Tải bản đầy đủ (.ppt) (27 trang)

Tài liệu Tác động của con người lên môi trường potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (708.28 KB, 27 trang )

II. Tác động của con người lên
các thành phần môi trường
1. Tác động của
Con ngêi – BiÓn vµ §D
A- Tầm quan trọng của biển

Biển và đại dương chiếm 71% diện tích hành tinh
với độ sâu trung bình 3.710m và tổng khối nước
1,37 tỷ km3.

Tài nguyên biển và đại dương rất đa dạng được
chia ra thành các loại:
- Nguồn lợi hoá chất và khoáng chất chứa trong khối nước
và đáy biển
- Nguồn lợi nhiên liệu hoá thạch, chủ yếu là dầu và khí tự
nhiên
- Nguồn năng lượng "sạch" khai thác từ gió, nhiệt độ
nước biển, các dòng hải lưu và thuỷ triều.

Mặt biển và vùng thềm lục địa là đường giao
thông thuỷ, biển là nơi chứa đựng tiềm năng cho
phát triển du lịch, tham quan, nghỉ ngơi, giải trí,
nguồn lợi sinh vật biển.

Sinh vật biển là nguồn lợi quan
trọng nhất của con người:

200.000 loài động thực vật.

Sản lượng sinh học : Thực vật nổi
550 tỷ tấn, thực vật đáy 0,2 tỷ tấn,


các loài động vật tự bơi 0,2 tỷ tấn.

Sản lượng khai thác thuỷ sản từ biển
và đại dương toàn thế giới gia tăng,

năm 1960: 22 triệu tấn;

1970: 40 triệu tấn;

1980: 65 triệu tấn;

1990: 80 triệu tấn.
Theo đánh giá của FAO, lượng thuỷ sản
đánh bắt tối đa từ biển là 100 triệu tấn.

Trữ lượng hải sản ở phần Biển Đông
thuộc Việt Nam cho phép khai thác với
mức độ trên 1 triệu tấn/năm.
Biển bao phủ 71% bề mặt Trái đất với diện tích 361 triệu km2, là nơi sinh sống
của khoảng 2 vạn loài thực vật, hơn 400 loài cá có giá trị kinh tế cao, trên
70 loài tảo biển cùng vô số các loài khác Sức sản xuất nguyên khai của
biển khoảng 500 tỷ tấn/năm và sản lượng khai thác hàng năm đạt tối đa
600 triệu tấn. Đây là tiềm năng rất lớn đối với ngành khai thác thủy sản của
thế giới.
- Khai thác thủy sản là hoạt động đánh bắt từ hồ ao, sông ngòi, biển và đại
dương các loài thuỷ sản khác nhau trong đó cá chiếm đến 85- 90% sản
lượng. Sản lượng thuỷ sản đánh bắt được chủ yếu là từ biển và đại dương.
Theo thống kê của FAO, hiện nay toàn thế giới có hơn 160 quốc gia làm kinh
tế thuỷ sản, trong đó 21 quốc gia có sản lượng đánh bắt cá biển trên 1 triệu
tấn/năm thuộc châu á, châu Âu và châu Mỹ.

Các ngư trường khai thác thủy sản chủ yếu trên thế giới là Biển Bắc, Đông
Bắc Đại Tây Dương, Tây Bắc Đại Tây Dương, Trung tâm Tây Đại Tây
Dương, Tây Nam Đại Tây Dương, Bắc Địa Trung Hải, Đông ấn Độ Dương,
Tây Bắc Thái Bình Dương, Đông và Đông Bắc Thái Bình Dương và Tây
Nam Thái Bình Dương (xem bản đồ các ngư trường chính và sản lượng
khai thác và nuôi trồng thuỷ sản).
- Sản lượng khai thác thuỷ sản từ nửa sau thế kỉ XX cho đến nay ngày càng
tăng nhanh.
Các nước có sản lượng đánh bắt thuỷ sản lớn nhất thế giới là Trung Quốc
(gần 18 triệu tấn), Pêru (gần 8 triệu tấn), Hoa Kỳ (5 triệu tấn), Nhật Bản (4,8
triệu tấn), Inđônêxia (4,3 triệu tấn), Chi Lê (4 triệu tấn), ấn Độ (3,9 triệu
tấn), LB Nga (3,7 triệu tấn), Thái Lan (2,9 triệu tấn) và Nauy (2,8 triệu tấn).
"Biển và đại dương là niềm hy vọng
của loài người trong tương lai".

