Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

phát huy vai trò của đội ngũ báo cáo viên trong hoạt động tuyên truyền ở tỉnh cà mau hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.07 KB, 110 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử nhân loại, từ khi xuất hiện giai cấp đối kháng và đấu tranh
giai cấp, các giai cấp thống trị đều xây dựng một hệ thống lý luận nhằm bảo vệ
lợi ích của giai cấp họ. Công tác tư tưởng ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu hình
thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp, làm cho hệ tư tưởng của
giai cấp mình giữ địa vị thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội.
Công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản là hoạt động có mục đích nhằm
xây dựng, phát triển và khơng ngừng hồn thiện hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân, làm cho hệ tư tưởng này chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần
của xã hội.
Tuyên truyền là một trong ba hình thái cơng tác tư tưởng cơ bản của
Đảng ta, nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thơng
qua những hình thức, phương tiện khác nhau. Hoạt động tuyên truyền góp
phần định hướng các giá trị đúng đắn, xây dựng thế giới quan khoa học, tư
tưởng, tình cảm, nhân cách, lối sống, tri thức cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân, chuyển biến thành hành động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo trong
thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tuyên truyền miệng là một hình thức đặc thù của công tác tuyên
truyền. Báo cáo viên, tuyên truyền viên là người thực hiện nhiệm vụ tuyên
truyền miệng, là người sử dụng nghệ thuật giao tiếp trực tiếp để cung cấp và
trao đổi thơng tin, giải thích những vấn đề về tư tưởng, lý luận, thực tiễn nảy
sinh trong quần chúng, bao gồm cả hoạt động đối thoại giữa người nói và
người nghe, thơng tin hai chiều khơng mang tính áp đặt…, là hình thức tun
truyền đặc biệt có hiệu quả, nhất là đối với điều kiện ở cấp cơ sở.


2


Cũng như cả nước, đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Cà Mau thời gian qua
đã được tổ chức và thực hiện ngày càng tốt hơn các nhiệm vụ chính trị của
mình trong điều kiện sơng nước của vùng tận cùng phía nam của Tổ quốc.
Tuy nhiên đội ngũ này cũng còn nhiều hạn chế trong tổ chức hoạt động, về
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là các phương pháp, kỹ năng, nghệ
thuật tuyên truyền miệng, nên chưa phát huy được tốt vai trị tun truyền
miệng trong cơng tác tư tưởng.
Để nâng cao hiệu quả của hoạt động của đội ngũ báo cáo viên trong
công tác tư tưởng, cấp uỷ và ban tuyên giáo các cấp ở Cà Mau đang đầu tư
nghiên cứu để đổi mới tổ chức và hoạt động của đội ngũ này. Vì vậy, việc
nghiên cứu vấn đề phát huy vai trò tuyên truyền miệng qua hoạt động của đội
ngũ báo cáo viên ở Cà Mau lên ngang tầm với nhiệm vụ chính trị hiện nay là
hết sức cần thiết. Với lý do đó, tác giả đã chọn vấn đề: “Phát huy vai trò của
đội ngũ báo cáo viên trong hoạt động tuyên truyền ở tỉnh Cà Mau hiện
nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tuyên truyền miệng là một trong những hình thức tuyên truyền có lịch
sử lâu đời nhất trong các hoạt động tuyên truyền của Đảng. Do đó, cùng với
tầm quan trọng của nó, đến nay đã có nhiều tác giả tiếp cận, nghiên cứu hoạt
động tuyên truyền nói chung và tuyên truyền miệng với nhiều góc độ khác
nhau như:
- “Một số vấn đề lý luận và nghiệp vụ công tác tư tưởng”, PGS.TS.
Phạm Quang Nghị (chủ biên), (1997), Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội. Tác giả đã chỉ ra những tư tưởng mang tính chỉ đạo, làm cơ sở lý luận
cho công tác tư tưởng, đồng thời nêu ra những yêu cầu nghiệp vụ, góp phần
nâng cao hiệu quả của cơng tác tư tưởng.
- Cơng trình nghiên cứu khoa học “Nâng cao năng lực hoạt động thực
tiễn của đội ngũ báo cáo viên ở Hà Nội hiện nay” của PGS.TS Lương Khắc



3
Hiếu, 2005, đã nêu ra thực trạng đội ngũ báo cáo viên ở Hà Nội và hoạt động
của họ, từ đó có những kiến nghị và giải pháp thích hợp, có thể vận dụng vào
việc phát huy vai trị của đội ngũ báo cáo viên trong hoạt động tuyên truyền
miệng ở nước ta hiện nay.
- “Học tập phương pháp tuyên truyền cách mạng Hồ Chí Minh”, của
PGS.TS. Hồng Quốc Bảo (2006), Nxb Lý luận chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh. Cuốn sách này giúp người đọc tìm hiểu nguồn gốc lý luận của hoạt
động tuyên truyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh qua việc nêu lên những đặc
trưng cơ bản của phương pháp tun truyền của Bác.
- Cơng trình nghiên cứu của tác giả Huỳnh Minh Khởi “Nâng cao trình
độ lý luận chính trị cho đội ngũ báo cáo viên của Đảng bộ cấp huyện ở đồng
bằng sông Cửu Long”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2006; Công trình
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hồng Vệ “Phát huy vai trị thơng tin chính trị
- xã hội trong hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên cấp cơ
sở tỉnh Cà Mau hiện nay” luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Triết học 2008, tập
trung nghiên cứu lý luận chính trị và vai trị của nó đối với hoạt động của
người báo cáo viên.
- “Nghiệp vụ Tuyên giáo” của PGS.TS. Ngơ Văn Thạo (chủ biên),
(2008), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Là tài liệu nghiên cứu, tìm hiểu
nghiệp vụ cơng tác tun giáo, trong đó tác giả đã làm rõ những khái niệm cơ
bản của hoạt động tuyên truyền như: tuyên truyền, tuyên truyền miệng, báo
cáo viên và các yếu tố tác động đến hiệu quả tuyên truyền. Cuốn sách đã nêu
những nội dung cơ bản nhất quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
lĩnh vực tuyên truyền.
- “Công tác tuyên truyền miệng báo cáo viên” của PGS.TS. Ngô Văn
Thạo (chủ biên), (2008), Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. Cuốn sách đã cung
cấp một cách có hệ thống những kiến thức nghiệp vụ của công tác tuyên
truyền miệng cho đội ngũ báo cáo viên, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền miệng.



