ _ văn bản số 500 của phòng thương mại quốc tế.
ISBP là sự bổ sung mang tính chất thực tiễn cho UCP500. ISBP
không sửa đổi UCP mà nó chỉ giải thích chi tiết và rõ ràng hơn cách áp dụng

các quy tắc của UCP trong giao dịch hàng ngày liên quan đến việc thực hiện
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
11
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
thanh toán quốc tế bằng tín dụng chứng từ. Thông qua việc sử dụng ISBP,
những người kiểm tra chứng từ có thể thực hiện các công việc của mình phù
hợp với tập quán mà đồng nghiệp của họ đang sử dụng trên toàn thế giới,nhờ
đó sẽ giảm đi đáng kể một số lượng chứng từ bị từ chối thanh toán do có sự
khác biệt khi xuất trình lần đầu tiên.
* Ở Việt Nam hiện nay chưa có quy định riêng về thanh toán quốc tế
trong một bộ luật, pháp lệnh hay nghị định của chính phủ. Các quy định của
pháp luật nằm rải rác ở các văn bản chủ yếu sau:
- Bộ luật dân sự năm 1995. Trong bộ luật dân sự có một phần gồm 13
điều từ điều 826 đến 838 có quy định về các giao dịch dân sự có yếu tố nước
ngoài.
- Luật thương mại Việt Nam năm 1997 tại điều 4 luật thương mại quy
định việc áp dụng điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán
thương mại quốc tế trong hoạt động thương mại với nước ngoài.
- Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 có quy định tại điều 3: Áp dụng
điều ước quốc tế và tập quán quốc tế trong hoạt động ngân hàng với nước
ngoài và luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng
ngày 05/06/2004.
- Nghị định số 64/2001/NĐ_CP ngày 20-09-2001 của chính phủ về
hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định
tại điều 4.
Tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, công tác thanh toán
quốc tế dựa vào các văn bản quy định chung của ngành và văn bản hướng
dẫn cụ thể của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam là Quy trình thanh
toán quốc tế đã được chuẩn y tại quyết định số 936/2002/QĐ-NHNN ngày

03/09/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngoài ra còn
tham khảo một số tài liệu và căn cứ pháp lý sau:Quy tắc và thực hành thống
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
12
Lun vn tt nghip i hc Kinh t quc dõn
nht quc t v tớn dng chng t ca phũng thng mi quc t n bn s
500; Quy tc thng nht v hon tr gia cỏc ngõn hng theo tớn dng chng
t do phũng Thng mi quc t ban hnh s xut bn 525; Quyt nh
s711/2001/Q-NHNN ngy 25/05/2001 ca Ngõn hng nh nc ban hnh
Quy ch m th tớn dng tr chm.
4. Ni dung ca phng thc thanh toỏn tớn dng chng
t:
4.1. Quy trỡnh thanh toỏn theo phng thc thanh toỏn tớn dng
chng t:
(1) Sau khi ký kt hp ng, ngi nhp khu lm n xin m th tớn
dng gi n ngõn hng phc v mỡnh, yờu cu ngõn hng m mt L/C cam
kt tr tin cho ngi xut khu.
(2) Cn c vo yờu cu v ni dung ca n xin m L/C, ngõn hng
m th tớn dng s lp ra mt bc th tớn dng, qua ngõn hng i lý ca
mỡnh thụng bỏo v gi bc th tớn dng ny n cho ngi xut khu.
(3) Nhn c thụng bỏo, ngõn hng thụng bỏo L/C s bỏo ngay cho
ngi xut khu bit v thụng bỏo v ton b ni dung ca L/C, v khi nhn
c bn L/C thỡ chuyn ngay n cho ngi xut khu.
Lờ Th Thu Nng Thng mi quc t
44
Ngân hàng
mở L/C
Ngân hàng
thông báo L/C

