1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với bất cứ một quốc gia nào, bất cứ một nền kinh tế nào muốn phát triển
kinh tế thì phải dựa vào các nguồn lực chủ yếu như tài chính,tài nguyên thiên
nhiên,nhân lực, cơng nghệ v.v.., Trong đó thì nguồn lực tài chính ln là nhân
tố cơ bản của q trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
Trong thời kỳ đổi mới Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về
phát triển kinh tế - xã hội, từ một nước nghèo nàm lạc hậu đã trở thành quốc
gia thu nhập trung bình. Đóng góp vào thành tựu đó có phần khơng nhỏ từ các
ngân hàng thương mại thơng qua cung cấp nguồn lực tài chính cho hoạt động
kinh doanh. Trong những năm qua, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn (No&PTNT) với hệ thống chi nhánh rộng khắp tồn quốc đã góp
phần đảm bảo nguồn vốn để đẩy nhanh q trình chuyển nền nơng nghiệp sản
xuất tự cấp, tự túc sang nền sản xuất hàng hóa, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thơn, thơng qua đó cải thiện tình hình tài chính
tiền tệ của đất nước, xây dựng nền kinh tế bền vững.
Đê đảm bảo cho hoạt động và thực hiện vai trò quan trọng trong phát triển
kinh tế - xã hội nói chung và phát triển nơng nghiệp, nơng thơn nói tiêng, Ngân
hàng No&PTNT phải nỗ lực thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn
rỗi trong nền kinh tế, đặc biệt là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế, phải chịu nhiều sức ép của cạnh tranh do việc phát
triển hệ thống ngân hàng ngoài nhà nước và ngân hàng nước ngồi, đồng thời
chịu tác động khơng nhở từ tình hình tài chính tiền tệ trong và ngồi nước.
Kể từ khi được thành lập đến nay, Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT quận
Sơn Trà thành phố Đà Nẵng đã có nhiều cố gắng trong cơng tác huy động vốn,
góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Nghị quyết 33-NQ/TW ngày
16.10.2003 của Bộ Chính trị (khóa IX) về xây dựng và phát triển thành phố Đà
Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước đã đề ra: “Xây dựng thành phố Đà
2
Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế xã hội lớn của miền Trung với vai trị là trung tâm cơng nghiệp, thương mại, du
lịch và dịch vụ…” [2].
Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển mới, trước sức ép của cạnh tranh ngày
càng gia tăng, công tác thu hút vốn từ các thành phần kinh tế, các doanh
nghiệp, các tổ chức đồn thể chính trị - xã hội và dân cư cũng đang gặp khơng
ít khó khăn, đang ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh.
Do đó cần có sự nghiên cứu khoa học, tồn diện, cụ thể và sâu sắc để tìm giải
pháp đảm bảo cho Chi nhánh có thể thu hút được ngày càng nhiều các nguồn
vốn nhàn rỗi một cách lâu dài và bền vững, để có thể góp phần đáp ứng đủ nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội địa phương, chung sức thực hiện nhiệm vụ chung
của toàn ngành, nâng cao hơn nữa uy tín và vị thế của mình trên địa bàn và góp
phần làm lớn mạnh hơn nữa hệ thống NHNo. Đây là vấn đề hết sức cấp thiết,
đáp ứng đòi hỏi thiết thực của thực tiễn, vừa mang tính thời sự trong kinh
doanh tiền tệ của Ngân hàng hiện nay.hoạt động hiệu quả và thực hiện ngày
càng tốt hơn vai trị của mình trên địa bàn.
Xuất phát từ những lý do kể trên, vấn đề “Huy động vốn tại Chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quận Sơn Trà, thành phố
Đà Nẵng”, được học viên chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh
tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về NHTM và hoạt động
thu hút vốn của NHTM nói chung và NHTM Nhà nước ở nước ta nói riêng.
Tiêu biểu như:
- “Huy động vốn của của các ngân hàng thương mại trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh” của Hồng Xn Quế, Tạp chí “Kinh tế và Dự báo” tháng
07/2006.
- “Ngân hàng thương mại” của Lê Văn Tư, Nxb Tài chính, 2004.
3
- “Giao dịch Ngân hàng hiện đại - Kỹ năng phát triển các sản phẩm dịch
vụ tài chính" của Dwigji & Ritter do Nguyễn Tiến Dũng dịch, Nhà xuất bản
Thống kê, 2002.