4
- “Nguyên lý công tác tư tưởng" tập 1 - 2, của PGS.TS Lương Khắc
Hiếu (chủ biên) (2008) Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tài liệu này giới
thiệu những vấn đề chung nhất của hoạt động tư tưởng, những nội dung cơ
bản chỉ đạo hoạt động tuyên truyền và những quan điểm thể hiện sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác tuyên truyền. Đây là tài liệu tham khảo hết sức bổ
ích cho những người làm cơng tác tuyên truyền và những người quan tâm đến
vấn đề này.
Ngoài ra, gần đây có “Tập bài giảng cán bộ tuyên giáo cấp tỉnh, cấp
huyện năm 2009” của Ban Tuyên giáo Trung ương, Hà Nội (2009); một số bài
viết của PGS.TS. Hồng Quốc Bảo, như: “Tính dễ hiểu - một đặc trưng cơ
bản trong phương pháp tuyên truyền Hồ Chí Minh”, Tạp chí Tư tưởng - Văn
hố; “Sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn trong hoạt động tuyên truyền
của Hồ Chí Minh”, Tạp chí Triết học; “Tính ngắn gọn - một đặc trưng độc
đáo trong phương pháp tuyên truyền Hồ Hồ Chí Minh”, Tạp chí Báo chí và
Tuyên truyền…, có ý nghĩa tham khảo rất thiết thực.
Các cơng trình nghiên cứu và bài viết của các tác giả đã đề cập đến hoạt
động tuyên truyền miệng và báo cáo viên dưới nhiều góc độ khác nhau. Song
chưa có cơng trình nào nghiên cứu chun về “Phát huy vai trị của đội ngũ
báo cáo viên trong hoạt động tuyên truyền tỉnh ở Cà Mau hiện nay”. Vì vậy,
việc nghiên cứu vấn đề này là hết sức cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả của cơng tác tư tưởng ở Cà Mau nói riêng và
hoạt động tun truyền nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của đề tài
Từ việc nghiên cứu lý luận về tuyên truyền miệng, đề tài tập trung
nghiên cứu thực trạng đội ngũ báo cáo viên và hoạt động của họ nhằm phát
huy vai trò của loại hình tun truyền này trong cơng tác tư tưởng (qua khảo

sát thực tế ở tỉnh Cà Mau).
Nhiệm vụ của đề tài


5
- Nghiên cứu lý luận về hoạt động tuyên truyền miệng và vai trò của
đội ngũ báo cáo viên trong hình thức tuyên truyền này; các yếu tố tác động
đến hiệu quả tuyên truyền và vai trò của đội ngũ báo cáo viên trong hoạt động
tuyên truyền miệng.
- Khảo sát thực trạng đội ngũ báo cáo viên ở tỉnh Cà Mau và hoạt động
của đội ngũ này; tìm được những nguyên nhân của thực trạng để phát huy vai
trò của tuyên truyền miệng qua hoạt động của các báo cáo viên.
- Nêu ra các phương hướng và giải pháp nhằm phát huy vai trò của tuyên
truyền miệng qua hoạt động của đội ngũ báo cáo viên ở Cà Mau hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài giới hạn ở việc nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động tuyên
truyền miệng và vai trò của đội ngũ báo cáo viên các cấp; thơng qua việc tìm
hiểu trực trạng hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên và vai trò
của họ đối với hoạt động tuyên truyền miệng ở Cà Mau trong giai đoạn hiện nay,
đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ này.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là lý
luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng; các quan điểm, đường lối của
Đảng ta về công tác tuyên truyền miệng và hoạt động của đội ngũ báo cáo viên.
- Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp điều
tra xã hội học và kế thừa các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học.

6. Đóng góp mới của đề tài
Luận văn góp phần hệ thống hóa khái niệm về công tác tuyên truyền
miệng và báo cáo viên và chỉ rõ các mâu thuẫn nảy sinh trong hoạt động
tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên hiện nay qua khảo sát thực trạng


6
ở Cà Mau. Đề xuất một số phương hướng và giải pháp đối với công tác tuyên
truyền miệng của đội ngũ báo cáo viên ở Cà Mau trước yêu cầu mới.
7. Ý nghĩa luận văn
- Luận văn góp phần cùng cấp uỷ và Ban Tuyên giáo các cấp ở Cà Mau
nghiên cứu, vận dụng trong việc lãnh đạo và chỉ đạo hoạt động của đội ngũ
báo cáo viên ở Cà Mau trong tình hình mới. Luận văn có thể được dùng làm
tài liệu tham khảo và bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tuyên truyền miệng cho
đội ngũ báo cáo viên.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.


7
Chương 1
VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN
TRONG HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN
1.1. TUYÊN TRUYỀN VÀ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG

1.1.1. Hoạt động tuyên truyền
1.1.1.1. Khái niệm tuyên truyền
Tuyên truyền là một hoạt động quan trọng của công tác tư tưởng. Theo
tiếng La tinh, “tuyên truyền” (propaganda) là truyền bá, truyền đạt một quan

điểm nào đó. Theo một số tài liệu nghiên cứu, thuật ngữ tuyên truyền đầu tiên
đã được nhà thờ La Mã sử dụng để chỉ hoạt động của các nhà truyền giáo với
sứ mệnh thuyết phục, lôi kéo những người khác phấn đấu theo đức tin của đạo
Kitô. Về sau, thuật ngữ tuyên truyền được sử dụng một cách rộng rãi hơn,
nhằm biểu đạt một cách cụ thể (qua ngơn ngữ, hình ảnh, đạo cụ...) tác động
đến suy nghĩ, tư tưởng tình cảm của người khác, hướng họ hành động theo
một khuynh hướng nhất định.
Trong Bách khoa tồn thư Liên Xơ, thuật ngữ tun truyền có hai
nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, tuyên truyền là sự truyền bá
những quan điểm, tư tưởng về chính trị, triết học, khoa học, nghệ thuật...,
nhằm biến quan điểm, tư tưởng ấy thành ý thức xã hội, thành hành động cụ
thể của quần chúng. Theo nghĩa hẹp, tuyên truyền là truyền bá những quan
điểm lý luận nhằm xây dựng cho quần chúng một thế giới quan nhất định phù
hợp với lợi ích của chủ thể tun truyền, qua đó kích thích những hoạt động
thực tế phù hợp với thế giới quan ấy. Như vậy, tuyên truyền theo nghĩa hẹp
chính là tuyên truyền tư tưởng, tuyên truyền chính trị mà mục đích của nó là
hình thành trong đối tượng tun truyền một thế giới quan nhất định, một
“kiểu” ý thức xã hội nhất định và cổ vũ tính tích cực xã hội của con người.
Theo từ điển tiếng Việt thì “Tuyên truyền là giải thích rộng rãi để
thuyết phục, vận động mọi người làm theo” [35, tr.1753].