Người nhập
khẩu
Người xuất
khẩu
6
5
2
653178
4
13
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
(4) Người xuất khẩu khi nhận được L/C thì tiến hành kiểm tra. Nếu
chấp nhận L/C thì tiến hành giao hàng, còn nếu không chấp nhận thì yêu cầu
sửa đổi, bổ sung.
(5) Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập một bộ chứng từ về thanh
toán theo yêu cầu của L/C và thông qua ngân hàng thông báo xuất trình cho
ngân hàng mở L/C để yêu cầu thanh toán.
(6) Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ, nếu phù hợp thì tiến
hành trả tiền cho người xuất khẩu, nếu không phù hợp thì từ chối trả tiền và
gửi trả lại bộ chứng từ cho người xuất khẩu thông qua ngân hàng thông báo.
(7) Ngân hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng
từ cho người nhập khẩu để họ đi nhận hàng.
(8) Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ. Nếu thấy phù hợp thì trả
tiền cho ngân hàng, nếu không phù hợp thì từ chối trả tiền và trả lại bộ
chứng từ.
4.2.Thư tín dụng( Letter of Credit_ L/C):
4.2.1.Khái niệm về thư tín dụng:
Thư tín dụng là một văn bản pháp lý do một ngân hàng viết ra theo
yêu cầu của người nhập khẩu(được gọi là người xin mở L/C) cam kết trả tiền
cho người xuất khẩu( gọi là người hưởng lợi L/C) một số tiền nhất định

trong một khoảng thời gian nhất định với điều kiện người này thực hiện
đúng và đầy đủ những điều khoản đã quy định trong bức thư đó.
Thư tín dụng được mở ra trên cơ sở của hợp đồng mua bán nhưng thư
tín dụng lại do một ngân hàng mở ra để cam kết trả tiền theo yêu cầu của
người mua, cho nên sau khi thư tín dụng đã được mở tại một ngân hàng nhất
định nào đó vào một thời gian nhất định thì nó hoàn toàn độc lập với hợp
đồng mua bán. Tính chất độc lập này thể hiện ở chỗ, nó thể hiện nghĩa vụ
của ngân hàng đối với người hưởng lợi thư tín dụng. Việc thanh toán của
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
14
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
ngân hàng không căn cứ vào tình hình thực tế của việc thực hiện hợp đồng
mà chỉ căn cứ vào L/C mà thôi.
Trong trường hợp vì lý do nào đó mà người mua không thanh toán
cho ngân hàng thì ngân hàng vẫn phải hoàn thành nghĩa vụ trả tiền của mình
đối với người bán khi người này làm đầy đủ và đúng các điều khoản của thư
tín dụng.
4.2.2. Nội dung của thư tín dụng:
Trong một bức thư tín dụng có những điều khoản chủ yếu sau đây:
- Số hiệu, địa chỉ và ngày mở L/C:
- Tên và địa chỉ của những bên có liên quan : người nhập khẩu, người
xuất khẩu, các ngân hàng( ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo, ngân
hàng trả tiền, ngân hàng xác nhận).
- Loại thư tín dụng.
- Số tiền của thư tín dụng.
- Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền, thời hạn giao hàng ghi trong L/C.
- Nội dung về hàng hoá, về vận tải, về giao nhận hàng hoá.
- Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình.
- Cam kết trả tiền của ngân hàng mở L/C.

- Những điều khoản đặc biệt khác.
4.2.3. Các loại thư tín dụng:
Theo Uỷ ban kỹ thuật và nghiệp vụ Ngân hàng thuộc ICC, thư tín
dụng được phân biệt theo các cách sau:
* Theo loại hình: có hai loại
- Thư tín dụng có thể huỷ ngang- Revocable Letter of Credit
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang - Irrevocable Letter of Credit
* Theo phương thức sử dụng:
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
15
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang có giá trị trực tiếp – Irrevocable
straight document credit
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận - Confirmed
Irrevocable Letter of Credit
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang miễn truy đòi - Irrevocable
without Recourse Letter of Credit
- Thư tín dụng có thể chuyển nhượng - Transferable Letter of Credit
- Thư tín dụng tuần hoàn - Revolving Letter of Credit:
+ Thư tín dụng tuần hoàn có tích luỹ-Cummulative Revoling Letter of
Credit
+Thư tín dụng tuần hoàn không tích luỹ - No Cummulative Revoling
Letter of Credit.
- Thư tín dụng giáp lưng – Back to back Letter of Credit.
- Thư tín dụng với điều khoản đỏ- Red Clause Letter of Credit.
- Thư tín dụng dự phòng-Stand by Letter of Credit.
- Thư tín dụng đối ứng- Reciprocal Letter of Credit.
5. Rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín
dụng chứng từ:

5.1. Khái niệm vể rủi ro:
Rủi ro theo nghĩa chung được hiểu là sự kiện không mong đợi, không
thuận lợi có thể xảy đến gây ra mất mát, hư hỏng và thiệt hại.
Đối với phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, tuy rằng đây là
phương thức thanh toán có nhiều ưu điểm, đã dung hoà được lợi ích của các
bên. Song, bản thân phương thức này vẫn còn tồn tại những rủi ro có thể xảy
ra đối với cả người mua, người bán và ngân hàng.
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
16
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
5.2. Rủi ro đối với các bên có liên quan trong phương thức thanh
toán tín dụng chứng từ:
5.2.1 Rủi ro đối với người nhập khẩu:
Rủi ro xảy ra đối với người nhập khẩu đó là khi anh ta đã trả tiền bộ
chứng từ cho ngân hàng phát hành, nhưng trên thực tế không nhận được
hàng hoá hoặc nhận được không đúng như thoả thuận của hai bên mua- bán
đã đề ra trong hợp đồng ngoại thương. Nguyên nhân của rủi ro này xuất phát
từ người xuất khẩu đã không trung thực.
Thêm vào đó rủi ro có thể xảy ra khi người nhập khẩu nhận phải bộ
chứng từ giả, tức là người xuất khẩu đã không gửi hàng nhưng đã lập nên bộ
chứng từ giả để rút tiền của người nhập khẩu và ngân hàng. Ngân hàng chỉ
có trách nhiệm kiểm tra tính chân thực của bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp
với L/C thì tiến hành thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu, và đòi tiền nhà
nhập khẩu. Để có thể hạn chế được rủi ro này thì nhà nhập khẩu thường nhờ
ngân hàng thu hộ mình một bộ chứng từ thật chi tiết và hoàn hảo.
Ngoài ra, người nhập khẩu có thể gặp phải rủi ro về tài chính. Đó có
thể là do người nhập khẩu chưa nhận được bộ chứng từ nhưng hàng hoá đã
cập cảng, trong trường hợp họ cần hàng gấp thì cần phải nhờ đến ngân hàng
phát hành L/C phát hành một thư bảo lãnh gửi đến hãng tàu để nhận hàng,

và như vậy người nhập khẩu sẽ phải mất một khoản phí cho hoạt động bảo
lãnh của ngân hàng.Hoặc khi ngân hàng phát hành đứng trước tình trạng mất
khả năng thanh toán thì mức độ thiệt hại của người nhập khẩu phụ thuộc vào
số tiền ký quỹ cho ngân hàng.
5.2.2. Rủi ro đối với người xuất khẩu:
Nhà xuất khẩu có thể gặp rủi ro khi không thể lập và nộp một bộ
chứng từ hoàn hảo phù hợp với quy định trong L/C. Sai lầm này sẽ dẫn đến
tình trạng kéo dài thời gian thanh toán. Khi thời gian thanh toán bị kéo dài
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
17
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
thì họ có thể gặp phải rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái vì tỷ giá của
đồng ngoại tệ giảm so với đồng nội tệ thì giá trị thực tế thu được sẽ giảm sút
so với giá trị ban đầu. Hoặc khi họ gặp phải sự từ chối nhận hàng hoặc thanh
toán từ phía nhà nhập khẩu do bộ chứng từ sai, trong khi đó hàng đã đến
nước của người nhập khẩu. Lúc này nhà xuất khẩu phải chịu các khoản phí
như lưu tàu quá hạn, mua bảo hiểm cho hàng hóa, môi giới cho việc tìm
người mua mới hoặc mất tiền chuyên trở hàng về nước..
Bên cạnh đó họ cũng có thể gặp phải rủi ro khi ngân hàng phát hành
hay ngân hàng trả tiền mất khả năng thanh toán cho dù họ có xuất trình một
bộ chứng từ hoàn hảo thì cũng không nhận được tiền. Hoặc họ cũng có thể
gặp phải rủi ro khi có sự thay đổi về chính trị hay cơ chế chính sách của
nước người nhập khẩu.
5.2.3.Rủi ro đối với ngân hàng thương mại:
* Đối với ngân hàng mở thư tín dụng(Issuing bank): là ngân hàng cam
kết trả tiền cho người xuất khẩu khi họ xuất trình cho ngân hàng bộ chứng từ
hoàn toàn phù hợp đúng với yêu cầu đề ra trong L/C trong thời hạn có hiệu
lực của L/C. Một số rủi ro mà ngân hàng gặp phải khi sử dụng phương thức
thanh toán tín dụng chứng từ bao gồm:

Rủi ro xuất phát từ phía người nhập khẩu khi họ mất khả năng thanh
toán hoặc trì hoãn/không chịu thanh toán. Nguyên nhân có thể là do ngân
hàng khi tiến hành mở L/C đã không thẩm định kỹ về khả năng tài chính của
doanh nghiệp; hoặc nhà nhập khẩu sau khi nhập hàng về không bán được
hàng, không thu hồi được vốn nên trì hoãn thanh toán cho ngân hàng.Rủi ro
này cũng có thể bắt nguồn từ rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng
hoá.Trong quá trình ký kết hợp đồng ngoại thương hai bên mua và bán đã
thoả thuận với nhau bên nào có quyền thuê người chuyên chở hoặc mua bảo
hiểm cho hàng hoá. Nếu trong quá trình vận chuyển tàu trở hàng bị rủi ro mà
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
18
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
lỗi không phải do người vận tải thì khi người nhập khẩu không mua bảo
hiểm cho hàng hoá thì họ sẽ mất toàn bộ/một phần giá trị của lô hàng. Vì
vậy họ có thể trì hoãn việc thanh toán cho ngân hàng.
Rủi ro cũng có thể xảy ra khi nhà xuất khẩu có hành vi lừa đảo trong
việc lập nên bộ chứng từ hoàn hảo xuất trình cho ngân hàng để được thanh
toán. Mặc dù ngân hàng đã có sự kiểm tra cẩn thận nhưng cũng không phát
hiện ra. Nếu người xuất khẩu bị phá sản và người nhập khẩu không đủ năng
lực tài chính để bồi thường cho ngân hàng thì ngân hàng mở L/C sẽ phải
chịu rủi ro này.
Một rủi ro nữa cũng có thể xảy ra đó là do sự biến động của tỷ giá hối
đoái. Trong thời gian từ khi ký hợp đồng cho tới khi thanh toán tiền hàng là
thời gian dài, tỷ giá hối đoái trên thị trường có thể thay đổi,nếu người nhập
khẩu không tính toán đến khả năng mất giá của đồng nội tệ so với đồng
ngoại tệ thì khiến cho họ không muốn nhận hàng vì hàng bán sẽ bị lỗ. Do đó,
nếu số tiền ký quỹ cho ngân hàng khi họ mở L/C mà không bù đắp được
mức độ trượt giá của đồng nội tệ thì ngân hàng sẽ gặp rủi ro về tài chính tức
là tiền lãi mà ngân hàng thu được trên số tiền ký quỹ nhỏ hơn so với số tiền

