Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Huy động vốn của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn trên địa bàn thành phố tam kỳ, tỉnh quảng nam trong hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 107 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Nghị quyết Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định nước
ta "phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân” [17, tr.77]. Trong quá trình triển khai thực hiện, Đảng, Nhà nước ta đã cụ
thể hóa vai trị chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước thông qua hệ thống
pháp luật đồng bộ, các chủ trương, chính sách đối nội, đối ngoại… làm địn
bẩy phát triển tồn diện nền kinh tế.
Hệ thống Ngân hàng thương maị nhà nước là một công cụ kinh tế của
nhà nước. Với chủ trương: “Xây dựng các ngân hàng thương mại nhà nước
lớn mạnh về mọi mặt, đủ sức làm nòng cốt trong hệ thống ngân hàng thương
mại trong cơ chế thị trường” [17, tr.81]. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn là doanh nghiệp nhà nước đặc biệt, có vai trị, vị trí quan trọng
trong việc đẩy mạnh tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trên lĩnh vực
nơng nghiệp, nơng thơn, nơng dân.
Qua những năm đổi mới, hoạt động của hệ thống ngân hàng thương
mại nhà nước nói chung đã đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế- xã
hội địa phương. Trong đó, Ngân hàng Nơng nghiệp và Phát triển nơng thơn
đã khẳng định được vai trị, vị trí trong việc thúc đẩy sản xuất kinh doanh,
lưu thơng hàng hố, góp phần nhất định vào việc ngăn chặn suy giảm kinh tế,
duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội.
Hiện nay, ở nước ta, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra nhanh,
với quy mô ngày càng mở rộng. Theo đó, xu hướng mở cửa thị trường dịch
vụ ngân hàng theo lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra nhanh chóng, các
loại hình ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài đều được tạo điều


2


kiện bình đẳng, trong khn khổ bảo vệ của pháp luật để cùng nhau hoạt
động và phát triển. Điều này tất yếu đã gây nên sự cạnh tranh ngày càng
quyết liệt không những giữa các ngân hàng trong nước với ngân hàng nước
ngoài, giữa các ngân hàng thương mại cổ phần với ngân hàng thương mại
nhà nước v.v…, mà còn diễn ra quyết liệt chính giữa các ngân hàng thương
mại nhà nước với nhau.
Huy động vốn - một trong những nghiệp vụ chủ yếu của hoạt động
ngân hàng thương mại- đã ngày càng gặp khơng ít khó khăn. Hệ thống Ngân
hàng Nơng nghiệp và Phát triển nơng thơn nói chung cũng nằm trong sự
cạnh tranh đó.
Ở Quảng Nam, kể từ khi tái lập tỉnh vào tháng 12 năm 1996 đến nay,
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chiếm được thị phần lớn
trên tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh doanh ngân hàng so với các ngân hàng
thương mại trên địa bàn. Đã từng bước khẳng định được vai trị, vị trí đối với
phát triển kinh tế-xã hội địa phương, ngày càng khẳng định và giữ vững vị trí
chủ đạo, chủ lực trên lĩnh vực “tam nơng” của tỉnh nhà. Tuy nhiên, xu hướng
hiện nay, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gia tăng với tính chất và
quy mơ ngày càng khốc liệt. Mặc dù với tốc độ phát triển kinh tế cao, tạo điều
kiện mở rộng đối tượng và nguồn huy động vốn, nhưng thị phần nguồn vốn
vẫn có xu hướng ngày càng bị thu hẹp…
Tam Kỳ là đơn vị thành phố loại 3, trực thuộc tỉnh Quảng Nam. Một địa
phương có nhiều tiềm năng, thế mạnh cho phát triển kinh tế nông, lâm, ngư
nghiệp - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - thương mại và dịch vụ. Đặc biệt
là phát triển các ngành nghề về kinh tế thủy, hải sản và hiện nay đang trong
giai đoạn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, phấn đấu thực hiện hoàn thành
các mục tiêu kinh tế - xã hội mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ
XIX - nhiệm kỳ 2010-2015- đề ra. Do đó, nhu cầu về vốn để phát triển kinh tế
- xã hội trên địa bàn rất lớn. Và yêu cầu đặt ra về vốn rất cần thiết và khẩn



3
trương. Trong đó, vốn huy động qua kênh các ngân hàng thương mại đóng vai
trị chủ yếu cho phát triển kinh tế địa phương.
Hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trên địa bàn
thành phố Tam Kỳ đã luôn cố gắng tập trung thu hút, huy động với tốc độ tăng
trưởng khá, đáp ứng được nhu cầu cơ bản về vốn cho phát triển kinh tế- xã hội
địa phương. Tuy nhiên qua thực tế, công tác huy động vốn có xu hướng ngày
càng bị thu hẹp. Nhiều vấn đề mới trong công tác huy động vốn nảy sinh
những khó khăn vướng mắc cần phải khắc phục, và cần có những nghiên cứu
một cách hệ thống dựa trên những căn cứ khoa học, tìm ra những giải pháp để
tăng cường khả năng huy động vốn… Vì vậy vấn đề: “Huy động vốn của
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trên địa bàn thành phố
Tam Kỳ , tỉnh Quảng Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế” được chọn làm đề
tài nghiên cứu, có ý nghĩa cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài, đến nay đã có một số cơng trình nghiên cứu, bài
viết được cơng bố với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau:
- Trần Quang Hiền (2005), Giải pháp mở rộng huy động vốn tại chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Nghệ An, Luận
văn Thạc sĩ khoa học kinh tế, Hà Nội.
Với mục tiêu là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc huy động
vốn trong ngân hàng thương mại, từ đó đề ra hệ thống giải pháp về hoạt động
huy động tại một chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
địa phương.
- Trần Đức Thuấn (1998), Huy động vốn để phát triển kinh tế ở Đà
Nẵng - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ khoa học kinh tế, Hà Nội.
Mục tiêu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc huy
động vốn để đề xuất một số giải pháp huy động các nguồn vốn tiền tệ cho phát
triển các ngành kinh tế - kỹ thuật ở Đà Nẵng.



4
- Hà Thị Sáu (2002), “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động
vốn trong dân”, Tạp chí Ngân hàng;
Bài viết đã đánh giá tiềm năng về nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Đi
sâu phân tích những mặt hạn chế trong việc thu hút nguồn vốn này từ phía các
ngân hàng thương mại. Từ đó đề xuất một số vấn đề để tăng cường công tác
huy động vốn trong khu vực dân cư.
- Đề án huy động vốn trong dân cư của Chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam, [26].
Với định hướng tiến đến ổn định và phát triển bền vững nguồn vốn
huy động tại một địa phương thuần nơng điển hình của khu vực duyên hải
miền Trung, đề án đã phản ảnh khá toàn diện về thực trạng, xác định mục tiêu
và đề ra giải pháp huy động vốn trong dân cư trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
giai đoạn 2004 - 2010.
Tóm lại, có thể khái qt về các cơng trình, đề tài nghiên cứu trên đây,
dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau đã đề ra các giải pháp huy động vốn để
phát triển kinh tế trên bình diện quản lý về mặt nhà nước. Hoặc là, nghiên cứu
hoạt động huy động vốn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn với
mục tiêu góp phần cơng nghiệp hố, hiện đại hố nông nghiệp, nông thôn trên
quy mô cấp tỉnh. Đến nay, chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu việc mở
rộng quy mô huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn trên địa bàn thành phố Tam Kỳ dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị.
Do đó, hướng chọn đề tài khơng trùng lắp.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận giải những căn cứ khoa học để đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả thu hút nguồn vốn của Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đối với các thành phần kinh tế phù hợp với yêu cầu và tiềm năng phát
triển kinh tế xã hội trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam thời kỳ

2011-2015 và tầm nhìn 2020.