8
Về hoạt động tuyên truyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có một định
nghĩa thật giản dị, dễ hiểu, mang tính chỉ đạo trực tiếp “Tuyên truyền là đem
một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu khơng đạt mục
tiêu trên đó là tun truyền thất bại” [46, tr.162].
Ở các tài liệu lý luận về công tác tư tưởng, khái niệm tuyên truyền được
xem xét ở nhiều góc độ khác nhau. Trong cuốn “Nguyên lý công tác tư tưởng”,
PGS.TS Lương Khắc Hiếu viết: “Tuyên truyền là một hình thái, một bộ phận

cấu thành của cơng tác tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chiến
lược, sách lược trong quần chúng, xây dựng cho quần chúng thế giới quan phù
hợp với lợi ích chủ thể hệ tư tưởng, hình thành và củng cố niềm tin, tập hợp cổ
vũ quần chúng hành động theo thế giới quan và niềm tin đó” [38, tr.16].
Trong cuốn “Nghiệp vụ tuyên giáo” do PGS. TS Ngô Văn Thạo chủ
biên có viết: “Tuyên truyền” theo nghĩa rộng là việc truyền bá những kiến
thức, những giá trị tinh thần, nhằm biến những kiến thức, những giá trị tinh
thần đến đối tượng, nhằm biến những kiến thức, những giá trị tinh thần đó
thành nhận thức, niềm tin, tình cảm của đối tượng, thôi thúc đối tượng hành
động theo những định hướng, mục tiêu đề ra” [56, tr.37].
Tuy có cách thể hiện khác nhau, nhưng theo các quan điểm nêu trên,
tuyên truyền là hoạt động có mục đích của chủ thể tác động đến khách thể
nhằm chuyển biến nhận thức của khách thể, tạo niềm tin cho khách thể, thúc
đẩy khách thể hoạt động tích cực theo định hướng của chủ thể. Như vậy có
thể xác định tuyên truyền là hoạt động tác động đến thế giới nội tâm của con
người, thuyết phục họ bằng những căn cứ lý luận khoa học, nhằm thúc đẩy
hoạt động của họ theo mục đích của chủ thể.
Chủ thể của hoạt động tuyên truyền là những cá nhân trực tiếp tham gia
hoạt động tuyên truyền. Khách thể của hoạt động tuyên truyền là các tầng lớp
nhân dân trong xã hội, trực tiếp là những nhóm đối tượng mà chủ thể tuyên
truyền hướng hoạt động tuyên truyền của mình đến họ. Nội dung tuyên truyền


9
là những thông tin, những giá trị tinh thần, những định hướng tư tưởng, những
định hướng hoạt động mà các chủ thể tuyên truyền muốn chuyển đến cho
khách thể tuyên truyền.
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của hoạt động tuyên truyền là
khách thể tuyên truyền là con người, có ý thức, tình cảm, niềm tin... và là các
chủ thể nhận thức. Kết quả tuyên truyền nằm trong sự thay đổi hoặc giàu có

thêm tri thức của họ. Nhận thức rõ điểm này có ý nghĩa rất quan trọng với các
hoạt động tuyên truyền.
1.1.1.2. Các loại hình và các phương thức tuyên truyền
Hoạt động tuyên truyền có thể được chia thành các loại hình theo
những tiêu chí khác nhau.
- Theo nội dung có tun truyền chính trị, tun truyền kinh tế, tuyên
truyền văn hoá …
- Theo quan hệ chủ thể và khách thể có tuyên truyền trực tiếp và tuyên
truyền gián tiếp…
- Theo đối tượng tuyên truyền có tuyên truyền trong công nhân, trong
nông dân, trong thanh niên, phụ nữ…
- Chia theo phạm vi, hình thức có tun truyền chung, tuyên truyền đại
chúng, tuyên truyền miệng, tuyên truyền nội bộ, tuyên truyền đặc biệt…
Hoạt động tuyên truyền có thể được tiến hành bằng nhiều phương thức
khác nhau.
- Sinh hoạt chính trị của các tổ chức Đảng, đồn thể, hội quần chúng…
- Hoạt động của các phương tiện truyền thông đại chúng: báo chí, phát
thanh, truyền hình, hệ thống Internet...
- Hoạt động xuất bản và phát hành sách; hoạt động của các thư viện,
bảo tàng, nhà truyền thống…
- Các hoạt động tập thể như: tham quan, hội thảo, toạ đàm, sinh hoạt
văn hoá, văn nghệ; qua hoạt động tuyên truyền miệng của đội ngũ báo cáo
viên và tuyên truyền viên.


10
Trong các hình thức tuyên truyền trên, luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu tuyên truyền miệng, là một trong một trong các phương thức tuyên truyền
có phạm vi rộng và có tầm quan trọng đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2. Tuyên truyền miệng

1.1.2.1. Khái niệm tuyên truyền miệng
Khảo sát khái niệm tuyên truyền miệng ta có những định nghĩa khác nhau.
V.I Lênin viết: “khi được thuyết trình cơng khai, ta nói với quần chúng,
tiếp xúc trực tiếp với họ, được nhìn thấy họ, được làm quen với họ và ảnh
hưởng tới họ theo kiểu của mình” [42, tr.539]. Trong định nghĩa này V.I Lênin
nhấn mạnh ưu thế của tuyên truyền miệng qua giao tiếp trực tiếp giữa chủ thể
và khách thể tuyên truyền miệng.
Theo PGS.TS Ngô Văn Thạo: “Tuyên truyền miệng là một hình thức
đặc biệt của tuyên truyền, được tiến hành thông qua sự giao tiếp trực tiếp giữa
người được tuyên truyền và đối tượng được tuyên truyền chủ yếu bằng lời nói
trực tiếp” [36, tr.45]. Định nghĩa này nhấn mạnh thêm công cụ quan trọng của
chủ thể tuyên truyền là lời nói trực tiếp. Theo tiến sĩ Trương Minh Tuấn:
“Tuyên truyền miệng là một phương thức tuyên truyền được tiến hành bằng
lời nói trực tiếp nhằm mục đích nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin và cổ
vũ tính tích cực hành động của người nghe” [14, tr.15]. Định nghĩa này đã
nhấn mạnh tác dụng cổ vũ, động viên của hoạt động tuyên truyền miệng. Còn
theo TS Nguyễn Thanh Thơi: “Tuyên truyền miệng là phương thức tuyên
truyền được tiến hành bằng lời nói trực tiếp giữa người nói và người nghe mà
khơng có sự ngăn cách nào nhằm mục đích nâng cao nhận thức, củng cố niềm
tin và cổ vũ tính tích cực hành động của người nghe” [60, tr.13]. Định nghĩa
này đã nhấn mạnh thêm tính mục đích của hoạt động tuyên truyền miệng, một
phương thức tuyên truyền quan trọng hiện nay. Trong “Chương trình bồi
dưỡng chuyên đề công tác tuyên truyền miệng, báo cáo viên” của Ban Tuyên
giáo Trung ương 2008, tuyên truyền miệng được định nghĩa: “là hình thức

(1) Ban tuyên giáo Trung ương. Nghiệp vụ tun giáo. Nxb văn hố - thơng tin, HN-2008, tr.45