Hàng năm, biển và đại dương có thể cung cấp 135 tỷ
tấn chất hữu cơ (gấp 1000 lần sản phẩm NN toàn cầu
nếu chỗ nào cũng canh tác),

Đại dương thế giới đang chứa đựng khoảng 3-4 trăm
tỷ tấn hydrrocacbon,

trữ lượng chung của tất cả các nguyên tố hoà tan
trong nước biển và đại dương là 50 triệu tỷ tấn.

Lượng vật chất khổng lồ này không được khai thác
hết, chúng sẽ bị chôn vùi dưới các điều kiện khác
nhau và tạo nên các loại khoáng sản mà con người sẽ
khai thác trong tương lai.


Trong khối nước biển và đại dương chứa tới 80 nguyên tố hoá
học

trong 1 km3 nước chứa 21.10
6
tấn Clo; 11,8.10
6
tấn Natri; 1,5 .
10
6
tấn Magie; 1.10
6
tấn S; Ca, K, Br, C, St, B,

Vàng cũng có tới 6kg/km3, Bạc có tới 225kg/km3.

có tới 50.1015 tấn các loại muối hoà tan, riêng lượng muối ăn
trong đại dương có thể đủ cung cấp cho nhu cầu của con nguời
tới 1,5 tỷ năm.

Nếu đại dương bốc hơi hết nước, thì bề mặt của nó sẽ phủ một
lớp muối dày 60m (NaCl=80%).

Trữ lượng NaCl được dự tính là 38. 1015 tấn hay 22.106 km3.

Trung Quốc - là số 1 về sản lượng muối 4000 năm qua, hiện
nay đang chiếm 1/5 tổng sản lượng muối thế giới (50 tr tấn).

Việt Nam là 1 trong những quốc gia sản xuất nhiều muối trên
TG, năm 1995, sản lượng là 630.000 tấn

Nước biển là hoá phẩm tổng hợp.
* Dầu mỏ và khí đốt:

Tổng diện tích các vùng có khả năng về dầu khí là khoảng
50.10
6
km2 (so với trên lục địa là 30.106km2),

trữ lượng khoảng 150 tỷ tấn (chiếm 45%) trữ lượng của cả TG

dầu khí bắt đầu được khai thác mạnh từ năm 1960 - nay.

Dầu khí được khai thác chủ yếu từ độ sâu 200m của mực nước
biển trở vào, khả năng hiện nay ở độ sâu 4000m

số lượng các mỏ dầu ở vùng đáy biển chiếm tới 77% tổng số
các mỏ dầu trên toàn TG.

Dầu khí phân bố không đều trên TG, trữ lượng dầu khí tập
trung ở vùng Trung Đông (4.10
9
tấn), ở Vịnh Mexico (2.10
9
tấn).

Nhờ việc khai thác dầu khí mà nhiều quốc gia đã trở nên phồn
thịnh như NaUy, Anh, ả Rập, Mexico, Mỹ, Nhưng nhiều
quốc gia có trữ lượng dầu khí lớn cũng lâm vào cảnh bi
thương của các cuộc chiến tranh tàn khốc
Dầu khí ở nước ta:


thềm lục địa rộng chừng 1 triệu km2 và là nơi có triển vọng
dầu khí lớn,

đã xác định được 7 bồn trầm tích có triển vọng chứa dầu.

sản lượng dầu thô khai thác hàng năm tăng 30%.

Sản lượng khai thác 10 năm: trên 100 triệu tấn dầu thô, và
luôn đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu.

Bên cạnh việc khai thác dầu, chúng ta đã xây dựng nhà máy
điện khí Bà Rịa để sử dụng nguồn khí thải ra trong khai thác
dầu, nhà máy đã đi vào hoạt động năm 1996, có công suất
khoảng 300MW.

Nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam cũng đã được xây
dựng tại Dung Quất tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng 30% nhu cầu cả
nước.

trong số 170 lô dầu khí đã thăm dò được thì có 79 lô đang
trong vùng chồng lấn và tranh chấp với các nước láng giềng.