5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hoàn thiện khung lý thuyết về huy động vốn của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Khảo sát và đánh giá một cách khách quan, khoa học thực trạng huy
động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trên địa bàn
thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam dưới góc độ những kết quả đạt được. Vấn
đề đặt ra và nguyên nhân.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động
vốn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam giai
đoạn 2011-2015 và tầm nhìn 2020.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Huy động vốn từ các thành phần kinh tế, từ dân cư và các đoàn thể xã
hội tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: nghiên cứu các hình thức huy động vốn của Ngân hàng
Nơng nghiệp và Phát triển Nông thôn.
- Không gian nghiên cứu: Hoạt động huy động vốn của các chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trên địa bàn thành phố Tam
Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
- Thời gian nghiên cứu: giai đoạn 2005-2010 và đề xuất giải pháp cho
thời kỳ 2011-2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Vận

dụng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về
hoạt động Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.


6
Đồng thời, hệ thống hóa và làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về nghiệp vụ
huy động vốn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó xác định quan
điểm và giải pháp thu hút vốn huy động tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Cụ thể:
Chương 1: Hệ thống những vấn đề lý luận và phân tích tính đặc thù cơng
tác huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Phân tích, so sánh, tổng hợp các số liệu, tư liệu và có minh
họa bằng bảng biểu để làm rõ thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn trên địa bàn Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Khái quát kết quả nghiên cứu, từ đó đề ra phương hướng và
giải pháp phù hợp nhằm đẩy mạnh huy động thu hút vốn cho các Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh
Quảng Nam.
- Ngoài ra, luận văn sử dụng các phương pháp điều tra, thu thập số
liệu, phân tổ, phân tích, so sánh, tổng hợp... để đưa ra kết luận các vấn đề có
liên quan.
6. Những đóng góp của luận văn
- Góp phần hệ thống hố một số vấn đề lý luận cơ bản về huy động
vốn tại Ngân hàng thương mại.
- Phân tích kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra trong hoạt động
huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trên địa
bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh huy động vốn tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trên địa bàn thành phố Tam Kỳ,

tỉnh Quảng Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chương, 07 tiết.


7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HUY ĐỘNG VỐN
Ở NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
1.1. NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP & PHÁT TRIỂN NÔNG THƠN VÀ
HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NĨ

1.1.1.

Tổng quan về Ngân hàng Nơng nghiệp và

Phát triển Nơng thơn
1.1.1.1. Q trình hình thành, phát triển
Ngày 26 tháng 3 năm 1988, trên cơ sở tiếp nhận: Vụ Tín dụng Nơng
nghiệp Ngân hàng Nhà nước và một bộ phận của Vụ Tín dụng Thương
nghiệp, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng, Vụ Kế toán, tất cả các chi nhánh
Ngân hàng Nhà nước huyện, Phịng Tín dụng Nơng nghiệp, Quỹ tiết kiệm tại
các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố…, Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số 53/HĐBT chính thức thành lập
Ngân hàng Phát triển Nơng nghiệp Việt Nam [1, tr.1-5].
Ngày 14/11/1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng
Chính phủ) ký Quyết định số 400/CT thành lập Ngân hàng Nông nghiệp Việt
Nam thay thế Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam. Ngân hàng Nông
nghiệp là Ngân hàng thương mại đa năng, hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực

nông nghiệp, nông thôn, là một pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật.
Ngày 30/7/1994 tại Quyết định số 160/QĐ-NHN9, Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước chấp thuận mơ hình đổi mới hệ thống quản lý của Ngân hàng
Nông nghiệp Việt Nam, trên cơ sở đó, Tổng giám đốc Ngân hàng Nơng
nghiệp Việt Nam cụ thể hóa bằng Quyết định số 927/QĐ-TCCB-NHNo ngày
16/08/1994 xác định: Ngân hàng Nơng nghiệp Việt Nam có 2 cấp: Cấp tham
mưu và Cấp trực tiếp kinh doanh. Đây thực sự là bước ngoặc về tổ chức bộ


8
máy của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam và cũng là nền tảng cho hoạt động
kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam sau này.
Trên cơ sở những kết quả đạt được của Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo,
Ngân hàng Nông nghiệp tiếp tục đề xuất kiến nghị thành lập Ngân hàng Phục
vụ Người nghèo, được Chính phủ, NHNN ủng hộ, dư luận rất hoan nghênh.
Ngày 31/08/1995, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 525/TTg
thành lập Ngân hàng Phục vụ Người nghèo. Ngân hàng Phục vụ Người nghèo
là một tổ chức tín dụng của Nhà nước hoạt động trong phạm vi cả nước, có tư
cách pháp nhân, có vốn điều lệ, có tài sản, bảng cân đối, có con dấu, trụ sở
chính đặt tại Thành phố Hà Nội. Vốn hoạt động ban đầu là 400 tỷ đồng do
Ngân hàng Nơng nghiệp Việt Nam góp 200 tỷ đồng, Ngân hàng Ngoại thương
100 tỷ đồng và NHNN 100 tỷ đồng. Hoạt động của Ngân hàng Phục vụ Người
nghèo vì mục tiêu xóa đói giảm nghèo, khơng vì mục đích lợi nhuận, thực
hiện bảo toàn vốn ban đầu, phát triển vốn, bù đắp chi phí. Ngân hàng Phục vụ
Người nghèo - thực chất là bộ phận tác nghiệp của Ngân hàng Nông nghiệp
Việt Nam tồn tại và phát triển mạnh. Tới tháng 09/2002, dư nợ đã lên đến
6.694 tỷ, có uy tín cả trong và ngoài nước, được các Tổ chức quốc tế đánh giá
cao và đặc biệt được mọi tầng lớn nhân dân ủng hộ, q trọng. Chính vì
những kết quả như vậy, ngày 04/10/2002, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành

Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội trên
cơ sở Ngân hàng Phục vụ Người nghèo. Từ 01/01/2003 Ngân hàng Phục vụ
Người nghèo đã chuyển thành Ngân hàng Chính sách xã hội. Ngân hàng Nơng
nghiệp chính là chủ thể đề xuất thành lập, thực hiện và bảo trợ Ngân hàng
Phục vụ Người nghèo - tiền thân của Ngân hàng Chính sách xã hội - Đây là
một niềm tự hào to lớn của NHNo&PTNT Việt Nam trong sự nghiệp phát
triển kinh tế-xã hội xố đói giảm nghèo.
Ngày 15/11/1996, được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền, Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký Quyết định số 280/QĐ-NHNN đổi tên