11
tuyên truyền đặc biệt quan trọng được thực hiện chủ yếu bởi đội ngũ báo cáo

viên tuyên truyền viên, thông qua hình thức giao tiếp trực tiếp như nói chuyện
thời sự, toạ đàm, hội thảo kể chuyện gương người tốt việc tốt” [16, tr.26]. Với
định nghĩa này, các tác giả đã đề cập đến vai trò chủ thể của hoạt động tuyên
truyền miệng là đội ngũ báo cáo viên…
Các định nghĩa nêu trên đã bổ sung cho nhau và làm nổi bật lên những
đặc trưng cơ bản nhất của tuyên truyền miệng. Căn cứ vào sự nghiên cứu và
khảo sát trên thực tế hoạt động tuyên truyền miệng, có thể thấy những nội
dung chủ yếu của khái niệm là:
- Tuyên truyền miệng được thực hiện trong quan hệ giao tiếp trực tiếp
giữa chủ thể và khách thể tuyên truyền. Phương tiện chủ yếu để thực hiện là
lời nói.
- Mục đích của hoạt động tuyên truyền do chủ thể tuyên truyền đặt ra và
xác định trước: đó là nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin, cổ vũ tính tích cực
hành động của người được tuyên truyền theo yêu cầu của nhiệm vụ tuyên truyền.
Do vậy có thể nêu định nghĩa: Tuyên truyền miệng là một hình thức đặc
biệt của tuyên truyền, được tiến hành trong hoạt động giao tiếp, trực tiếp với
cơng cụ chủ yếu là bằng lời nói của nhà tuyên truyền, nhằm mục đích nâng
cao nhận thức, củng cố niềm tin, cổ vũ tính tích cực hành động của người
nghe theo mục đích cụ thể của chủ thể tuyên truyền.
1.1.2.2. Những ưu thế và hạn chế của hoạt động tuyên truyền miệng
- Những ưu thế của hoạt động tuyên truyền miệng:
+ Do có sự tiếp xúc trực tiếp giữa chủ thể và khách thể tuyên truyền,
nên sử dụng được cả ngơn ngữ nói và các phương thức phi ngôn ngữ, nhằm
tăng cường hiệu quả của hoạt động.
+ Do giao tiếp trực tiếp, nhà tuyên truyền có thể cảm nhận được một
cách trực tiếp thái độ, mức độ tiếp nhận, những đặc điểm tâm lý của khách thể
tuyên truyền, qua đó có sự chủ động, kịp thời điều chỉnh, nhằm tạo ra sự phù
hợp về nội dung và phương pháp tuyên truyền với đối tượng.



12
+ Giao tiếp trực tiếp có thể giúp người tuyên truyền cung cấp những
thông tin nội bộ, truyền bá những thơng tin, những vấn đề vì lý do nào đó
khơng công khai ở các phương tiện thông tin khác. Người nghe có thể trực
tiếp được giải thích các vấn đề chưa hiểu rõ qua hình thức trao đổi, thường
khơng có trong các hình thức tuyên truyền khác.
+ Trong hoạt động tuyên truyền miệng có thể tổ chức đối thoại giữa
người nghe và nhà tuyên truyền, tạo ra sự trao đổi tư tưởng, giúp nhà tuyên
truyền có thể biết những thắc mắc, tâm tư của người nghe để giải thích, dẫn
dắt tư tưởng của họ. Đây là hình thức có thể nâng cao tính dân chủ trong
thơng tin xã hội.
+ Tun truyền miệng có thể phát huy các ưu thế của ngơn ngữ nói,
chuyển tải nội dung phong phú, nhiều nhất trong một đơn vị thời gian.
+ Có thể thực hiện tuyên truyền miệng ở mọi nơi, mọi lúc kể cả khi
khơng có các phương thức hỗ trợ.
+ Ngồi ra, tun truyền miệng cịn có lợi thế là có thể tun truyền với
mọi người, kể cả những người không biết chữ, do khơng có điều kiện học tập.
- Tuy nhiên tun truyền miệng cũng có những hạn chế như sau:
+ Kết quả tuyên truyền miệng phụ thuộc nhiều vào chủ thể tuyên
truyền, với các đặc điểm của cá nhân họ. Quan điểm tư tưởng, sự hiểu biết nội
dung, phương pháp, thái độ đúng đắn, sự chân thành, niềm tin, trình độ, năng
lực, nhân cách… của nhà tuyên truyền ảnh hưởng trực tiếp đến người nghe.
+ Đối tượng tuyên truyền thường có trình độ nhận thức, học vấn, kinh
nghiệm sống và kinh nghiệm công tác không đồng nhất (đa số các xã, tổ chức
đảng, cơ quan nhà nước có chung đặc điểm trên này).
+ Hoạt động tuyên truyền miệng chịu tác động từ nhiều yếu tố ngoại
cảnh, phụ thuộc vào môi trường tuyên truyền cụ thể.
+ Phạm vi tuyên truyền bị giới hạn trong một số lượng người nghe hạn
chế so với các phương thức tuyên truyền khác, nhất là so với truyền thông đại
chúng, Internet…



13
1.2. BÁO CÁO VIÊN VÀ HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN MIỆNG CỦA
BÁO CÁO VIÊN

1.2.1. Báo cáo viên - chủ thể của hoạt động tuyên truyền miệng
1.2.1.1. Về khái niệm báo cáo viên
Báo cáo viên, theo từ điển tiếng Việt: ‘‘1. Là người trình bày báo cáo,
hoặc thơng báo tình hình, sự việc trước hội nghị, đại hội. 2. Người làm công
tác tuyên huấn, chuyên đi báo cáo, truyền đạt Nghị quyết’’ [35, tr.112].
Chỉ thị 14-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá IV đã nêu:
“Báo cáo viên, tuyên truyền viên là lực lượng tuyên truyền miệng có nhiệm
vụ tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn tư tưởng và hành động cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân theo đường lối, quan điểm của Đảng”.
Về mặt tổ chức hoạt động, theo tài liệu của Ban Tuyên giáo Trung ương:
Báo cáo viên, tuyên truyền viên là chức danh để chỉ những người
làm công tác tuyên truyền miệng trong tổ chức đảng, đoàn thể, cơ
quan nhà nước và nhân dân dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ
đảng và cơ quan nhà nước. Báo cáo viên được coi như là người
phát ngôn, thông tin chính thống của Đảng và Nhà nước [15, tr.26].
Theo hình thức hoạt động và quản lý, cả báo cáo viên và tuyên truyền
viên đều là lực lượng quan trọng trong cơng tác tun truyền miệng, có nhiệm
vụ thực hiện hoạt động tuyên truyền trong công tác tư tưởng, nhưng giữa báo
cáo viên và tuyên truyền viên có sự khác nhau.
Tuyên truyền viên, với tư cách là người làm công tác tuyên truyền,
công tác tư tưởng của Đảng, bao gồm mọi cán bộ, đảng viên của Đảng. Các
thành viên này về nguyên tắc đều có nhiệm vụ tuyên truyền, vận động, thuyết
phục quần chúng nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Hoạt động của tuyên truyền viên diễn ra một

cách thường xuyên, hàng ngày, trong đời sống và qua hoạt động thực tiễn.
Tun truyền viên khơng có hệ thống tổ chức riêng, chức năng, nhiệm vụ