2010 phấn đấu 40 triệu tấn dầu và 5-10 tỷ m3 khí/ năm.
Các loại TN khác:
* Than đá: trên TG có khoảng hơn 100 hầm lò khai thác than đá
dưới đáy biển, trong đó Nhật Bản chiếm 30%, Anh chiếm
10%.
* Các quặng kim loại khác: Các quặng Sắt, Đồng, Thiếc, Niken và cả đá
vôi, Phôtpho, Lưu huỳnh cũng được khai thác trên đáy biển. Trên các vùng

đá gốc lộ ra dưới đáy biển Thái Bình Dương còn phát hiện ra các loại
quặng giàu Coban, Mn, Zn, Platin và Molypden. Dưới đáy đại dương còn
có các loại kim loại đa kim nguồn gốc nhiệt dịch, chúng là thành phần của
lớp Manti thâm nhập vào vỏ trái đất theo cơ chế đối lưu nhiệt, thành phần
của chúng gồm Au, Ag, Cu, Zn, Pb, Sn
* Kết hạch Sắt và Mangan:
* Bùn khoáng
* Photphorit:
* Các loại sa khoáng
* Vật liệu xây dựng
Năng lượng của biển và đại dương.
a. Năng lượng tạo ra từ sự chênh lệch nhiệt và độ mặn: Nhiệt độ của lớp nước mặt
và lớp nước dưới sâu của các vùng biển nhiệt đới và á nhiệt đới chênh nhau tới 20 -
25oC, tiềm năng có thể tới 5 tỷ KW. Hiện nay Nhật Bản, Mỹ và Tahiti đã sử dụng
nguồn NL này. Tiềm năng khai thác NL loại này ở nước ta khoảng 0,15 tỷ kW.
Độ mặn ở bờ biển chết lên đén 25%, người ta lợi dụng sự chênh lệch độ mặn giữa
nước của biển Chết và Địa Trung Hải để chạy máy phát điện, phương pháp này
mới bắt đầu được thử nghiệp, tiềm năng ước tính cỡ 2,6 tỷ kW.
b. Năng lượng thuỷ triều: Tiềm năng của loại NL này được đánh giá là khoảng 1.240
tỷ kW/ năm, về mặt lý thuýêt, nó có thể cung cấp 20% sản lượng NL toàn cầu hiện
nay.
c. Năng lượng sóng: Sóng biển chứa đựng nguồn NL vô cùng to lớn, hơn 100 năm
trước đây, sóng biển đã được dùng để tạo thành điện. Theo đánh giá hiện nay, tổng
NL sóng biển là 2,7.1012kW. Người Nhật đi tiên phong trong việc sử dụng NL
sóng biển tạo thành điện, nhưng NaUy là nước đầu tiên lắp đặt máy phát điện nhờ
sóng biển có quy mô lớn với công suất 500kW.
d. Năng lượng dòng chảy đại dương: TG có 2 dòng hải lưu cực lớn với 2 chiều nóng -
lạnh ngược nhau, đó là dòng Gulf Stream và Kurôshio, riêng dòng Kuroshio đã có
lưu lượng lớn gấp 20 lần tổng lưu lượng các dòng sông trên TG. Theo tính toán thì
tổng tiềm năng của các hải lưu là 5 tỷ kW,

e. Hydro nặng trong nước biển: Trong nước biển H nặng có hàm lượng khoảng
30mg/lít. Nếu vậy thì trong biển và đại dương có tới 10.000 tỷ tấn H nặng, đốt nó
sẽ tạo ra NL tương đương với 30 lần NL của dầu mỏ của cả TĐ.
Các dạng tài nguyên biển khác.
a. Giao thông vận tải - Hàng hải.
b. Du lịch
c. Khí hậu, địa hình
d. Vị thế.
c. Nuôi trồng thuỷ hải sản

Các bãi biển: Nước ta có diện tích biển lớn, đường bờ
biển dài (3260km)

125 bãi biển có bãi cát trắng, phẳng và độ dốc nhỏ
(TB 1-3
o
), đủ điều kiện thuạn lợi để khai thác phục vụ
du lịch.

Các bãi biển nước ta phân bố trải đều từ Bắc (bắt đầu
là bãi biển Trà Cổ dài 17km bằng phẳng) đến Nam
(bãi biển Hà Tiên với hon Phụ Tử).

Bên cạn đó, dọc bờ biển nước ta còn có khoảng 3000
hòn đảo lớn nhỏ và các quần đảo gần và xa bờ tạo
nên nhiều bãi biển và phong cảnh đẹp mà nguyên
vẹn, hoang sơ, môi trường trong lành và các điều kiện
tự nhiên thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch
biển: đảo Cát Bà, Cù Lao Chàm, Côn Đảo, Phú Quốc,


B – Con người tác động lên biển
B – Con người tác động lên biển

Biển là nơi tiếp nhận phần lớn các chất thải từ lục địa theo các
dòng chảy sông suối, các chất thải từ các hoạt động của con
ngưười trên biển nhưư khai thác khoáng sản, giao thông vận
tải biển.