9
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thành NHNo&PTNT Việt Nam, hoạt động
theo mơ hình Tổng Cơng ty 90, là Doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt, hoạt
động theo Luật các tổ chức tín dụng và chịu sự quản lý trực tiếp của NHNN
Việt Nam. Với tên gọi mới, ngoài chức năng của một NHTM, NHNo&PTNT
được xác định thêm nhiệm vụ đầu tư phát triển đối với khu vực nông thôn
thông qua việc mở rộng đầu tư vốn trung, dài hạn để xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho sản xuất nơng, lâm nghiệp, thủy hải sản góp phần thực hiện thành
cơng sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn.
NHNo&PTNT Việt Nam là một trong những NHTM dẫn đầu trong hệ
thống Ngân hàng Việt Nam về vốn, tài sản, nguồn nhân lực, mạng lưới hoạt
động, số lượng khách hàng. Kết thúc năm tài chính 2009, NHNo&PTNT Việt
Nam có tổng tài sản 470.000 tỷ đồng; vốn tự có 22.176 tỷ đồng; tổng nguồn
vốn 434.331 tỷ đồng; tổng dư nợ 354.112 tỷ đồng; đội ngũ cán bộ nhân viên
35.135 người; 2.300 chi nhánh và phòng giao dịch; quan hệ đại lý với 1.034
ngân hàng tại 95 quốc gia và vùng lãnh thổ; được trên 13 triệu khách hàng tin
tưởng lựa chọn… NHNo&PTNT Việt Nam cũng là ngân hàng hàng đầu tại
Việt Nam tiếp nhận và triển khai các dự án nước ngoài. Đặc biệt là các dự án
của Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Cơ quan

phát triển Pháp (AFD), Ngân hàng Đầu tư châu Âu (EIB)… NHNo&PTNT
Việt Nam hiện là Chủ tịch Hiệp hội Tín dụng Nơng nghiệp Nơng thơn châu ÁThái Bình Dương (APRACA). Trong những năm gần đây, NHNo&PTNT Việt
Nam cịn được biết đến với hình ảnh của một ngân hàng hàng đầu cung cấp
các sản phẩm dịch vụ tiện ích, hiện đại. NHNo&PTNT Việt Nam được khẳng
định là ngân hàng chủ đạo, chủ lực trong thị trường tài chính nơng thơn, đồng
thời là NHTM đa năng, giữ vị trí hàng đầu trong hệ thống NHTM ở Việt Nam.
Được Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Ngành ngân hàng, nhiều tổ chức uy tín
trên thế giới trao tặng các bằng khen cùng nhiều phần thưởng cao quý: Top 10
giải “Sao Vàng Đất Việt”, Top 10 “Thương hiệu Việt Nam uy tín nhất”, danh


10
hiệu “Doanh nghiệp Phát triển bền vững”” do Bộ Công thương công nhận, Top
10 “Doanh nghiệp Việt Nam theo xếp hạng của VNR500”… [1, tr.8]; Với những
thành tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, đóng góp tích cực và rất có
hiệu quả vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, sự nghiệp công
nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp - nơng thơn, Chủ tịch nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký quyết định số 226/2003/QD/CTN ngày
07/05/2003 phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới” cho
NHNo&PTNT Việt Nam.
1.1.1.2. Hoạt động chủ yếu
- Thứ nhất: Huy động các nguồn vốn.
Nguồn vốn của NHNo&PTNT Việt Nam thu hút được theo 3 kênh chính
gồm: Nhận tiền gửi [6], vay vốn trên thị trường và huy động vốn từ chủ sở hữu
theo quy định của Pháp luật [9, tr.5].
+ Nhận tiền gửi:
NHNo&PTNT huy động tiền gửi dưới các hình thức cơ bản như nhận
tiền gửi thanh tốn, tiền gửi khơng kỳ hạn, có kỳ hạn hoặc tiền gửi tiết kiệm,
phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi….
Tiền gửi không kỳ hạn là loại nguồn vốn hình thành khi khách hàng

gửi tiền vào NHNo&PTNT vì các nhu cầu giao dịch, NHNo&PTNT mở cho
khách hàng một tài khoản cập nhật số tiền mà họ gửi và khách hàng có
quyền phát hành séc để chi trả cho bên thứ ba hoặc rút tiền mặt ở bất kỳ
thời điểm nào. Người gửi được trả lãi nhưng với mức lãi suất thường rất
thấp (hiện nay phổ biến là 0,20% - 0,25%/tháng đối với tiền gửi không kỳ
hạn nội tệ). Người sở hữu chủ yếu đối với các khoản tiền gửi không kỳ hạn
thường là các doanh nghiệp nhằm phục vụ nhu cầu về chi trả thường xuyên
và thuộc về vốn lưu động của doanh nghiệp. Phần nhỏ hơn thuộc sở hữu
của các cá nhân và các hộ gia đình. Ngồi chi phí trả lãi, khi huy động tiền
gửi khơng kỳ hạn, NHNo&PTNT cịn phải bỏ ra các chi phí như chi phí


11
nhân sự và thiết bị, chi phí do phải duy trì Dự trữ bắt buộc, Dự trữ thanh
tốn thường với tỷ lệ cao, chi phí do phải cung cấp những dịch vụ miễn phí
cho khách hàng, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh thị phần khách hàng
quyết liệt như hiện nay.
Tiền gửi tiết kiệm là loại nguồn vốn hình thành khi khách hàng gửi tiền
vào NHNo&PTNT với mục đích tiết kiệm. Tiền gửi tiết kiệm thường khơng
có mức giới hạn về số tiền, có hoặc khơng có thời hạn đáo hạn cố định. Chủ
nhân của các khoản tiền gửi tiết kiệm thơng thường là các cá nhân và hộ gia
đình. Họ được hưởng lãi, được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo
hiểm tiền gửi và có quyền rút tiền khi đến hạn nếu là tiền tiết kiệm có thời
hạn. Đối với NHNo&PTNT, nguồn tiền gửi tiết kiệm là khá ổn định, cho phép
chủ động trong việc đầu tư vào các kế hoạch sinh lời. Tuy nhiên ngoài những
khoản phí tương tự như tiền gửi khơng kỳ hạn, chi phí thu hút nguồn vốn này
lại đắt hơn do phải trả lãi cao và do đa phần những món tiết kiệm thường nhỏ,
phân tán. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là nguồn vốn có đặc điểm người gửi
được NHNo&PTNT trao cho Sổ tiết kiệm có thời hạn đáo hạn ấn định trước.
Người gửi không được rút tiền trước hạn, nếu rút trước hạn phải báo trước và

phải chấp nhận hưởng lãi suất không kỳ hạn, hoặc nhận với mức lãi suất thấp
hơn lãi suất ban đầu. NHNo&PTNT phải trả lãi cho họ tuỳ theo số tiền và thời
hạn gửi. Bên cạnh đó cịn hình thức chứng chỉ tiền gửi, có loại chứng chỉ tiền
gửi khả năng chuyển nhượng được trên thị trường, đa số phần cịn lại thường
khơng có khả năng chuyển nhượng hoặc chuyển nhượng hạn chế. Nguồn tiền
gửi có kỳ hạn nhìn chung đắt hơn với tiền gửi và tiết kiệm không kỳ hạn
nhưng lại cho phép NHNo&PTNT mở rộng thời hạn cho vay hay đầu tư,
thường được cân đối cho đầu tư trung, dài hạn.
+ Vay vốn trên các thị trường:
Ngoài nguồn tiền gửi, NHNo&PTNT cịn chủ động vay vốn trên thị
trường. Những hình thức chủ yếu là vay từ NHNN trung ương, vay từ số dư