14
riêng. Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh cụ thể, tuyên truyền viên được giao
nhiệm vụ tuyên truyền những nội dung cụ thể trong một thời gian cụ thể.
Trong trường hợp này tuyên truyền viên được tổ chức chủ yếu ở đảng bộ, chi
bộ cơ sở, được cấp uỷ lựa chọn và cơng nhận. Tun truyền viên có thể là
quần chúng tích cực, có khả năng làm cơng tác tun truyền.
Khác với tuyên truyền viên, báo cáo viên là những người được cấp uỷ
lựa chọn, có quyết định cơng nhận, được tổ chức có hệ thống từ Trung ương
tới địa phương, có nhiệm vụ thực hiện tun truyền miệng về tình hình chính
trị - xã hội, chủ trương, đường lối, của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Phương thức hoạt động của báo cáo viên theo từng thời gian cụ thể do
tổ chức đảng quy định.
Hệ thống báo cáo viên, tuyên truyền viên được tổ chức ở tất cả các cấp
từ Trung ương đến các tỉnh - thành, quận - huyện, xã - phường và thị trấn; ở
tất cả các tổ chức, ban ngành, đoàn thể và lực lượng vũ trang, hoạt động dưới
sự chỉ đạo của cấp uỷ và sự quản lý của Ban Tuyên giáo các cấp theo sự uỷ
quyền của cấp uỷ.
Báo cáo viên cấp Trung ương do Ban Bí thư uỷ nhiệm cho Ban Tuyên
giáo Trung ương lựa chọn ở các cán bộ cao cấp, lãnh đạo các bộ, ngành, tỉnh.
Báo cáo viên các cấp do Ban Tuyên giáo tham mưu, đề xuất; cấp uỷ cùng cấp
ra quyết định. Việc xây dựng đội ngũ báo cáo viên xuất phát từ yêu cầu thực
tiễn. Vì vậy báo cáo viên cần có những phẩm chất chính trị, năng lực hoạt
động phù hợp.
1.2.1.2. Những phẩm chất và năng lực của báo cáo viên
- Về phẩm chất
+ Là người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng của Đảng, trước hết, người

báo cáo viên phải có ý thức chính trị vững vàng.
Thơng thường, để thực hiện có hiệu quả việc chuyển tải thơng tin
chính trị, báo cáo viên phải là những người có trình độ lý luận chính trị cao,


15
có tri thức tồn diện về lý luận chính trị và các khoa học nền tảng, như triết
học, chính trị kinh tế học, chủ nghĩa xã hội khoa học, tư tưởng Hồ Chí Minh,
lịch sử Việt Nam... Với tầm kiến thức rộng và sâu, báo cáo viên có thể phân
tích, lập luận, dẫn chứng cho các quan điểm lý luận và nhận xét, đánh giá thực
tiễn một cách thuyết phục. Báo cáo viên cần có trình độ tư duy lý luận để có
thể nhận thức, khái quát các vấn đề thực tiễn và giải thích các vấn đề nảy sinh
trong thực tiễn. Báo cáo viên phải am hiểu tình hình chính trị thế giới, biết
nêu ra và bình luận có cơ sở khoa học, khách quan, có định hướng các sự kiện
quốc tế được dư luận quan tâm...
+ Từ ý thức chính trị đúng đắn, báo cáo viên phải có niềm tin chính trị
vững chắc trên cơ sở lập trường tư tưởng vững vàng, không ngả nghiêng, dao
động trước những hoàn cảnh, biến động bất lợi trong thực tiễn. Niềm tin
chính trị của báo cáo viên phải dựa trên sự hiểu biết quy luật phát triển của
lịch sử, của đất nước.
Báo cáo viên phải là người thường xuyên cập nhật và nắm vững đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và có những tri
thức thực tiễn cách mạng phù hợp. Từ niềm tin vững chắc, lập trường quan
điểm đúng đắn, báo cáo viên sẽ có thái độ chính trị đúng đắn, nhanh nhạy
đánh giá được tư tưởng chính trị của quần chúng để phát huy những mặt
mạnh, hạn chế những mặt yếu của họ trong giáo dục chính trị tư tưởng.
+ Báo cáo viên phải có kỷ luật phát ngơn và tính chiến đấu cao trong
hoạt động của mình. Kỷ luật phát ngơn cao nhất phải là trình bày các vấn đề
tuyên truyền đúng định hướng chính trị, khơng phát biểu những quan điểm
riêng, có hại cho Đảng, cho dân tộc. Tính chiến đấu cao đòi hỏi báo cáo viên

phải phát hiện những sự việc, tư tưởng ngược chiều, có hại, những luận điệu
tuyên truyền phản động để đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ định hướng xã hội
chủ nghĩa. Tính chiến đấu cao cịn thể hiện khi báo cáo viên biết phê phán
một cách đúng đắn, nghiêm túc, có tính xây dựng những hạn chế, khuyết điểm
của cán bộ, đảng viên, biết đấu tranh chống tiêu cực trong nội bộ.


16
+ Báo cáo viên phải có tinh thần trách nhiệm cao với hoạt động, nhiệt
tình, tâm huyết với việc tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Bằng sự nhiệt tình, tích cực, báo cáo viên mới có thể lơi cuốn người
nghe, khích lệ, động viên họ hành động. Để có thể quan hệ tốt, gần gũi với
mọi người, báo cáo viên phải luôn khiêm tốn, học hỏi xây dựng quan hệ tốt
với mọi người. Đặc biệt, báo cáo viên phải là người có sự thống nhất giữa lời
nói và việc làm, tạo niềm tin cho người nghe về những điều mình nói.
- Về các năng lực chủ yếu cần có của báo cáo viên
+ Để có được các thông tin tư tưởng phong phú, báo cáo viên phải có
khả năng tiếp nhận và xử lý các thơng tin chính trị, thời sự, thực tiễn; nắm bắt
được các thông tin và định hướng tư tưởng của các cấp uỷ đảng; có khả năng
đánh giá, nắm bắt đặc điểm của đối tượng tuyên truyền để có cách thức truyền
đạt, điều chỉnh hoạt động phù hợp.
+ Báo cáo viên nắm được những nội dung cơ bản của phương pháp
tuyên truyền miệng, tạo cho mình một phương pháp tuyên truyền miệng khoa
học, phù hợp với sở trường của mình, thể hiện ở cách trình bày các vấn đề
một cách logíc, phù hợp với trình độ người nghe, có nghệ thuật sử dụng ngơn
ngữ nói một cách hiệu quả; có khả năng kết hợp việc sử dụng ngơn ngữ nói
với các phương pháp khác một cách thích hợp.
+ Báo cáo viên cần có năng lực giao tiếp, làm chủ được các biểu hiện tâm
lý khi tiếp xúc với người nghe, tạo ra môi trường thân thiện, tin cậy giữa báo cáo
viên và người nghe để tăng cường hiệu quả hoạt động tuyên truyền miệng.