Trong nhiều năm, biển sâu còn là nơi đổ các chất thải độc hại
như chất thải phóng xạ của nhiều quốc gia trên thế giới. Các
biểu hiện của sự ô nhiễm biển khá đa dạng, có thể chia ra
thành một số dạng như sau:

Gia tăng nồng độ của các chất ô nhiễm trong nước biển như dầu, kim
loại nặng, các hoá chất độc hại.

Gia tăng nồng độ các chất ô nhiễm tích tụ trong trầm tích biển

Suy thoái các hệ sinh thái biển như hệ sinh thái san hô, hệ sinh thái
rừng ngập mặn, cỏ biển,

Suy giảm trữ lượng các loài sinh vật biển và giảm tính đa dạng sinh
học biển.

Xuất hiện các hiện tượng như thuỷ triều đỏ, tích tụ các chất ô nhiễm
trong các thực phẩm lấy từ biển.

Hàng năm, các chất thải rắn đổ ra biển trên thế giới khoảng 50
triệu tấn gồm đất, cát, rác thải, phế liệu xây dựng, chất phóng

xạ.

Một số chất thải loại này sẽ lắng tại vùng biển ven bờ. Một số
chất khác bị phân huỷ và lan truyền trong toàn khối nước biển.

Việc khai thác dầu khí trên biển có tác động mạnh mẽ nhất đến
môi trưường biển. Hiện tượng rò rỉ dầu từ giàn khoan, các
phương tiện vận chuyển và sự cố tràn dầu có xu hưướng gia
tăng

Hàng năm loài người thải ra biển hơn 10 triệu tấn dầu bẩn,
trong đó có khoảng 5 triệu tấn được thải ra qua các dòng sông
và các khu công nghiệp ven biển, khoảng 1 triệu tấn do rửa
khoang chứa của các tàu chở dầu và dầu bẩn của các tàu
thuyền khác thải ra

Loài người đã và đang thải ra biển rất nhiều chất thải
độc hại một cách có ý thức và không có ý thức:

Theo tính toán, 2/3 lưượng DDT (khoảng 1 triệu tấn) do
con ngưười sản xuất hiện đang còn tồn tại trong nưước
biển.

Một lượng lớn các chất thải phóng xạ của các quốc gia trên
thế giới được bí mật đổ ra biển. Riêng Mỹ năm 1961 có
4.087 và năm 1962 có 6.120 thùng

Việc nhấn chìm các loại đạn dược, bom mìn, nhiên liệu tên
lửa của Mỹ đã đưược tiến hành từ hơn 50 năm nay. Riêng
năm 1963 có 40.000 tấn thuốc nổ và dụng cụ chiến tranh

đưược hải quân Mỹ đổ ra biển.

Trong thập kỷ 70, ở vùng biển Đại Tây Dưương và biển
Bắc đã có hàng chục vạn chim biển và vô số cá biển chết vì
ô nhiễm dầu. Con rùa biển lớn nhất thế giới nặng hơn 900
kg tìm thấy ở bờ biển xứ Gan bị tắc ruột chết vì một chiếc
túi nilon khổ 15 x 22cm.

Hoạt động vận tải trên biển là một trong các nguyên nhân quan
trọng gây ô nhiễm biển. Rò rỉ dầu, sự cố tràn dầu của các tàu
thuyền trên biển thường chiếm 50% nguồn ô nhiễm dầu trên
biển.

Các tai nạn đắm tàu thuyền đổ vào biển nhiều hàng hoá,
phương tiện và hoá chất độc hại. Các khu vực biển gần với
đường giao thông trên biển hoặc các cảng là nơi nước biển có
nguy cơ dễ bị ô nhiễm.

Ô nhiễm không khí có tác động mạnh mẽ tới ô nhiễm biển.
Nồng độ CO2 cao trong không khí sẽ làm cho lưượng CO2
hoà tan trong nước biển tăng. Nhiều chất độc hại và bụi kim
loại nặng được không khí mang ra biển.

Sự gia tăng nhiệt độ của khí quyển trái đất do hiệu ứng nhà
kính sẽ kéo theo sự dâng cao mực nưước biển và thay đổi môi
trường sinh thái biển.

Bên cạnh các nguồn ô nhiễm nhân tạo trên, biển có thể bị ô
nhiễm bởi các quá trình tự nhiên nhưư núi lửa phun, tai biến
bão lụt, sự cố rò rỉ dầu tự nhiên,

Việt Nam – chất lượng môi trường biển xuống cấp.

Biển Việt Nam nhận các chất gây ô nhiễm từ hai nguồn chính là lục địa và
từ biển. Các chất gây ô nhiễm chủ yếu là dầu, hoá chất bảo vệ thực vật,
chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp.