12
tài khoản dự trữ của các NHTM khác tại NHNN trung ương, vay vốn qua phát
hành các hợp đồng mua lại, phát hành trái phiếu NHNo&PTNT...
NHNo&PTNT có thể vay vốn ngắn hạn từ NHNN trung ương để bù đắp
thiếu hụt trong thanh toán bù trừ, khi cần đáp ứng nhu cầu chi trả thường
xuyên do tiền gửi bị tạm thời rút ra hay khi cần đáp ứng các nhu cầu tạm thời
khác. Một hình thức khác là NHNo&PTNT vay vì các nhu cầu thời vụ, chẳng
hạn như các hoạt động cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn hay
trong những lĩnh vực tiêu dùng cá nhân có diễn biến nhu cầu vốn mang tính
thời vụ. Khoản đặc trưng khác là NHNo&PTNT vay NHNN trung ương khi
gặp khó khăn nghiêm trọng về khả năng thanh khoản. Ở đây NHNN trung
ương đóng vai trị là “người cho vay cuối cùng”. Nhìn chung, hai loại vay đầu
là những hình thức tài sản nợ khá phổ biến của NHNo&PTNT. Tuy vậy đây là
một nguồn vốn có chi phí khá cao, ngân hàng đi vay thường thiếu chủ động,
điều kiện vay thường ngặt nghèo, ln địi hỏi có sự đảm bảo khá đầy đủ, thời
hạn cho vay thường ngắn, nhất là trong các thời kỳ NHNN trung ương thực
hiện chính sách tiền tệ thắt chặt như giai đoạn cuối năm 2007, cao điểm vào

các quý 1, quý 2 năm 2008, và duy trì theo mức độ giảm dần đến thời điểm gần
đây [25]. NHNo&PTNT cũng có thể vay tạm thời số dư nhàn rỗi trên tài khoản
dự trữ bắt buộc của các NHTM khác được duy trì tại NHNN trung ương hoặc
vay vốn trực tiếp từ các NHTM khác. Đó là khoản vay để bù đắp do tài khoản
dự trữ bị thiếu hụt hoặc để hỗ trợ ngân quỹ do các nhu cầu tạm thời. Có thể vay
hàng ngày hoặc ngắn hạn, lãi suất tương tự lãi suất chiết khấu ngắn hạn tại
NHNN trung ương.
Phát hành các hợp đồng mua lại là nghiệp vụ trong đó NHNo&PTNT
tạm thời vay những khoản tiền nhàn rỗi của các tổ chức tài chính hoặc các
doanh nghiệp lớn... bằng cách bán tạm thời các tài sản tài chính (như tín phiếu,
trái phiếu Chính phủ, chứng chỉ tiền gửi...) mà mình đang sở hữu và ký kết
hợp đồng cam kết sẽ mua lại chúng với một giá cả được thỏa thuận ấn định


13
trước, ít nhiều cao hơn giá bán ban đầu. Hợp đồng mua lại được sử dụng khi
NHNo&PTNT cần vốn để tài trợ cho các hoạt động hàng ngày hoặc hoạt động
ngắn hạn, cịn hợp đồng bán lại là hình thức sử dụng vốn tiền tệ nhàn rỗi tạm
thời nhằm thu lời. Khoản chênh lệch giá ấn định trước chính là lãi suất của
hợp đồng mua lại.
Phát hành trái phiếu [5, tr.2-3] là một cách thức huy động vốn thông
dụng khác của NHNo&PTNT. Trong nghiệp vụ này, NHNo&PTNT phát hành
trái phiếu để huy động vốn trên các thị trường, chủ yếu tập trung ở thị trường
chứng khoán. Các trái phiếu này được gọi là trái phiếu NHNo&PTNT Việt
Nam. Nhìn chung nguồn vốn này có nhiều điểm giống với nguồn vốn hình
thành từ việc phát hành chứng chỉ tiền gửi. Tuy nhiên, thời hạn đáo hạn của
chúng thường là trung, dài hạn. Mặt khác, trái phiếu là công cụ của thị trường
vốn, cịn các chứng chỉ tiền gửi lại là cơng cụ của thị trường tiền tệ. Lãi suất của
trái phiếu cũng thường cao hơn lãi suất của các chứng chỉ tiền gửi. Một số loại
trong đó có thể có cả đặc tính được phép chuyển đổi được thành cổ phiếu.

+ Huy động vốn từ chủ sở hữu:
Trên phương diện tạo nguồn thì việc phát hành các hợp đồng để thu
hút vốn từ chủ sở hữu cũng là một cách thông thường trong kinh doanh.
Điểm đặc trưng ở đây là chủ sở hữu của những hợp đồng này sẽ đóng vai
trị chủ sở hữu ngân hàng. Ngân hàng được phép sử dụng tối đa vào việc bù
đắp các khoản lỗ phát sinh trong q trình hoạt động. Ngân hàng chỉ phải
thanh tốn hợp đồng sau khi đã hoàn trả đủ cho người gửi tiền và các chủ
nợ khác trong trường hợp ngân hàng bị thanh lý phá sản. Đối với
NHNo&PTNT đây là loại nguồn vốn tồn tại thường xuyên, ổn định nhất
song cũng là loại nguồn vốn có chi phí đắt nhất nên quy mô của chúng
thường rất nhỏ so với các loại nguồn vốn kể trên. Mặc dù vậy, vì sự tồn tại
của loại nguồn vốn này là điều kiện pháp lý duy trì hoạt động của ngân
hàng [50] nên NHNo&PTNT nói riêng, các NHTM nói chung khơng những


14
phải ln duy trì, bảo tồn mà cịn thường xun bổ sung, trước hết bằng
con đường trích lập quỹ dự trữ vốn từ lợi nhuận hàng năm.
- Thứ hai: Sử dụng vốn.
Với tư cách là một trung gian tài chính, phần lớn thu nhập của
NHNo&PTNT có được là từ các hoạt động sử dụng vốn dưới các hình thức
cho vay, đầu tư chứng khốn, góp vốn và các hình thức đầu tư được phép
khác. Song các rủi ro cơ bản mà NHNo&PTNT đối mặt cũng xuất phát chính
từ những hoạt động này. Vì vậy, với quan điểm thận trọng, NHNo&PTNT đã
phân bổ quỹ vốn theo cơ cấu ưu tiên với trật tự như sau:
- Một là, phải sử dụng một phần quỹ tài sản tiền gửi nhằm đáp ứng được
các quy định pháp lý về Dự trữ (bắt buộc và thanh toán). Mặt khác, sử dụng
một phần nguồn vốn huy động nhằm đảm bảo dự phòng cho các nhu cầu thanh
khoản, chẳng hạn dưới hình thức mua các cơng cụ ngắn hạn, các chứng khốn
có tính thanh khoản cao và rủi ro thấp.