- “Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại” của các tác giả Võ Thị Thuý Anh. Lê
Phương Dung, Nhà xuất bản Tài chính, 2009.
- “Thực trạng và giải pháp huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển tỉnh Quảng Nam”, Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý
kinh tế của Phạm Văn Hương, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, năm 2006.
- “Vốn huy động tại chi nhánh NHNo và Phát triển nông thôn để phát
triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam”, Luận văn Thạc
sỹ Kinh tế chính trị của Phạm Đình Dương, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
- “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng
Công thương Sầm Sơn”, Phạm Văn Lâm, Luận văn Thạc sỹ Quản lý kinh tế,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2008.
- “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh NHNo và
Phát triển nông thôn tỉnh Long An”, Nguyễn Kim Thái, Luận văn Thạc sỹ
Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh,
2008.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã làm rõ nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn về NHTM và hoạt động thu hút vốn của NHTM, trong đó có Ngân hàng
No&PTNT Việt Nam. Tuy nhiên chưa có cơng trình nào nghiên cứu tồn diện
trên giác độ kinh tế chính trị về hoạt động thu hút vốn của Chi nhánh Ngân
hàng No&PTNT quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, đặc biệt với tư cách
NHTM Nhà nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
4
Làm rõ lý luận cơ bản về huy động vốn của Ngân hàng No&PTNT, phân tích
thực trạng huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh huy động vốn của Chi
nhánh Ngân hàng No&PTNT quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của luận văn được đặt ra là:
Một là, hệ thống hóa những vấn đề lý luận về huy động vốn của Ngân
hàng No&PTNT.
Hai là, nghiên cứu kinh nghiệm huy động vốn của một số chi nhánh
NHTM Nhà nước ở nước ta và rút ra bài học cho Chi nhánh Ngân hàng
No&PTNT quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
Ba là, phân tích thực trạng huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng
No&PTNT quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, làm rõ những thành tựu, khó
khăn vướng mắc với những nguyên nhân của nó.
Bốn là, đề xuất phương hướng, giải pháp có tính khả thi để đẩy mạnh
việc huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT quận Sơn Trà, thành
phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động của ngân hàng nói chung và của Ngân hàng No&PTNT nói riêng
bao gồm nhiều lĩnh vực nghiệp vụ như: huy động vốn; cho vay vốn và các nghiệp
vụ khác... Nhưng đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề huy động vốn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung phân tích các số liệu về tình hình huy động vốn tại Chi
nhánh Ngân hàng No&PTNT quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng trong thời
gian từ năm thành lập (1997), đặc biệt là giai đoạn từ năm 2005 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu chung
5
Luận văn trình bày dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về phát triển kinh tế nói chung và đối với phát triển ngành ngân
hàng nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu riêng
- Đối với chương 1: dùng phương pháp hệ thống hóa và phân tích, tổng
hợp để hồn thiện cơ sở lý luận về huy động vốn của Ngân hàng No&PTNT,
nghiên cứu một số kinh nghiệm về huy động vốn của một số Chi nhánh
NHTM Nhà nước và rút ra bài học cho Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT
quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
- Đối với chương 2: thông qua việc phân tích các số liệu thống kê có sử
dụng một số sơ đồ, đồ thị, bảng số liệu nhằm phân tích rõ thực trạng huy động
vốn của Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
- Đối với chương 3: trên cơ sở kết quả nghiên cứu tại chương 1 và
chương 2, đề xuất phương hướng và giải pháp thúc đẩy huy động vốn tại Chi
nhánh Ngân hàng No&PTNT quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Thứ nhất, hệ thống hóa những vấn đề lý luận gắn với điều kiện đặt thù
của hoạt động huy động vốn của một quận mới thành lập chưa được bao lâu
và tình hình kinh tế - xã hội của quận có xuất phát điểm rất thấp, chủ yếu bắt
đầu từ sản xuất nông nghiệp và khai thác hải sản.
Thứ hai, đề xuất những biện pháp có tính khả thi phù hợp với điều kiện
cụ thể của Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT - Quận mới thành lập.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM
1.1.1. Vốn và nguồn vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của vốn
Vốn là yếu tố vô cùng quan trọng đối với hoạt động đầu tư sản xuất kinh
doanh trong nền KTTT, do đó được nhiều học giả tiếp cận nghiên cứu theo
các phương diện khác nhau:
Theo Từ điển Kinh tế của Penguin Reference, “Vốn là những tài sản có khả
năng tạo ra thu nhập và bản thân nó cũng được cái khác tạo ra” [15, tr.56].