Việt Nam có khoảng 13 hệ sinh thái chính ở biển và đới bờ. Các hệ sinh
thái này rất dễ bị tổn thưương bởi tác động ô nhiễm, đặc biệt là ô nhiễm
dầu.

Theo thống kê của Cục Môi trưường (Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
trưường), kể từ năm 1989 đến nay có gần 20 vụ tràn dầu lớn nhỏ đưược
ghi nhận. Điển hình là:

Sự cố Quy Nhơn ngày 10/8/1989, hơn 200 tấn dầu thô đã tràn ra Vịnh Quy
Nhơn.

Sự cố Bạch Hổ ngày 26/11/1992, khoảng 300 - 700 tấn dầu thô đã tràn ra biển
do đứt đưường ống mềm.

Sự cố ngoài khơi Vũng Tàu ngày 20/9/1993, 2000 tấn bột mì và 200 tấn dầu
FO và DO đã loang ra một vùng rộng lớn khoảng 640km2.

Thiệt hại kinh tế ước tính lên đến hàng trăm tỷ đồng. Hơn nữa, hàng năm
khoảng 200 triệu tấn dầu thô của các nước vận chuyển thông qua vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam đến Nhật Bản và Hàn Quốc, đang tạo nguy cơ
không nhỏ về sự cố tràn dầu.
Ở vùng nước ven bờ VN, đến năm 2010 dự tính chất thải
sẽ tăng rất lớn:


dầu khoảng 35 - 160 tấn/ngày,

nitơ tổng số 26 - 52 tấn/ngày và

tổng amôni 15 - 30 tấn/ngày.
Hàng năm trên 100 con sông cần cù tải ra biển khoảng

880 km3 nước,

270 - 300 triệu tấn phù sa,

nhiều chất có thể gây ô nhiễm biển như các chất hữu cơ, dinh
dưỡng, kim loại nặng và nhiều chất độc hại khác
Nguồn: Báo cáo Hiện trạng Môi trường Việt Nam 2003 và Phạm Văn Ninh
* Chỉ tính riêng cho nguồn thải công nghiệp
** Chỉ tính cho khu vực Đà Nẵng và sông Hàn

Theo Nguyễn Đình Tuấn (1999), từ Vùng Kinh tế trọng điểm ven
biển phía Nam đã thải vào các sông một lượng

nước thải sinh hoạt là 113.216m3/ngày và

nước thải công nghiệp - 312.330m3/ngày.

Sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ đã bị ô nhiễm và axít hóa nặng với

giá trị tương ứng pH = 4,4 - 5,0 và 3,8 - 4,0 do rửa trôi phèn từ
các lưu vực của các sông rạch và chất thải gây nên.


Sù cè víi dÇu:

18 giờ 30 ngày 12-1-2002 tàu Fortune Freighter đâm va với xà
lan chở 500 tấn dầu của Tỉnh đội An Giang tại khu vực Cảng
contena quốc tế trên sông Sài Gòn, làm hàng trăm tấn dầu bị
tràn ra ngoài. Tuy được hỗ trợ của các cơ quan ứng cứu sự cố
dầu tràn quốc gia nhưng ảnh hưởng của sự cố đến môi trường
không nhỏ.

11 giờ ngày 20-3-2003 tàu Hoàng Anh chở 600 tấn dầu DO bị
chìm tại phao số 8 vụng Vũng Tàu, làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến nuôi trồng thủy sản ở khu vực.
Nguồn: Theo Hiện trạng môi trường biển Việt Nam, 2003

Tóm lại, loài người coi biển cả là thùng rác thì
rốt cuộc những rác rưởi đó sẽ quay lại gây tai
hoạ cho con người. Chúng ta cần biết rằng,
khả năng tự làm sạch các chất ô nhiễm của
biển là có hạn, bởi vậy con người cần phải xử
lý trước khi đổ ra biển các chất nước thải, khí
thải, rác rưởi, Không nên vì tiết kiệm công
của mà đổ bừa ra biển, hậu quả sẽ còn lớn hơn
nhiều.

Bảo vệ môi trường biển là một trong những
nội dung quan trọng của các chương trình bảo
vệ môi trường của Liên Hợp Quốc và các quốc
gia trên thế giới.

Công ước Luật biển năm 1982,


Công ước Marpol 73/78 chống ô nhiễm biển,

Công ước quốc tế 1990 về việc sẵn sàng đối
phó và hợp tác quốc tế chống ô nhiễm dầu đã
thể hiện sự quan tâm của quốc tế đối với vấn
đề ô nhiễm biển.

×