+ Về năng khiếu tuyên truyền miệng: Ngoài những phẩm chất về năng
lực trên, báo cáo viên còn cần được lựa chọn và bồi dưỡng từ những người có
năng khiếu tun truyền miệng, có ngoại hình, thể chất phù hợp với hoạt động
tuyên truyền miệng.
- Về vấn đề rèn luyện của báo cáo viên
+ Do vai trò rất quan trọng của người báo cáo viên, là người phát ngôn
của cấp uỷ đảng, một người nói cho nhiều người nghe, nên phẩm chất và năng


17
lực của báo cáo viên là rất quan trọng. Sự suy giảm phẩm chất đạo đức của
người báo cáo viên có tác động trực tiếp đến uy tín của Đảng. Do vậy, để có
được những phẩm chất và năng lực trên, báo cáo viên cần phải là những
người luôn phấn đấu rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính
trị và năng lực hoạt động.
+ Trước hết báo cáo viên phải rèn luyện bản lĩnh chính trị, rèn luyện
tính kiên định, sự nhạy bén chính trị trên cơ sở nghiên cứu, học tập nâng cao
trình độ lý luận chính trị và trình độ hiểu biết thực tiễn.
+ Báo cáo viên không ngừng rèn luyện những phẩm chất đạo đức,
nghề nghiệp cá nhân, có lối sống tích cực, mẫu mực, quan hệ gần gũi với
quần chúng.
+ Báo cáo viên phải học tập, rút kinh nghiệm, rèn luyện khả năng
thuyết trình trước cơng chúng nhằm đảm bảo phát huy được những ưu thế của
hoạt động tuyên truyền miệng.
+ Báo cáo viên phải thường xuyên tham gia các hội nghị thông tin, các
lớp tập huấn, bồi dưỡng để nắm bắt các thông tin mới, nâng cao năng lực
tuyên truyền của cá nhân, đáp ứng với nhiệm vụ được giao phó.
1.2.2. Chức năng - nhiệm vụ của báo cáo viên
Chức năng là chỉ vị trí, vai trị trong một hệ thống “anh là ai” và nhiệm
vụ để chỉ những công việc phải đảm nhiệm “anh phải làm gì”. Với cách tiếp

cận đó chúng tôi tạm thời nêu chức năng và nghiệp vụ của người báo cáo viên
như sau:
1.2.2.1. Chức năng của báo cáo viên
Một là, trong hoạt động tư tưởng của Đảng, báo cáo viên là cán bộ
chính trị của Đảng, làm công tác tư tưởng cho Đảng.
Thực hiện chức năng này, báo cáo viên phổ biến các thơng tin chính trị,
xã hội cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân. Đó là các thơng tin về
đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật, quy định của
Nhà nước..,


18
Hai là, báo cáo viên là người định hướng thông tin chính thống cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân.
Thực hiện chức năng này báo cáo viên phải thông tin kịp thời các
thơng tin chính thống, có định hướng đến cán bộ, đảng viên và nhân dân. Qua
phân tích, bình luận, lập luận làm rõ nội dung, ý nghĩa của các sự kiện, giúp
người nghe nắm được bản chất của các sự kiện đó.
Ba là, báo cáo viên là người hướng dẫn dư luận và hành động của cán
bộ, đảng viên và quần chúng.
Qua cung cấp và định hướng thông tin, báo cáo viên giúp cán bộ, đảng
viên và nhân dân có nhận thức đúng đắn theo định hướng tư tưởng của Đảng.
Thực chất đây là chức năng hướng dẫn tư duy, định hướng tư tưởng của hoạt
động tuyên truyền miệng. Qua đó, báo cáo viên cổ vũ, kích thích, động viên
nhiệt tình cách mạng của người nghe trong hoạt động thực tiễn.
Bốn là, báo cáo viên là cầu nối giữa Đảng và quần chúng trong hoạt
động tuyên truyền.
Hoạt động tuyên truyền là hoạt động thông tin hai chiều. Báo cáo viên
thu nhận thơng tin ngược chiều từ phía người nghe vừa để điều chỉnh hoạt
động tuyên truyền, vừa phản ánh với cấp uỷ, chính quyền tình hình tư tưởng,

nguyện vọng của nhân dân để cấp uỷ, chính quyền có chính sách, chủ trương
phù hợp với thực tiễn.
Các chức năng trên đây gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động, bổ sung lẫn
nhau trong hoạt động của báo cáo viên. Thực hiện tốt các chức năng này sẽ
nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền miệng.
1.2.2.2. Nhiệm vụ của báo cáo viên
Từ những chức năng trên, báo cáo viên có những nhiệm vụ sau:
Một là, thông tin đầy đủ kịp thời cho cán bộ, đảng viên, nhân dân về
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Theo tác giả Phạm Quang Nghị:


19
Nhiệm vụ này đòi hỏi tất cả các binh chủng của công tác tư tưởng
phải làm, nhưng kênh tuyên truyền, đặc biệt là đội ngũ báo cáo viên
là vô cùng quan trọng. Phải làm thế nào để mọi người, mọi tầng lớp
nhân dân hiểu một cách sâu sắc về đường lối của Đảng, chính sách
của Nhà nước để họ tự giác phấn đấu thực hiện [50, tr.119].
Hai là, phân tích, bình luận hướng dẫn nhận thức cho người nghe.
Tuyên truyền miệng không chỉ đơn giản như chuyển tải một thông tin
nào đó. Bản thân tun truyền miệng đã là thơng tin có định hướng. Căn cứ
trình độ nhận thức, đặc điểm về tâm lý, tư tưởng của người nghe báo cáo viên
có cách thể hiện thơng tin cho phù hợp. Trong quá trình hoạt động, báo cáo
viên nhận biết được mức độ nhận thức của từng người, từng nhóm người để
lặp lại, nhấn mạnh những ý cần thiết; giải quyết, “đả thông” những vướng
mắc trong tư tưởng của họ. Trong những trường hợp có những ý kiến khơng
phù hợp, trái ngược, phản ứng từ người nghe, báo cáo viên lắng nghe, có cách
thức giải thích, lập luận, trao đổi dân chủ để tranh luận, thuyết phục họ.
Ba là, từ việc làm cho người dân hiểu, báo cáo viên phải hướng dẫn
hành động cho quần chúng.

Nhiệm vụ này đòi hỏi báo cáo viên phải căn cứ vào yêu cầu cụ thể của
địa phương, ngành và trong những thời gian cụ thể để có những hướng dẫn
hoạt động cho quần chúng, nhằm thực hiện đường lối, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Việc giúp người nghe nắm
được bản chất vấn đề trong tuyên truyền miệng đã tạo ra động cơ hoạt động
cho họ, kích thích tính tích cực hoạt động của người nghe.
Bốn là, báo cáo viên có nhiệm vụ thu nhận những thơng tin về tình hình
tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Thơng qua hoạt
động của mình, với các hình thức giao tiếp trực tiếp với quần chúng, báo cáo
viên phát hiện tư tưởng, tâm trạng của quần chúng để có phương thức cơng
tác tư tưởng thích hợp và phản ảnh kịp thời với cấp uỷ, chính quyền, có biện
pháp xử lý phù hợp.