Dưới góc độ tài chính - tiền tệ, theo các tác giả Hồ Văn Mộc và Điêu
Quốc Tín cho rằng, vốn là "tổng số tiền biểu hiện nguồn gốc hình thành của
tài sản được đầu tư trong kinh doanh để tạo ra thu nhập và lợi tức" [12, tr.29].
Dưới góc độ nhân tố đầu vào, theo I.Đ.Uđanxốp và F.I.Pơlianxki, vốn là
“một trong ba yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất (lao động, đất đai, vốn).
Vốn bao gồm các sản phẩm lâu bền được chế tạo để phục vụ sản xuất (tức là
máy móc, cơng cụ, thiết bị, nhà cửa, kho dự trữ thành phẩm hoặc bán thành
phẩm)” [22, tr.300].
Theo E.Wayne Nafziger, “vốn sẽ bao gồm bất cứ thứ gì đưa lại một
luồng thu nhập qua thời gian”, “Sự phát triển có thể coi như là một quá trình
khái qt của sự tích lũy vốn” [26, tr.460].
Theo “Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học, “Vốn là tiền của bỏ ra lúc
ban đầu, dùng trong sản xuất kinh doanh, nhằm mục tiêu sinh lợi” [23, tr.1126].
Tất cả những quan niệm trên đều đề cập tới khái niệm vốn với tư cách là
yếu tố quan trọng của đầu tư sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu thu lợi trong
7
tương lai. Khái niệm vốn được nghiên cứu trong mối quan hệ với các khái
niệm như tài sản, yếu tố sản xuất, tiền, phân phối thu nhập... Tuy nhiên chưa
có nghiên cứu nào luận giải rõ phương diện hình thành và vận động của vốn
với tư cách là quan hệ kinh tế tất yếu khách quan trong nền KTTT.
Để thực hiện bất cứ một quá trình sản xuất kinh doanh nào đó cần phải
có các nguồn lực kinh tế nhất định như tư liệu sản xuất và sức lao động với số
lượng, chất lượng và cơ cấu phù hợp. Bên cạnh hình thái hiện vật, trong nền
KTTT các yếu tố đó cịn có hình thái giá trị. Hình thái hiện vật và hình thái
giá trị của các yếu tố sản xuất có thể vận động tách rời nhau trong quá trình
tái sản xuất, trong đó sự thơng suốt của tái sản xuất về giá trị là tiền đề đảm
bảo cho tái sản xuất liên tục, ổn định về hiện vật. Từ đó, các nguồn lực kinh tế
được sử dụng làm tiền đề cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh thường
được quy thành những đại lượng giá trị nhất định dưới hình thái tiền tệ và
được gọi là vốn.
Như vậy, có thể hiểu Vốn là hình thái giá trị của các yếu tố sản xuất kinh
doanh, thể hiện thành một lượng tiền nhất định, đang tham gia hoặc sẵn sàng tham
gia vào quá trình tái sản xuất nhằm mục tiêu sinh lời của các chủ thể kinh tế.
Trong nền KTTT ngày nay, vốn tồn tại dưới nhiều hình thái như tài sản
tài chính, tài sản hữu hình, tài sản vơ hình... Sự vận động của vốn, như C.Mác
đã chỉ ra khi nghiên cứu về tuần hoàn và chu chuyển tư bản, được thực hiện
thơng qua sự chuyển hố liên tục của vốn từ hình thái này (tư bản tiền tệ, tư
bản sản xuất, tư bản hàng hóa) sang hình thái kế tiếp (tư bản sản xuất, tư bản
hàng hóa, tư bản tiền tệ) [10, tr.82-84].