- Hai là, đáp ứng nhu cầu vay vốn trên khu vực thị trường mà họ phục
vụ bằng cách thiết lập những khoản cho vay và cho thuê sao cho phù hợp với
nhu cầu và khả năng của khách hàng. Hoạt động cho vay và cho thuê tài chính
đối với các doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình là cách sử dụng vốn thơng
dụng nhất và chiếm vai trò trọng yếu của NHNo&PTNT. Lãi suất cho vay, cho
thuê tài chính chính là nguồn thu của ngân hàng. Phần lớn thu nhập có được là
từ mảng hoạt động này, nhất là trong điều kiện các thị trường tài chính ở nước
ta cịn ở trình độ phát triển thấp. Tuy nhiên, đây cũng là mảng hoạt động làm
phát sinh rủi ro cao nhất, NHNo&PTNT phải tập trung nhiều nỗ lực để quản
lý và do vậy kéo theo cũng làm phát sinh tăng nhiều chi phí .
- Ba là, đầu tư chứng khoán sau khi đã đáp ứng được các nhu cầu nói
trên đối với mọi nguồn quỹ, bằng cách tiến hành các hoạt động mua và nắm
giữ các chứng khốn do Chính phủ phát hành hoặc do các doanh nghiệp phát
hành. Thực chất của hoạt động này là đã thực hiện hoạt động tài trợ cho Chính


15
phủ hoặc tài trợ cho doanh nghiệp. Những quan hệ tài chính phát sinh trong
trường hợp này về bản chất cũng không khác nhiều với hoạt động cho vay của
NHNo&PTNT. Nhìn chung mảng hoạt động này có vai trị khá hạn chế so với
hoạt động cho vay và cho thuê của NHNo&PTNT. Hiện nay NHNo&PTNT
chủ yếu nắm giữ các loại chứng khốn nợ, có độ rủi ro thấp, năng lực thị
trường cao, trước hết để đáp ứng các nhu cầu thanh khoản khi cần và mặt khác
ít quan trọng hơn là để thu lợi nhuận.
- Thứ ba: Cung cấp dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác:
Cung cấp dịch vụ thanh toán là nét đặc trưng trong hoạt động. Các ngân
hàng là chủ thể chính trong các hệ thống thanh toán bù trừ, chuyển tiền và các
hệ thống thanh tốn dùng và khơng dùng tiền mặt khác. NHNo&PTNT thực
hiện những dịch vụ này để thu phí, nhưng vì chúng gắn liền với các hoạt động
huy động tiền gửi và cho vay nên cũng góp phần quan trọng vào việc mở rộng

các hoạt động huy động vốn cũng như mở rộng hoạt động cho vay và đầu tư
kiếm lời. Lợi ích chính đối với các chủ thể trong nền kinh tế là nhờ có các hệ
thống thanh tốn của các ngân hàng để có thể thanh tốn nợ phát sinh trong
q trình kinh doanh của họ với độ an tồn cao, tiết kiệm thời gian và chi phí.
Các dịch vụ bảo đảm mà NHNo&PTNT cung cấp cũng là mảng hoạt
động quan trọng và gắn liền với các hoạt động huy động tiền gửi, cho vay, đầu
tư chứng khoán. Bên cạnh đó, cịn cung cấp nhiều loại hình dịch vụ ngân
hàng, tài chính khác cho khách hàng như: dịch vụ uỷ thác, dịch vụ tư vấn tài
chính, dịch vụ kế tốn, dịch vụ bảo hiểm (ABIC), dịch vụ chứng khoán
(AGRISECO), dịch vụ cho thuê két sắt...
Đối với NHNo&PTNT, khả năng thực hiện các dịch vụ không giống
nhau, mà tùy thuộc vào nhu cầu của đối tượng khách hàng đang phục vụ, cũng
như tùy thuộc vào điều kiện môi trường kinh doanh nơi chi nhánh các cấp
đang hoạt động. Nếu như trước đây các NHNo&PTNT thường tìm cách làm
cân bằng giữa thu nhập và chi phí từ hoạt động dịch vụ cịn lợi nhuận chủ yếu


16
là từ chênh lệch lãi suất đầu ra - đầu vào thực dương, thì đến nay
NHNo&PTNT đã áp dụng một hướng hành động khác đó là chủ động mở
rộng các hoạt động dịch vụ của mình để cải thiện, gia tăng nguồn thu nhập và
củng cố vị thế trên thị trường.
1.1.2. Vai trò hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế
Hệ thống NHTM nói chung, NHNo&PTNT nói riêng, đóng vai trò rất
quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Thông qua nghiệp vụ huy động
vốn mà hệ thống ngân hàng tập trung hầu hết các nguồn vốn tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi của xã hội. Biến tiền nhàn rỗi từ chỗ là phương tiện cất trữ trở thành
nguồn vốn tái sản xuất của nền kinh tế. Đây là nguồn vốn rất quan trọng để đầu

tư phát triển khơng những lớn về số tuyệt đối mà vì tính chất “ln chuyển”,
“tạo tiền” khơng ngừng của nó. Đặc biệt trong chiến lược phát triển của nước
ta là xây dựng nền kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng
điểm xuất phát thấp, ngân sách cịn hạn hẹp, hầu như khơng có tích lũy từ
trước. Do đó, vốn đầu tư cho các ngành kinh tế phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn
nội lực. Trong đó, nguồn từ các ngân hàng huy động được là rất quan trọng vì
nó tạo nên sự ổn định vững chắc cho sự phát triển nhanh, ổn định và bền vững
lâu dài. Ngoài việc thu hút tiền nhàn rỗi trong xã hội cho đầu tư phát triển,
thông qua nghiệp vụ huy động vốn của hệ thống NHTM giúp NHNN kiểm soát
khối lượng tiền tệ trong lưu thơng qua việc sử dụng chính sách tiền tệ (tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, tỷ giá….).
Chẳng hạn muốn thu hút bớt lượng tiền trong lưu thông, NHNN tăng lãi suất
cơ bản, lãi suất chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khống chế dư nợ tín dụng, và
ngược lại…. nhằm điều hịa lưu thơng tiền tệ, kiềm chế lạm phát, bình ổn giá
cả, góp phần ổn định vĩ mô nền kinh tế.