20
Trong hoạt động thực tiễn, quần chúng có thể phát hiện những điểm
chưa phù hợp của các quy định, chính sách cụ thể. Báo cáo viên nắm được dư
luận xã hội để phản ánh với tổ chức đảng, chính quyền cấp trên để kịp thời điều
chỉnh các quy định, chính sách đó. Ở đây chính là thực hiện lời dạy của Bác:
“Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho
dân chúng rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho
Đảng cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” [46, tr.162].
1.2.3. Hoạt động của báo cáo viên
1.2.3.1. Các nội dung hoạt động chủ yếu của báo cáo viên
Khác với tuyên truyền viên, báo cáo viên hoạt động với những phương
thức nhất định sau:
- Hoạt động tiếp nhận thông tin từ các báo cáo viên cấp trên, từ Trung
ương với tỉnh, từ tỉnh đến huyện, đến xã. Phương thức hoạt động này giúp báo
cáo viên nắm được nội dung các thông tin và định hướng thông tin, phục vụ
cho cơng việc của mình. Ngồi ra, với mỗi báo cáo viên đều phải thu thập

thông tin, cập nhật thơng tin, tìm hiểu thêm tình hình thực tiễn ở địa phương,
các thông tin từ các nguồn khác làm giàu tri thức, thơng tin của mình để buổi
báo cáo thành cơng.
- Hoạt động chuẩn bị cho một bài nói. Sau khi nhận sự chỉ đạo và phân
công của cấp uỷ, yêu cầu của cơ quan, đơn vị, địa phương tổ chức hoạt động
tuyên truyền miệng, báo cáo viên phải xây dựng đề cương bài nói phù hợp với
đối tượng và đáp ứng yêu cầu chung của tổ chức. Để xây dựng đề cương bài
nói như một kế hoạch hoạt động tuyên truyền miệng về một (hay một số chủ
đề), cho một (hay một số) đối tượng người nghe nhất định, trong một không
gian và thời gian xác định, báo cáo viên phải đồng thời thực hiện các hoạt
động thu thập, xử lý thơng tin, tìm hiểu đối tượng, xác định chủ đề, thiết kế
chi tiết nội dung và các bước thực hiện bài nói.
- Hoạt động tổ chức, điều khiển hội nghị thông tin, tuyên truyền miệng.
Các hội nghị thông tin do cấp uỷ tổ chức, nhưng báo cáo viên luôn là “vai


21
chính”, là người điều khiển các hoạt động trong hội trường và chịu trách
nhiệm chính về kết quả hội nghị. Đó là các hoạt động thơng tin, tun truyền,
quản lý, giao tiếp, đối thoại, xử lý tình huống… trong hội trường.
- Báo cáo viên cấp trên có trách nhiệm bồi dưỡng, cung cấp thông tin
cho báo cáo viên cấp dưới. Trong hoạt động này rất cần lựa chọn các báo cáo
viên giỏi, có kinh nghiệm và có khả năng hướng dẫn hoạt động của báo cáo
viên cấp dưới về cách thức thu thập, xử lý, trình bày, định hướng thơng tin…
Các nội dung chủ yếu trong hoạt động của báo cáo viên tạo thành một
chuỗi hoạt động thống nhất từ nghiên cứu, chuẩn bị đến thực hiện. Muốn vậy
báo cáo viên phải thực hiện tốt từng nội dung, không được bỏ qua một nội dung
nào, mới có buổi tuyên truyền miệng hiệu quả cho quần chúng nhân dân.
1.2.3.2. Đặc trưng hoạt động của báo cáo viên
Trong công tác tư tưởng có nhiều hình thức tun truyền dùng ngơn

ngữ nói, như giảng dạy lý luận chính trị, các báo nói, báo hình, ca nhạc,
miting…, nhưng tuyên truyền miệng của báo cáo viên là hoạt động có những
đặc trưng riêng.
Một là, yêu cầu cao trong kỷ luật phát ngôn. Về mặt cơ sở pháp lý, báo
cáo viên là người phát ngôn, thông tin chính thức ý kiến, quan điểm của tổ
chức đảng, cơ quan nhà nước. Do vậy, hoạt động của báo cáo viên phải tuân
thủ kỷ luật nghiêm ngặt, đặc biệt là kỷ luật phát ngôn. Báo cáo viên không
được phép sử dụng những thơng tin khơng chính thức, khơng có căn cứ khoa
học và những thơng tin mang tính cá nhân trình bày trước cơng chúng.
Hai là, nội dung bài nói thường đa dạng, phong phú, gắn với yêu cầu
của cấp uỷ, với thời gian, địa điểm và đối tượng. Về nội dung hoạt động, khác
với hoạt động giảng dạy lý luận chính trị theo các chương trình cố định, các
nội dung giảng dạy có tính pháp quy, được lặp đi lặp lại nhiều năm và môi
trường giảng dạy tương đối thuần nhất, hoạt động của báo cáo viên có nội
dung thay đổi theo thời gian, mang tính thời sự, ở từng thời điểm, với từng


22
nhóm đối tượng. Đặc trưng này địi hỏi khả năng nhận thức, tiếp nhận thơng
tin nhanh chóng, địi hỏi lượng tri thức tổng hợp và kỹ năng phân tích làm
cơng tác tuyên truyền của báo cáo viên.
Ba là, báo cáo viên của cấp uỷ Đảng thường là hoạt động kiêm nhiệm.
Về cách thức hoạt động, giảng viên lý luận hoạt động một cách chuyên
nghiệp, tập trung thời gian cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy. Hoạt động
của báo cáo viên, dù có một hệ thống chặt chẽ, nhiều lắm chỉ mang tính bán
chuyên nghiệp. Báo cáo viên thường là những cán bộ có trọng trách ở các
ngành, các địa phương. Đặc điểm này có thuận lợi cho hoạt động về mặt tri
thức, uy tín, vị thế để thuyết phục, nhưng lại bị chia sẻ về thời gian, sức lực
cho hoạt động tuyên truyền miệng.
Bốn là, hoạt động của báo cáo viên thường không liên tục về thời gian

và tác động đến một đối tượng người nghe rất đa dạng. Khác với tuyên truyền
viên hoạt động ở cơ sở thường xuyên, trực tiếp với người được tuyên truyền
trong đời sống và hoạt động hàng ngày, báo cáo viên hoạt động theo tính
chiến dịch, trong từng tháng, từng giai đoạn, từng sự kiện lịch sử. Nội dung
tuyên truyền của báo cáo viên mang tính chuyên đề, hệ thống hơn. Về khách
thể tuyên truyền - người nghe của các báo cáo viên có trình độ rất khác nhau.
Đặc trưng này càng địi hỏi khả năng nhạy bén, nắm bắt được thái độ của
người nghe và cách thức hoá giải những trường hợp đặc biệt trong tuyên
truyền miệng của báo cáo viên.
Ngoài những đặc trưng của hoạt động báo cáo viên nêu trên, do quan
hệ giao tiếp trực tiếp, người báo cáo viên phải có năng lực tổ chức các hoạt
động giao tiếp trực tiếp với quần chúng, có khả năng cảm hố người nghe, có
nhân cách phù hợp với yêu cầu của hoạt động.
Phân tích đặc trưng hoạt động của báo cáo viên giúp chúng ta thấy
được những khó khăn, thuận lợi trong hoạt động của họ, đồng thời thấy được
những yêu cầu, đòi hỏi cần thực hiện để nâng cao hiệu quả hoạt động của chủ
thể tuyên truyền.