Việc quy các nguồn lực kinh tế thành những đại lượng giá trị được thực
hiện thông qua các loại thị trường do sự quyết định của quan hệ sở hữu và
trao đổi đối với quan hệ phân phối thu nhập gây ra, bởi mỗi hình thức sở hữu
về các điều kiện sản xuất kinh doanh đều đòi hỏi phải thực hiện một sự phân
phối tương ứng đảm bảo lợi ích kinh tế của chủ thể sở hữu mà sự phân phối
8
đó trong điều kiện kinh tế thị trường phải được thực hiện dưới hình thái giá
trị. Cho nên, mặc dù cùng dựa trên sản xuất và trao đổi hàng hoá, nhưng trong
các chế độ xã hội với những hình thức sở hữu đặc trưng khác nhau về các
điều kiện sản xuất cũng tồn tại những quan hệ phân phối khác nhau, từ đó vốn
cũng có bản chất kinh tế xã hội khác nhau, thể hiện thông qua mục tiêu cuối
cùng mà việc sử dụng lượng vốn đó hướng tới.
Vốn với tư cách là khái niệm của nền KTTT có những đặc điểm chủ yếu:
Thứ nhất, bên cạnh hình thái hiện vật, vốn ln được biểu hiện dưới hình
thái giá trị thành những lượng tiền nhất định (có thể bằng tiền mặt hay tượng
trưng ngầm định).
Thứ hai, Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng không phải tất cả tiền đều
là vốn. Vốn chỉ bao gồm những lượng tiền dùng cho đầu tư hoặc kinh doanh
để có thu nhập trong tương lai, những lượng tiền được chi tiêu để phục vụ tiêu
dùng cá nhân của chủ thể không phải là vốn.
Thứ ba, Vốn là hàng hố đặc biệt: quyền sử dụng có thể tách khỏi quyền
sở hữu; giá trị sử dụng và giá trị không mất đi trong sử dụng mà ngược lại
được bảo tồn và thậm chí cịn tăng thêm; giá cả của vốn không phải được
quyết định bởi giá trị, mà là bởi giá trị sử dụng của nó. Vốn được lưu thông
trên loại thị trường đặc thù là thị trường vốn.
1.1.1.2. Nguồn vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nơng
thơn Việt Nam
Trong q trình hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của từng chủ thể
cá biệt trong nền KTTT có thể xuất hiện các trường hợp:
Thứ nhất: Chủ thể sản xuất kinh doanh có nguồn vốn tự có ở mức đủ
trang trải cho mọi nhu cầu chi tiêu. Tuy nhiên, đây là trường hợp đặc biệt, ít
có khả năng thực hiện mọi nơi, mọi lúc.
Thứ hai: Chủ thể sản xuất kinh doanh khơng có đủ nguồn vốn tự có để
trang trải các nhu cầu chi tiêu và đứng trước nguy cơ gián đoạn sản xuất quá
9
trình sản xuất cá biệt, tức là xuất hiện nhu cầu về nguồn vốn bổ sung để đảm
bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh có thể diễn ra bình thường không bị
rối loạn.
Thứ ba: Xuất hiện ở một số bộ phận các chủ thể những nguồn vốn nhàn
rỗi hoặc tạm thời nhàn rỗi mà nếu không được đưa vào sử dụng thì sẽ khơng
thể mang lại lợi cho các chủ thể đó, vì thế dẫn tới hình thành nguồn cung về
vốn cho vay.
Sự hình thành quan hệ cung cầu về vốn cho vay là tất yếu khách quan
trong nền KTTT. Quan hệ đó ngày càng có xu hướng phát triển mở rộng
mạnh mẽ dưới áp lực thực hiện các quá trình tái sản xuất ở từng chủ thể sản
xuất kinh doanh cá biệt và phương thức để giải quyết mâu thuẫn đó. Để vừa
đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của các chủ thể đang thiếu vốn vừa
mang lại lợi ích cho các chủ thể sở hữu các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời
nhàn rỗi, tín dụng đã xuất hiện và phát triển không ngừng và cùng với chủ thể
kinh tế mới là ngân hàng - chủ thể kinh tế chuyên doanh trong lĩnh vực tiền tệ,
có vai trò trung gian giữa các chủ thể sở hữu các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời
nhàn rỗi trong nền kinh tế và các chủ thể cần sử dụng các nguồn vốn đó.
Theo sự phát triển của KTTT, sự tham gia điều tiết kinh tế của Nhà nước
trong lĩnh vực ngân hàng đã dẫn tới sự hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp
tại các quốc gia, gồm Ngân hàng Trung ương và các NHTM. Từ đó, chức
năng huy động và cung cấp vốn trực tiếp cho các chủ thể kinh tế được thực
hiện chủ yếu bởi các NHTM.