17
Huy động vốn là một trong những yếu tố có tính quyết định đối với hoạt
động của NHNo&PTNT. Là điều kiện quan trọng nhất góp phần vào việc phát
triển kinh tế - xã hội. Kết quả hoạt động huy động vốn NHNo&PTNT là
những giá trị tiền tệ được dùng để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ
tài chính khác. Hoạt động của NHNo&PTNT là một lĩnh vực không thể tách
rời với tổng thể chung của nền kinh tế, nó gắn bó hết sức mật thiết, hỗ trợ cho
nền kinh tế phát triển. Nghiệp vụ huy động vốn giữ vai trị rất quan trọng
khơng chỉ đối với hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT mà cịn có vai trị
to lớn trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Vốn huy động là một trong những điều kiện quan trọng trong tái sản
xuất mở rộng, là điều kiện để đảm bảo sản xuất trong từng doanh nghiệp cũng
như trong toàn nền sản xuất xã hội được diễn ra bình thường. Sự tích tụ, tập

trung một lượng tiền tương ứng với quy mô đầu tư sản xuất là điều kiện để
tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Sản xuất phát triển đạt hiệu quả cao, đến
lượt nó, lại là cơ sở vững chắc cho q trình tích luỹ vốn dồi dào. Trong các
kênh tập trung và đầu tư vốn cho nền kinh tế, NHTM nói chung là kênh chu
chuyển vốn hiệu quả nhất, ít tốn kém nhất. Thơng qua NHTM, trong đó có
NHNo&PTNT, nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội sẽ được tập trung thành
nguồn vốn lớn, đáp ứng nhu cầu đầu tư của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sản
xuất, lưu thơng hàng hố và phát triển kinh tế - xã hội:
- NHNo&PTNT cho các doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình vay để
phát triển kinh tế, xố đói giảm nghèo, giải quyết việc làm. Có thể nói
nguồn vốn NHNo&PTNT có sức lan toả rộng vào mọi tầng lớp dân cư, đã
đóng vai trị quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn và hình thành nên
thị trường vốn nông nghiệp, nông thôn trong nền kinh tế thị trường. Nguồn
vốn của NHNo&PTNT cho các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình vay đã
tác động tích cực đến việc khai thác các thế mạnh, tiềm năng của đất nước,
góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng nơng thơn, giúp các doanh nghiệp đổi


18
mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh, chuyển dịch cơ cấu trong
sản xuất nông nghiệp, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân
góp phần xố được đói, giảm được nghèo, đồng thời vươn lên làm giàu,
tạo động lực nhằm mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội, thúc đẩy nền kinh tế
phát triển.
- Nguồn vốn huy động của NHNo&PTNT còn tạo điều kiện giúp cho
các cá nhân và hộ gia đình vay vốn để giải quyết các nhu cầu về đời sống, học
hành, tiêu dùng như mua sắm phương tiện đi lại, đồ dùng sinh hoạt gia đình,
sửa chữa nhà ở... nhằm khơng ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân
dân. Đồng thời cịn cho vay đi lao động nước ngồi góp phần giải quyết công
ăn, việc làm và tăng nguồn thu nhập từ nước ngoài chuyển về.

Với đường lối đổi mới và chính sách mở cửa của Đảng, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trong cả
nước. Từ đó nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh ngày càng tăng, địi hỏi
các ngân hàng phải có nguồn vốn lớn tương xứng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời
cho các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, góp phần phục vụ quá
trình CNH, HĐH và phát triển kinh tế-xã hội một cách ổn định và vững chắc.
1.1.2.2. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
- Đảm bảo hoạt động ổn định, đầu tư và phát triển
Hoạt động huy động vốn mang lại nguồn vốn cho NHNo&PTNT để
thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác: tín dụng, đa dạng hoá các sản phẩm
đầu tư, các dịch vụ, phát triển khoa học công nghệ dần theo tiêu chuẩn ngân
hàng hiện đại. Phần lớn vốn huy động bắt nguồn từ các hoạt động huy động
nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp, cá nhân cũng như từ việc
đi vay các nhà đầu tư trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Nếu khơng có
nghiệp vụ này thì NHTM nói chung, NHNo&PTNT nói riêng sẽ khơng đủ
nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của mình. Bởi vì khi một NHTM được cấp
giấy phép thành lập phải có vốn điều lệ theo quy định, nhưng vốn điều lệ chỉ


19
đủ tài trợ cho tài sản cố định như trụ sở, văn phịng, máy móc thiết bị cần thiết
cho hoạt động quản lý chung, chứ chưa đủ vốn để ngân hàng có thể thực hiện
các hoạt động kinh doanh của mình. Chính nguồn vốn huy động - chứ khơng
phải nguồn vốn sở hữu - đã tạo nguồn lực tài chính chủ yếu cho các hoạt động
kinh doanh trên nhiều lĩnh vực đầu tư của NHNo&PTNT.
- Đảm bảo khả năng cạnh tranh.
Thông qua nghiệp vụ huy động vốn, với lợi thế về mạng lưới, tiềm lực
tài chính khơng ngừng lớn mạnh qua từng năm, vị thế, uy tín, giá trị thương
hiệu Agribank (tên giao dịch viết tắt bằng tiếng Anh của NHNo&PTNT Việt
Nam) [1], cơ chế, chính sách ưu đãi đặc thù của Nhà nước, của Ngành đối với

NHNo&PTNT… đã tạo cho nguồn vốn huy động của NHNo&PTNT không
ngừng tăng trưởng và luôn chiếm thị phần lớn trong tổng nguồn vốn huy động
của hệ thống NHTM, lãi suất huy động bình quân (đầu vào) thường với mức
thấp so với mặt bằng chung, chí phí đi mua vốn ln có lợi thế cạnh tranh so
với các NHTM khác, nhất là các NHTMCP.
Cũng thơng qua nghiệp vụ huy động vốn, NHNo&PTNT có thể đo
lường được sự tín nhiệm, uy tín của mình đối với khách hàng. Qua đó có
những giải pháp khơng ngừng đẩy mạnh hoạt động huy động vốn để giữ vững
và mở rộng quan hệ, thu hút ngày càng nhiều khách hàng. Chính nghiệp vụ
huy động vốn đã góp phần giải quyết đầu vào của NHNo&PTNT luôn đảm
bảo khả năng cạnh tranh với các NHTM. Nhất là công tác huy động vốn ngày
càng khó khăn như bối cảnh hiện nay, khi nền kinh tế nước ta ngày càng hội
nhập sâu, rộng vào nền kinh tế quốc tế [42].
- Đảm bảo tính thanh khoản.
Thanh khoản là yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu trong hoạt động
ngân hàng. Nếu khả năng thanh khoản yếu, buộc ngân hàng phải đưa ra biện
pháp thắt chặt tín dụng, thắt chặt các khoản đầu tư, nhanh chóng thu hồi các
khoản vốn đến hạn, quá hạn để bù đắp nhằm phục hồi khả năng thanh khoản.