mà ngân hàng bị thiệt khi đồng nội tệ mất giá.
Cuối cùng rủi ro xảy ra khi ngân hàng mở L/C không tuân thủ các
điều khoản quy định trong UCP500. Theo UCP500 ngân hàng sẽ được miễn
thanh toán trong trường hợp bộ chứng từ có lỗi. Tuy nhiên, khi ngân hàng
không hành động theo đúng quy định của UCP thì ngân hàng có thể gặp rủi
ro: Thông báo từ chối thanh toán đối với những bộ chứng từ không phù hợp
mà không nói rõ sự không phù hợp của chứng từ đó; Thông báo sự không
phù hợp hoặc từ chối thanh toán bộ chứng từ vượt quá 7 ngày làm việc của
ngân hàng; khi ngân hàng làm mất bộ chứng từ hoặc không chuyển trả bộ
chứng từ lại cho người xuất khẩu.
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
19
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
* Đối với ngân hàng thông báo( Advising bank):ngân hàng thông báo
thường là ngân hàng đại lý của ngân hàng mở L/C có trách nhiệm chuyển
toàn bộ nội dung của L/C đã nhận được cho người xuất khẩu và chuyển
nguyên vẹn bộ chứng từ do người xuất khẩu xuất trình cho ngân hàng mở L/
C. Ngân hàng thông báo có thể là ngân hàng có quan hệ mã khoá đối với
ngân hàng mở hoặc không. Trong trường hợp nếu ngân hàng thông báo
không có quan hệ mã khoá với ngân hàng mở thì nó phải có trách nhiệm
trong việc kiểm tra mã khoá của ngân hàng mở là đúng hay sai trước khi
thông báo cho người xuất khẩu. Do vậy, rủi ro xảy ra khi ngân hàng tiến
hành thông báo phải một L/C giả mà khi đó theo thông lệ quốc tế thì nó hoàn
toàn phải chịu trách nhiệm đối với các bên có liên quan.
* Rủi ro đối với ngân hàng xác nhận( Confirming bank): là ngân hàng
đứng ra xác nhận cho ngân hàng mở L/C theo yêu cầu của ngân hàng này.Có
sự xuất hiện của ngân hàng xác nhận là khi người xuất khẩu không hoàn
toàn tin tưởng vào ngân hàng mở L/C, yêu cầu phải có ngân hàng có uy tín
hơn xác nhận cam kết việc trả tiền cho mình. Khi ngân hàng mở L/C không

có khả năng trả tiền cho người bán thì trách nhiệm này sẽ thuộc về ngân
hàng xác nhận.Vì vậy, rủi ro xảy ra khi ngân hàng xác nhận chưa kiểm tra
khả năng thanh toán của ngân hàng mở đã vội xác nhận cho L/C theo yêu
cầu của ngân hàng mở để cuối cùng phải lãnh trách nhiệm thanh toán cho
người bán khi ngân hàng mở L/C bị phá sản hoặc mất khả năng thanh toán.
* Rủi ro đối với ngân hàng chiết khấu/trả tiền(Negotiating
bank/Paying bank): là ngân hàng mở L/C hoặc là ngân hàng do ngân hàng
mở L/C uỷ nhiệm. Trong trường hợp ngân hàng trả tiền không phải là ngân
hàng mở L/C thì theo lệ ngân hàng này không có trách nhiệm nào phải thanh
toán cho người xuất khẩu trước khi nhận được tiền từ ngân hàng phát hành
L/C. Tuy nhiên trên thực tế, theo cơ sở của bộ chứng từ được xuất trình thì
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
20
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
ngân hàng chiết khấu sẽ ứng trước cho người xuất khẩu với điều kiện truy
đòi để trợ giúp cho người xuất khẩu. Chình vì vậy rủi ro xảy ra đối với ngân
hàng này có thể xuất phát từ một số nguyên nhân sau:
Do ngân hàng mở L/C bị phá sản và do đó sẽ không thanh toán tiền
cho ngân hàng chiết khấu. Cũng có thể xảy ra những nguyên nhân bất khả
kháng như chiến tranh,khủng hoảng kinh tế…mà ngày xuất trình chứng từ
hoặc ngày hết hạn hiệu lực của L/C rơi đúng vào thời gian các sự kiện trên
xảy ra, thì theo quy định của UCP500 ngân hàng mở L/C sẽ được miễn trách
trả tiền cho người xuất khẩu. Trong khi đó trên thực tế người xuất khẩu đã
giao hàng và đã chiết khấu bộ chứng từ.
Rủi ro cũng có thể xuất phát từ người nhập khẩu khi họ cố tình trì
hoãn thanh toán. Họ có thể yêu cầu ngân hàng mở L/C thông báo rằng bộ
chứng từ có lỗi trong thời gian 7 ngày làm việc của ngân hàng để từ chối
thanh toán sau này.Do đã ứng trước tiền cho xuất khẩu nên với thời gian trì
hoãn càng dài thì ngân hàng chiết khấu sẽ bị động về vốn vì không thu được