Trong nền kinh tế nước ta ngày nay, các NHTM xét theo hình thức sở
hữu bao gồm: NHTM Nhà nước; NHTM cổ phần; NHTM liên doanh; NHTM
100% vốn nước ngoài. NHTM Nhà nước là NHTM trong đó Nhà nước sở hữu
trên 50% vốn điều lệ. NHTM Nhà nước bao gồm NHTM do Nhà nước sở hữu
100% vốn điều lệ và NHTM cổ phần do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều
lệ [9, tr.175].
10
Ngân hàng No&PTNT Việt Nam là một thành viên trong hệ thống
NHTM Nhà nước, có vai trị chủ đạo và chủ lực trong phát triển kinh tế Việt
Nam, đặc biệt là đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Cũng như các
NHTM khác, để hoạt động và thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình,
Ngân hàng No&PTNT Việt Nam cần phải có vốn. Xét theo nguồn gốc hình
thành, các nguồn vốn mà Ngân hàng No&PTNT Việt Nam sử dụng bao gồm:
Một là, vốn của ngân hàng là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân hàng,
bao gồm vốn tự có và vốn coi như tự có. Vốn tự có của ngân hàng gồm vốn
điều lệ và quỹ dự trữ. Vốn điều lệ là vốn do các cổ đơng đóng góp và được ghi
vào trong điều lệ hoạt động của ngân hàng và theo quy định tối thiểu phải
bằng vốn pháp định. Theo Nghị định của Chính phủ số 141/2006/NĐ-CP
ngày 22/11/2006 mức vốn pháp định của các NHTM phải đạt mức tối thiểu là
3.000 tỷ đồng (xem phụ lục 2). Đối với Ngân hàng No&PTNT Việt Nam vốn
điều lệ do ngân sách cấp, nghĩa là Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ, hiện
nay vốn điều lệ của Agribank là 19.609,264 tỷ [8].
Quỹ dự trữ được hình thành từ hai quỹ là Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ,
có mục đích tăng cường vốn tự có ban đầu; và Quỹ dự trữ đặc biệt để dự
phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng
nhằm bảo tồn vốn điều lệ.
Vốn tự có thường chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân
hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi mới thành lập một ngân hàng.
Do tích chất thường xuyên ổn định của vốn tự có, ngân hàng có thể chủ động
sử dụng vào các mục đích khác nhau như; trang bị cơ sở vật chất, tái tạo tài
sản cố định (văn phòng, kho tàng, trang thiết bị...) phục vụ cho bản thân ngân
hàng; cho vay và đặc biệt là tham gia đầu tư, góp vốn liên doanh. Mặt khác,
với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo gây lòng tin
với khách hàng, duy trì khả năng thanh tốn trong trường hợp ngân hàng gặp
nhiều thua lỗ. Nó cịn là một trong những căn cứ quyết định đến quy mô và
11
khối lượng vốn huy động của ngân hàng. Như vậy, quy mơ và sự tăng trưởng
của vốn tự có sẽ quyết định đến năng lực và ưu thế phát triển của ngân hàng. Về
bản chất, vốn tự có của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam là một bộ phận của tài
sản nợ, mà mỗi thành phần của nó gắn liền với một loại nghiệp vụ nhất định.
Vốn coi như tự có bao gồm các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của ngân hàng
như phần lợi nhuận chưa phân bổ hoặc các quỹ nghiệp vụ khác như: quỹ phát
triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng, quỹ phúc lợi, khen thưởng, khấu hao...
Hai là, vốn huy động được hình thành từ tài sản dưới hình thái tiền thuộc
các chủ sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà khơng có
quyền sở hữu và có trách nhiệm hồn trả cả gốc và lãi đến kỳ hạn (đối với
tiền gửi có kỳ hạn) hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn để chi trả (đối với tiền
gửi khơng có kỳ hạn). Vốn huy động đóng vai trị rất quan trọng đối với mọi
hoạt động kinh doanh của NHNo. Thực chất, nguồn vốn này là một bộ phận
thu nhập quốc dân tạm thời trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng,
mà người chủ sở hữu chúng gửi vào ngân hàng với các mục đích khác nhau.
Hay nói cách khác, họ có quyền sở hữu, song quyền sử dụng vốn tiền tệ
được chuyển nhượng cho ngân hàng, để rồi ngân hàng phải trả lại cho họ
một khoản thu nhập. Và như vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và
phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh q trình ln
chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng
thời, chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại và hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng.