20
Nếu mất khả năng thanh khoản sẽ rất trầm trọng, có nguy cơ phá sản. Hệ lụy
của sự cố mất khả năng thanh khoản có tính dây chuyền trong tồn hệ thống
ngân hàng của một quốc gia, thậm chí ảnh hưởng đến nhiều quốc gia trong
khu vực, hoặc rộng ra tồn thế giới, hậu quả là khơn lường đối với nền kinh tế
nói chung. Vì vậy cơng tác huy động vốn có vai trị quan trọng bậc nhất để
ln duy trì và đảm bảo khả năng thanh khoản của một ngân hàng.
Đối với NHNo&PTNT Việt Nam, yếu tố thanh khoản càng đặc biệt quan
trọng khi môi trường kinh doanh luôn gắn với nông nghiệp, nông thôn, nông dân
vốn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, tiềm ẩn nhiều rủi ro, độ an toàn của

vốn đầu tư thấp… NHNo&PTNT Việt Nam đã có nhiều giải pháp để đảm bảo ổn
định thanh khoản thông qua việc quản lý bằng chỉ tiêu kế hoạch Dư Nợ (đối với
chi nhánh thiếu nguồn), Dư Có (đối với chi nhánh thừa nguồn vốn) tài khoản
519101 “Điều chuyển vốn nội bộ” v.v… , trên cơ sở đó điều hịa hiệu quả vốn
tồn hệ thống và đảm bảo tính ổn định thanh khoản mọi thời điểm [8]. Vì vậy,
cơng tác huy động vốn của NHNo&PTNT Việt Nam có vai trị cấp thiết, quyết
định khả năng thanh khoản tồn hệ thống, từ Trụ sở chính đến các chi nhánh
NHNo&PTNT địa phương các cấp.
1.1.2.3. Đối với khách hàng
Nghiệp vụ huy động vốn của NHNo&PTNT đã cung cấp cho khách
hàng một kênh đầu tư, làm cho tiền của họ sinh lợi bằng cách gửi tiền vào
NHNo&PTNT, được hưởng lãi, từ đó tạo điều kiện cho họ tăng khả năng tiêu
dùng trong tương lai. Qua nghiệp vụ huy động vốn, NHNo&PTNT cung cấp
cho khách hàng một nơi an toàn để cất trữ, tích lũy vốn tạm thời nhàn rỗi.
Đồng thời giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận các dịch vụ, đặc biệt dịch vụ
thanh toán qua ngân hàng, dịch vụ tín dụng khi họ cần vốn cho sản xuất hoặc
cho tiêu dùng và dịch vụ ủy thác thu hộ, chi hộ giúp họ tiết kiệm thời gian, chi
phí vận chuyển, nhân lực và vật lực.
1.1.3. Nội dung chủ yếu của hoạt động huy động vốn ở Ngân hàng


21
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Theo Luật hiện hành, và Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động
của NHTM nhằm cụ thể hoá việc thi hành Luật các tổ chức tín dụng, Ngân hàng
Thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau đây: Nhận tiền gửi của
các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi
khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác; Phát hành chứng chỉ
tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân
trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc NHNN chấp thuận; Vay vốn của

các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt nam và của các tổ chức tín dụng
nước ngồi; Vay vốn ngắn hạn của NHNN theo quy định của Luật NHNN Việt
Nam. Các quy định trên được NHNo&PTNT chi tiết hoá bằng các nghiệp vụ huy
động tiền gửi và qua phát hành chứng từ có giá, đi vay… sau đây:
1.1.3.1. Nghiệp vụ huy động tiền gửi của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn
- Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi [6]
+ Tiền gửi thanh tốn (tiền gửi khơng kỳ hạn)
Là loại tiền gửi mà người gửi được sử dụng một cách chủ động và
linh hoạt không bị ràng buộc về mặt thời gian. Tài khoản tiền gửi thanh toán
được mở cho các đối tượng khách hàng, cá nhân hoặc tổ chức, có nhu cầu
thực hiện thanh tốn qua NHNo&PTNT để thực hiện các khoản chi trả về
mua bán hàng hoá, dịch vụ, nhu cầu nhận chuyển tiền đi, đến, nhận tiền
lương hàng tháng, nhận tiền từ nước ngồi.
Thanh tốn qua NHNo&PTNT, theo đó ngân hàng thực hiện việc trích
chuyển tiền bằng cách ghi Nợ vào tài khoản của đơn vị phải trả, sang ghi Có
vào tài khoản có liên quan cho đơn vị thụ hưởng. Để thực hiện được nghiệp
vụ thanh tốn này, địi hỏi khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi thanh toán
ở ngân hàng. Đây thường là khoản tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi
vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư


22
cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân
hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có
thể được nhập vào tiền gửi thanh tốn theo u cầu.
Tiền gửi không kỳ hạn không phải là những khoản tiền để dành mà là
một bộ phận tiền đang chờ để thanh tốn. Do đó về mặt pháp lý khi gửi tiền
khơng kỳ hạn theo tài khoản thanh tốn đã thể hiện một hợp đồng mặc nhiên
giữa khách hàng với NHNo&PTNT. Trong đó NHNo&PTNT có trách nhiệm

thực hiện các khoản chi trả cho khách hàng một cách kịp thời chính xác
trong phạm vi số dư.
Khi gửi tiền vào tài khoản tiền gửi khơng kỳ hạn, khách hàng có thể rút
tiền bất kỳ lúc nào và không cần báo trước nên nếu ngân hàng sử dụng làm
nguồn vốn kinh doanh thì rủi ro thanh khoản cao. Do đó, đối với nguồn tiền gửi
này ngân hàng phải thực hiện dự trữ nhiều hơn so với các loại tiền gửi khác và
trả lãi suất thấp. Ở loại tiền gửi này, mục đích chính của người gửi không phải
là để được hưởng lợi tức mà là để được ngân hàng cung cấp các dịch vụ thanh
tốn khơng dùng tiền mặt. Vì vậy, lãi suất không phải là công cụ để thu hút
nguồn vốn này, mà cơng cụ chính là các dịch vụ do ngân hàng cung cấp kèm
theo phải là dịch vụ có nhiều tiện ích, an tồn, nhanh chóng và chính xác. Loại
này tuy biến động thường xun nhưng nó vẫn ln có một số dư ổn định do số
tiền gửi vào và rút ra trong một thời kỳ có thể bù trừ cho nhau. Tuy nguồn vốn
này có tính rủi ro thanh khoản cao nếu sử dụng để làm nguồn vốn cho vay, song
nó cũng mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
+ Tài khoản vãng lai:
Tài khoản vãng lai thường áp dụng với khách hàng có uy tín, ngân
hàng có thể cho khách hàng được phép thấu chi (từ số dư Có chuyển sang số
dư Nợ trên tài khoản) đến hạn mức phù hợp với thu nhập bình quân của chủ
tài khoản nhằm đảm bảo trả nợ vay. Các doanh nghiệp chỉ mở cho nhau các
tài khoản khách nợ, chủ nợ hay phải thu, phải trả. Các cơng ty tài chính, các