số tiền đã chiết khấu.
Cuối cùng, rủi ro xảy ra xuất phát từ ngân hàng chiết khấu khi họ
không thực hiện đúng quy định trong UCP500. Theo quy định trong UCP
ngân hàng chiết khấu cũng có thời hạn 7 ngày làm việc để kiểm tra bộ chứng
từ và gửi đến ngân hàng mở L/C để đòi tiền. Nếu ngân hàng chiết khấu
không tuân thủ quy định này hoặc làm mất bộ chứng từ trong thời hạn quy
định thì ngân hàng mở L/C có quyền từ chối thanh toán bộ chứng từ.
Mặc dù phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức tỏ
ra có nhiều ưu điểm hơn hẳn, đã dung hoà được quyền lợi của các bên song
nó vẫn tiềm ẩn những rủi ro. Điều này đòi hỏi các ngân hàng thương mại
phải luôn luôn cảnh giác đề phòng những rủi ro có thể xảy ra. Từ sự phân
tích ở trên có thể thâu tóm nguyên nhân của những rủi ro trong thanh toán
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
21
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
theo phương thức tín dụng chứng từ xuất phát từ những rủi ro được chỉ ra ở
phần dưới đây.
5.3 Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức
thanh toán tín dụng chứng từ:
5.3.1 Rủi ro kỹ thuật:
Rủi ro kỹ thuật được hiểu là sự sai sót mang tính kỹ thuật trong quá
trình thanh toán quốc tế. Đó có thể là do sự thực hiện sai quy trình nghiệp vụ
hay sai sót trong việc lập bộ chứng từ hoặc do không tuân thủ quy định của
UCP. Loại rủi ro này đều có thể xuất phát từ phía người bán, người mua và
ngân hàng.
Đối với người mua, rủi ro này xảy ra xuất phát từ kinh nghiệm và
trình độ nghiệp vụ của cán bộ hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu còn
hạn chế. Họ có thể chưa có kinh nghiệm trong việc kiểm tra bộ chứng từ .Do
vậy, họ nhận phải bộ chứng từ không hoàn toàn đúng với tình trạng thực tế

của hàng hoá. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó nếu việc kiểm tra chứng từ không kỹ
lưỡng như số lượng các loại chứng từ, người cấp giấy chứng nhận..thì sau
này khi xảy ra tranh chấp sẽ gặp phải khó khăn trong việc khiếu kiện. Cũng
có thể do cán bộ đã mắc sai sót trong việc thu thập thông tin, tìm hiểu đối tác
làm ăn. Một nguyên nhân nữa là do chưa nắm bắt được các luật tố tụng, các
quy định và thông lệ quốc tế. Khi xảy ra khúc mắc, nếu người mua không
khiếu nại kịp thời thì họ sẽ bị lỡ cơ hội kinh doanh, mất mát tổn thất về hàng
hoá và về tài chính.
Đối với người bán, rủi ro xảy ra khi họ lập bộ chứng từ không phù
hợp với yêu cầu của L/C như sai chính tả, hối phiếu ghi sai người ký phát…
Họ cũng gặp rủi ro khi giao hàng hoá không phù hợp với quy định của L/C,
do xuất trình chứng từ muộn. Chính điều này là cơ hội để người nhập khẩu
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
22
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
từ chối hoặc trì hoãn việc thanh toán, đòi giảm giá hàng bán. Rủi ro cũng
xảy ra khi họ không nắm bắt được các thủ tục tố tụng, khi quá trình thanh
toán xảy ra khúc mắc nếu người bán không khiếu kiện kịp thời, đúng chỗ thì
họ sẽ bị mất quyền lợi.
Đối với ngân hàng thương mại, nguyên nhân chủ yếu để gây ra rủi ro
là do trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng. Họ có thể mắc sai sót khi
kiểm tra bộ chứng từ, khi tìm hiểu khách hàng đặc biệt là những thông tin về
tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh; do việc không hiểu và vận dụng
không thống nhất các nguồn luật điều chỉnh L/C.
5.3.2 Rủi ro chính trị:
Rủi ro chính trị là những rủi ro về sự thay đổi chính trị, kinh tế, chính
sách của một quốc gia khiến cho người bán không nhận được tiền, người
mua không nhận được hàng. Điều đó là nguyên nhân gây ảnh hưởng đến