23
1.2.4. Vai trò của báo cáo viên với hiệu quả của tuyên truyền
Cũng như bất cứ hoạt động nào của con người, chủ thể hoạt động bao
giờ cũng giữ vai trị quyết định thành cơng hay thất bại của hoạt động đó. Vì
vậy, có thể khẳng định báo cáo viên là người quyết định hiệu quả hoạt động
tuyên truyền.
1.2.4.1. Vai trò chủ thể trong hoạt động tuyên truyền
Trước hết, báo cáo viên là người chịu trách nhiệm chính về kết quả hoạt
động tuyên truyền miệng. Người báo cáo viên là người trực tiếp nhận sự lãnh
đạo của cấp trên về định hướng tuyên truyền, mục đích của một đợt tuyên
truyền, nội dung tuyên truyền.

Từ chỗ nắm được mục đích tuyên truyền, báo cáo viên là người thực
hiện hoạt động đó, là người nhạc trưởng, điều khiển hội nghị. Do vậy, thành
cơng của hội nghị tun truyền phụ thuộc vào chính họ. Trong vai trò này,
nhân cách của báo cáo viên, uy tín của họ và một phần là vị trí cơng tác của
họ có ảnh hưởng đến tồn bộ hoạt động tuyên truyền, nhất là để tạo tâm thế
khẳng định cho người nghe.
1.2.4.2. Vai trị cung cấp thơng tin và định hướng thông tin trong
hoạt động tuyên truyền của báo cáo viên
Người báo cáo viên là người chịu trách nhiệm về thơng tin và có vai trị
quyết định đến hiệu quả chuyển tải thông tin với người nghe trong mối quan
hệ giữa báo cáo viên và người được tuyên truyền. Việc báo cáo viên nắm
được trình độ nhận thức của khách thể thơng tin, từ đó lựa chọn thơng tin,
cách thức chuyển tải thông tin, ảnh hưởng đến việc tiếp nhận thông tin của
người nghe. Đây là khâu quyết định nhất đến hiệu quả tuyên truyền.
Để đạt được hiệu quả cao, người báo cáo viên phải nắm được các quy
luật của nhận thức, biết cách dẫn dắt người nghe từ cái đã biết đến cái chưa
biết, biết cách bình luận, định hướng người nghe theo mục đích tuyên truyền
đề ra. Nếu báo cáo viên đưa ra nhiều thông tin không tập trung vào nội dung


24
chính dẫn đến nói lan man, khơng đạt mục đích. Ngược lại, nếu báo cáo viên
đưa ra thông tin không đầy đủ, khơng có phân tích, bình luận dễ làm người
nghe xử lý thông tin theo những hướng khác nhau và có thể có những hướng
trái ngược với mục đích tuyên truyền.
1.2.4.3. Vai trò tổ chức, điều chỉnh các thao tác tư duy trong các buổi
tuyên truyền
Trong hoạt động tuyên truyền, khách thể thông tin đồng thời là chủ thể
nhận thức, việc tiếp nhận thông tin của họ thông qua những quy luật khách
quan. Vì vậy, trước hết báo cáo viên phải bằng những cách thức khác nhau để

định hướng tư duy cho người nghe, gây sự chú ý cho người nghe, ngay từ đầu
tạo ra cơ sở để nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền. Trong quá trình
thực hiện bài nói, báo cáo viên phải nắm được mức độ nhận của người nghe
để điều chỉnh nội dung, cách thức truyền đạt. Việc trình bày vấn đề một cách
rõ ràng, logic sẽ dẫn dắt tư duy của người nghe theo định hướng của báo cáo
viên. Ngược lại, nếu báo cáo viên trình bày vấn đề một cách khơng rõ ràng,
không nhấn mạnh từng luận cứ, không sắp xếp các luận cứ và bảo vệ các luận
cứ một cách khoa học thì tư duy người nghe sẽ bị phân tán, hiệu quả tuyên
truyền sẽ đạt thấp.
1.2.4.4. Vai trò giải đáp các thắc mắc, gợi mở, tạo khơng khí dân chủ,
tranh luận đi đến chân lý trong hoạt động tuyên truyền của báo cáo viên
Bản chất của hoạt động tuyên truyền miệng là hoạt động thơng tin hai
chiều nhằm mục đích định hướng tư tưởng cho người nghe. Việc tổ chức,
hướng dẫn các hoạt động thông tin hai chiều, tạo ra khơng khí dân chủ trong
tun truyền miệng thể hiện vai trị tích cực của báo cáo viên. Trước hết, báo
cáo viên phải tạo ra bầu khơng khí cởi mở, gần gũi với người nghe, thông qua
phong cách giao tiếp trực tiếp ban đầu và lời giới thiệu của họ. Trong q
trình trình bày bài nói, phải sớm nắm được thái độ người nghe, nhất là trình
độ nhận thức và xu hướng tư tưởng của họ. Báo cáo viên phải biết lắng nghe


25
các ý kiến phản hồi, giải đáp, tranh luận một cách dân chủ, với thái độ đúng
mực, trân trọng ý kiến của người nghe, tránh thái độ áp đặt, “cưỡng bức” tư
tưởng. Trong những trường hợp có ý kiến trái chiều, sai trái, có ảnh hưởng
đến tư tưởng người nghe cần bình tĩnh, đưa ra những chứng cứ, lập luận sâu
sắc, chỉ ra cái sai, cái hại của tư tưởng đó với một thái độ đúng mực, tơn
trọng, chân thành, xây dựng. Mặt khác, với những ý kiến phản ảnh đúng đắn,
trung thực về tình hình kinh tế - xã hội, những hiện tượng tiêu cực…, cần
trân trọng, khuyến khích, động viên, tiếp thu, ghi nhận, báo cáo lên cấp trên

để điều chỉnh phù hợp.
Báo cáo viên cịn có thể chủ động đưa ra những câu hỏi để trao đổi với
người nghe hoặc yêu cầu người nghe cho biết những thắc mắc, băn khoăn để
sẵn sàng giải đáp những thắc mắc đó.
Như vậy ở mặt này, báo cáo viên là người quyết định tính dân chủ trong
thơng tin hai chiều, là cầu nối giữa Đảng và quần chúng.
1.3. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
TUYÊN TRUYỀN MIỆNG CỦA BÁO CÁO VIÊN

1.3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tuyên truyền từ chủ
thể hoạt động (báo cáo viên)
1.3.1.1. Những ảnh hưởng từ nội dung tuyên truyền
Nội dung tuyên truyền là biểu hiện cụ thể của mục đích, nhiệm vụ của
tuyên truyền. Nội dung tuyên truyền ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tuyên
truyền. Người nghe tham gia các hội nghị tun truyền miệng vì nhu cầu
thơng tin. Qua tiếp nhận thơng tin, người nghe có được những tri thức làm cơ
sở cho sự thay đổi nhận thức, thái độ từ đó chuyển thành hành động thực tiễn.
Nội dung tuyên truyền tác động đến người nghe như sau:
Một là, những thơng tin đầy đủ, chính xác về các sự kiện, các chủ
trương, định hướng, của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước sẽ có
tác động tốt đến người nghe. Ví dụ, khi giới thiệu nghị quyết của Đảng cần


×