23
tổ chức phi ngân hàng không được mở tài khoản vãng lai cho khách hàng. Để
mở tài khoản vãng lai, NHNo&PTNT và khách hàng ký một hợp đồng trong
đó hai bên thỏa thuận về hạn mức cho vay, thời hạn, lãi suất, các hình thức
đảm bảo như tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của bên thứ ba. Các tranh
chấp phát sinh được xử lý theo tố tụng thương mại. Tài khoản vãng lai hoạt
động theo nguyên tắc: Bên Nợ ghi mọi khoản tiền khách hàng rút ra sử dụng

như: rút tiền mặt, thanh toán séc, thẻ, ủy nhiệm chi, trả phí, lãi…ln cả các
khoản ngân hàng trả thay cho khách hàng; Bên Có ghi mọi khoản tiền khách
hàng nộp hay thu vào như nộp tiền mặt, séc, chuyển tiền đến, chiết khấu, thu
ngân thương phiếu, ủy thác thu cổ tức, lợi tức lãi tiền gửi. Tài khoản vãng lai
thuộc loại lưỡng tính, có thể “Dư có” hoặc “Dư nợ” tại một thời điểm nhất
định. “Dư nợ” khi rút ra nhiều hơn gửi vào, thực chất là khoản tiền mà khách
hàng vay nợ ngân hàng. “Dư có” khi gửi vào nhiều hơn rút ra, thực chất là
tiền gửi ngân hàng của khách hàng.
+ Tiền gửi có kỳ hạn.
Là loại tiền gửi mà người gửi tiền chỉ có thể rút ra khi đáo hạn. Người
gửi không được sử dụng các hình thức thanh tốn như đối với tiền gửi thanh
tốn để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Tuy khơng thuận lợi cho khách
hàng bằng hình thức tiền gửi thanh tốn khơng kỳ hạn, song tiền gửi có kỳ
hạn được hưởng lãi suất cao hơn tùy theo độ dài của kỳ hạn. Thơng thường
Tiền gửi có kỳ hạn càng dài thì lãi suất phải càng cao. Đây là khoản vốn ổn
định tương đối, do đó nó được NHNo&PTNT sử dụng để cho vay trung, dài
hạn. Tiền gửi có kỳ hạn có chi phí sử dụng vốn khá cao. Người gửi tiền có kỳ
hạn nhằm mục đích hưởng lãi, ngân hàng muốn tăng khoản này phải trả lãi
thoả đáng sao cho người gửi vừa bảo tồn vốn vừa có được một khoản thu
nhập hợp lý từ tiền gửi của mình. Do đó lãi suất hấp dẫn, lãi suất cao là địn
bẩy, là cơng cụ chủ yếu để thu hút nguồn vốn này.
- Huy động vốn qua tiền gửi tiết kiệm [4]


24
+ Tiết kiệm không kỳ hạn:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là tiền gửi khách hàng có thể gửi và
rút ra bất cứ lúc nào mà không cần báo trước cho ngân hàng. Đây là loại tiền
gửi được mở cho khách hàng cá nhân có tiền tạm thời nhàn rỗi muốn gửi
ngân hàng vì mục tiêu an tồn và sinh lợi nhưng không thiết lập được kế

hoạch sử dụng tiền gửi trong tương lai. Đối với khách hàng khi lựa chọn hình
thức tiền gửi này thì mục tiêu an toàn và tiện lợi quan trọng hơn là mục tiêu
sinh lợi. Đối với ngân hàng, vì là loại tiền gửi này khách hàng muốn rút ra
bất cứ lúc nào cũng được nên ngân hàng phải đảm bảo tồn quỹ để chi trả và
khó lên kế hoạch sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng. Vì vậy ngân hàng thường
trả lãi rất thấp cho loại tiền gửi này.
+ Tiết kiệm định kỳ:
Tiền gửi tiết kiệm định kỳ là loại tiền gửi mà trong đó có sự cam kết
gửi tiền giữa khách hàng và ngân hàng trong một kỳ hạn nhất định.
Đối với loại tiền gửi tiết kiệm định kỳ, người gửi có một số tiền nhàn
rỗi trong thời gian dài, họ thường gửi theo hình thức này để được lãi suất
cao. Người gửi khơng được sử dụng các hình thức thanh tốn đối với loại
tiền gửi này, song có thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép.
Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền. Tiền gửi tiết kiệm
có kỳ hạn thường được hưởng lãi suất cố định. Tuy nhiên giữa các loại tiền
gửi có kỳ hạn khác nhau lãi suất được trả sẽ khác nhau. Tiền gửi có kỳ hạn
với thời gian càng lâu, lãi suất sẽ càng cao. Đối tượng khách hàng chủ yếu
của loại tiền gửi này là các cá nhân muốn có thu nhập ổn định và thường
xuyên, đáp ứng cho việc chi tiêu hàng tháng hoặc hàng quý. Mục tiêu quan
trọng của khách hàng khi chọn lựa hình thức tiền gửi này là lợi tức có được
theo định kỳ. Do đó lãi suất đóng vai trị quan trọng để thu hút được đối
tượng khách hàng này. Lãi suất trả cho loại tiền gửi tiết kiệm định kỳ cao
hơn lãi suất trả cho loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.


25
Tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn có thể phân chia thành nhiều loại. Căn cứ
vào thời hạn có thể chia thành tiền gửi kỳ hạn từ 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10,
11, 12, 13 tháng hoặc lâu hơn đến 36 tháng. Căn cứ vào phương thức trả lãi
có thể chia thành: Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi đầu kỳ; Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi

cuối kỳ; Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi theo định kỳ (tháng hoặc quý);
Đối với Tiền gửi tiết kiệm bậc thang theo thời gian gửi thì số tiền gửi
tối thiểu phải là 1.000.000 VNĐ, 100 USD, 100 EUR. Thời gian thực gửi
càng dài lãi suất càng cao, tối đa 36 tháng. Khách hàng có thể rút gốc nhiều lần
và hưởng lãi theo bậc thang tương ứng. Khách hàng cũng được chuyển quyền
sở hữu sổ tiết kiệm, được cầm cố sổ tiết kiệm để vay vốn, hoặc bảo lãnh cho
người thứ ba vay tại bất kỳ chi nhánh nào thuộc NHNo&PTNT và các TCTD
khác, hoặc dùng để xác nhận khả năng tài chính cho khách hàng, thân nhân
khách hàng đi du lịch, học tập… ở nước ngoài. Quy định thời gian cho các bậc
lãi suất, mức lãi suất áp dụng cho các bậc lãi suất (là lãi suất tiền gửi tiết kiệm
trả lãi sau toàn bộ), cụ thể: Bậc 1: Từ khi gửi đến dưới 3 tháng, hưởng lãi suất
không kỳ hạn; Bậc 2: Từ 3 tháng đến dưới 6 tháng, hưởng lãi suất có kỳ hạn 3
tháng; Bậc 3: Từ 6 tháng đến dưới 9 tháng, hưởng lãi suất có kỳ hạn 6 tháng;
Bậc 4: Từ 9 tháng đến dưới 12 tháng, hưởng lãi suất có kỳ hạn 9 tháng; Bậc 5:
Từ 12 tháng đến dưới 24 tháng, hưởng lãi suất có kỳ hạn 12 tháng; Bậc 6: Từ
24 tháng trở lên, hưởng lãi suất có kỳ hạn 24 tháng. Đến đủ 36 tháng nếu khách
hàng chưa đóng tài khoản, ngân hàng sẽ tự động tính và nhập lãi vào gốc và
chuyển sang kỳ hạn bậc thang mới áp dụng lãi suất bậc thang theo các bậc và
mức lãi suất tại thời điểm chuyển.
1.1.3.2. Nghiệp vụ huy động vốn qua phát hành các loại giấy tờ có
giá của Ngân hàng Nơng nghiệp và Phát triển Nơng thơn [5]
Bên cạnh các hình thức huy động trên, NHNo&PTNT còn phát hành
các loại giấy tờ có giá nhằm bổ sung vốn lưu động của ngân hàng khi vốn tự
có và vốn tiền gửi chưa đáp ứng đủ nhu cầu kinh doanh.
- Các hình thức phát hành giấy tờ có giá.


×