ngân hàng. Rủi ro chính trị xảy ra có thể do chiến tranh, bạo loạn gây cản trở
tới việc giao nhận hàng. Nó cũng khiến cho người xuất khẩu và ngân hàng
có thể không phải thực hiện những nghĩa vụ của mình.
5.3.3. Rủi ro ngoại hối:
Do việc thanh toán thường ấn định bằng đồng tiền nước ngoài và điều
đó sẽ phụ thuộc vào sự biến động của tỷ giá hối đoái và lượng dự trữ ngoại
tệ đó của ngân hàng. Nếu tỷ giá hối đoái biến động sẽ làm thay đổi quyết
định kinh doanh của doanh nghiệp và gián tiếp ảnh hưởng đến ngân
hàng.Còn nếu lượng dự trữ ngoại tệ của ngân hàng không đáp ứng đủ nhu
cầu ngoại tệ của khách hàng thì buộc ngân hàng phải đi vay ngân hàng khác.
Điều này làm giảm uy tín của ngân hàng.
5.3.4. Rủi ro về đạo đức:
Đây là rủi ro khi một trong các bên tham gia không chịu thực hiện
đúng nghĩa vụ của mình gây thiệt hại lợi ích đối với các bên có liên quan.
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
23
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
Điều này xuất phát từ hành vi lừa đảo của người xuất khẩu khi không chịu
giao hàng hoặc giao hàng không đúng, từ người nhập khẩu khi không chịu
thanh toán tiền hàng…
Tóm lại, đối với bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng tiềm ẩn rủi ro,
và hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng vậy. Với phương thức thanh
toán tín dụng chứng từ nó cũng gây ra rủi ro cho ngân hàng trong hoạt động
thanh toán quốc tế nói riêng và kinh doanh nói chung. Để có thể hiểu, tìm ra
nguyên nhân, đồng thời đề ra biện pháp nhằm hạn chế rủi ro xảy ra là yêu
cầu không chỉ đặt ra đối với cán bộ ngân hàng mà còn là nhiệm vụ của tất cả
các ngân hàng thương mại.
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44

24
Luận văn tốt nghiệp Đại học Kinh tế quốc dân
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC
THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI SỞ GIAO DỊCH I TRONG THỜI
GIAN QUA
1. Khái quát về NHĐT&PTVN và Sở giao dịch I:
1.1. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam:
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam có tên tiếng Anh: Bank for
Investment and Development of VietNam; tên viết tắt là BIDV; tên giao dịch
quốc tế là Vietinde; có trụ sở tại 191 Bà Triệu- toà nhà VINCOM.
NHĐT&PTVN được thành lập theo quyết định 177/TTg ngày 26/04/1957
của thủ tướng chính phủ. Trong quá trình hoạt động và trưởng thành, ngân
hàng được mang các tên gọi khác nhau phù hợp với thời kỳ xây dựng và
phát triển của đất nước:
- Ngân hàng Kiến thiết Việt nam từ ngày 26/04/1957.
- Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt nam từ ngày 24/06/1981.
- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam từ ngày 14/11/1990.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam(NHĐT&PTVN) là một
trong bốn ngân hàng thương mại nhà nước lớn nhất ở Việt nam được hình
thành sớm nhất và lâu đời nhất, là doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt,
được tổ chức hoạt động theo mô hình Tổng công ty nhà nước. Tính đến ngày
31/12/2005, tổng tài sản của NHĐT&PTVN đạt 131.800 tỷ đồng. Hệ thống
tổ chức được hình thành và hoàn thiện dần theo mô hình của một tập đoàn
trong tương lai. Hiện nay, mô hình tổ chức của NHĐT&PTVN gồm 5 khối
lớn: Khối ngân hàng thương mại quốc doanh( bao gồm 3 sở giao dịch và các
chi nhánh trên toàn quốc); khối công ty; khối các đơn vị sự nghiệp; khối liên
Lê Thị Thuỳ Nương Thương mại quốc tế
44
25

×