Bà là, vốn đi vay là khoản vốn mà NHTM vay để bổ sung vào vốn hoạt
động của mình khi ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ
hoạt động vốn, hay nói cách khác, ngân hàng tạm thời thiếu vốn khả dụng.
Vốn đi vay thể hiện quan hệ vay mượn giữa NHTM với Ngân hàng Nhà nước,
hoặc vay vốn giữa NHTM với nhau hay vay các tổ chức tài chính trong và
ngồi nước. Tùy theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay
12
NHTM với Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức: vốn vay ngắn hạn bổ sung,
vốn vay để thanh toán và vay để tái cấp vốn.
Bốn là, các nguồn vốn khác như vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài
khoản tiền gửi séc bảo chi, séc định mức và các khoản tiền phong tỏa do ngân
hàng chấp nhận hối phiếu thương mại. Các khoản tiền tạm thời được trích
khỏi tài khoản này nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng, nên được coi là tiền
nhàn rỗi. Thông qua nghiệp vụ đại lý, NHNo cũng thu hút được một lượng
vốn đáng kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho tổ
chức tín dụng khác, nhận vận chuyển cho một khách hàng hoặc một dự án đầu
tư. Do việc phát tiền được thực hiện theo tiến độ cơng việc, nên ngân hàng
cịn có thể sử dụng tạm thời tồn khoản đó vào kinh doanh.
Như vậy, có thể thấy vốn mà Ngân hàng No&PTNT Việt Nam sử dụng
được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó vốn huy động là
nguồn vốn chủ yếu đảm bảo cho ngân hàng hoạt động kinh doanh. Bản chất
vốn huy động là vốn cho vay, là những nguồn vốn nhàn rỗi hoặc tạm thời
nhàn rỗi được các chủ thể sở hữu chúng chuyển nhượng quyền sử dụng cho
Ngân hàng No&PTNT Việt Nam sử dụng trong thời gian và với những điều
kiện nhất định, do đó có những đặc điểm chung của vốn cho vay là hàng
hóa đặc biệt mà quyền sử dụng tách rời quyền sở hữu, giá trị sử dụng và
giá trị được bảo tồn và tăng thêm sau sử dụng, giá cả được quyết định bởi
giá trị sử dụng. Khi còn trong tay các chủ thể sở hữu, bản chất của các
nguồn vốn này phụ thuộc vào bản chất kinh tế - xã hội của từng chủ thể sở
hữu chúng, song khi đã được tập trung lại trong tay Ngân hàng No&PTNT
Việt Nam thì bản chất của nguồn vốn này lại được quyết định bởi bản chất
đặc thù của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam với tư cách là một bộ phận
của kinh tế nhà nước trong nền KTTT XHCN và có vai trị đảm bảo thực
hiện các chức năng nhiệm vụ của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam trong
từng thời kỳ phát triển.
13
1.1.2. Các hình thức và vai trị của huy động vốn tại các chi nhánh
của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
Huy động vốn của ngân hàng là hoạt động thu hút các nguồn tiền vốn
tiền tệ nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi từ các chủ thể nhằm đảm bảo hoạt động
kinh doanh của ngân hàng để cung cấp vốn và các dịch vụ ngân hàng cho các
chủ thể có nhu cầu trong nền kinh tế. Huy động vốn là hoạt động gắn liền với
quá trình phát triển của các NHTM. Huy động vốn của NHTM nói chung và
của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam nói riêng được thực hiện chủ yếu bằng
cách nhận tiền gửi của các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế và trả lợi tức
cho các chủ thể sở hữu các nguồn vốn. Nguồn vốn huy động được ngân hàng
cân đối để cho vay nền kinh tế, thực hiện các hoạt động kinh doanh theo luật
định và thực hiện các dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng.
1.1.2.1. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam tại các chi nhánh
Hoạt động huy động vốn được Ngân hàng No&PTNT Việt Nam coi là
nguồn dinh dưỡng rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Ngày nay hoạt động huy động vốn Ngân hàng No&PTNT Việt Nam đã chi tiết
hóa thành 32 thể thức cụ thể, được phân thành 4 nhóm dịch vụ như sau:
Thứ nhất, tiền gửi, bao gồm các dịch vụ:
Một là, Tiền gửi không kỳ hạn: đây là loại tiền gửi mà khách hàng được
hưởng các tiện ích như: sử dụng tài khoản để thực hiện thanh toán qua ngân
hàng và hưởng các dịch vụ thông tin tài khoản qua Phone banking, Internet
banking…loại sản phẩm tiền gửi này có đặc điểm: đối với đối tượng gửi tiền
là các cơng dân Việt Nam có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi
dân sự; các công dân nước ngồi có năng lực pháp luật dân sự và năng lực
hành vi dân sự theo quy định của pháp luật nước mà người đó là cơng dân.
Đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn
chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật, thì mọi thủ tục mở
14
và sử dụng tài khoản tiền gửi phải thực hiện thông qua người giám hộ, người
đại diện theo pháp luật. Đối với tổ chức được thành lập và hoạt động theo quy
định của pháp luật Việt Nam, tổ chức nước ngoài được thành lập và hoạt động
theo quy định của pháp luật nước mà tổ chức đó được thành lập.
Mỗi khách hàng có thể mở một hay nhiều tài khoản tiền gửi ở một hay
nhiều nơi, có thể là nơi cư trú, nơi trụ sở chính hay nơi khác tùy theo nhu cầu
sử dụng, trừ trường hợp có quy định khác. Loại tiền gửi gồm bằng đồng Việt
Nam và các loại ngoại tệ khác như: USD, EUR [20].
Hai là, tiền gửi có kỳ hạn bao gồm tiền gửi có kỳ hạn trả lãi sau tồn bộ và
tiền gửi có kỳ hạn trả lãi sau định kỳ. Đối với hai loại sản phẩm này khách hàng
được hưởng các tiện ích: khách hàng có thể rút vốn trước hạn; số dư trên tài
khoản tiền gửi được phép cầm cố vay vốn, hoặc bảo lãnh cho người thứ ba vay
vốn tại bất kỳ chi nhánh nào thuộc Ngân hàng No&PTNT Việt Nam và các tổ
chức tín dụng khác; dùng để xác nhận khả năng tài chính cho khách hàng hoặc
thân nhân đi du lịch, học tập…ở nước ngoài và khách hàng được hưởng các dịch
vụ thông tin tài khoản qua Phone Banking, Internet Banking. Đối tượng gửi tiền
và loại tiền gửi được áp dụng như đối với loại tiền gửi không kỳ hạn nêu trên.
Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng phần lớn
tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy, các ngân hàng ln tìm cách đa dạng
hoá loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn khác nhau với các mức
lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng.
Ba là, tiền gửi lãi suất bậc thang theo thời gian gửi. Sản phẩm tiền gửi
này chỉ được thực hiện khi có sự phê duyệt của Tổng Giám đốc Ngân hàng
No&PTNT Việt Nam trong từng trường hợp khách hàng cụ thể theo tờ trình
đề nghị của chi nhánh. Khách hàng được hưởng các tiện ích, thời gian thực
gửi càng dài lãi suất càng cao, kỳ hạn tính theo số tháng, tối đa 36 tháng,
trường hợp đến hạn 36 tháng mà khách hàng chưa đóng tài khoản, ngân hàng
sẽ tự động tính, nhập lãi vào gốc và gia hạn thêm 1 kỳ hạn mới. Lãi suất và
15
các bậc thang của kỳ hạn mới được áp dụng theo quy định hiện hành (trừ
trường hợp trong hợp đồng thỏa thuận hoặc giấy mở tài khoản tiền gửi có quy
định khác) khách hàng có thể rút gốc và lãi tương ứng nhiều lần; được sử
dụng tài khoản để chuyển khoản thanh toán và hưởng các dịch vụ khác như đã
nêu trên. Các bậc lãi suất được áp dụng cụ thể như sau: [20]
Bậc 1: Kỳ hạn < 3 tháng
Bậc 2: Kỳ hạn 3 - 6 tháng
Bậc 3: Kỳ hạn 6 - 9 tháng
Thứ hai, tiền gửi tiết kiệm:
Bậc 4: Kỳ hạn 9 - 12 tháng
Bậc 5: Kỳ hạn 12 - 24 tháng
Bậc 6: Kỳ hạn > 24 tháng
Tiết kiệm là hình thức huy động truyền thống được các NHTM áp dụng
từ lâu. Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của cá nhân người lao động
chưa sử dụng vào tiêu dùng. Họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích luỹ tiền
một cách an tồn và hưởng lãi từ số tiền đó. Tiền gửi tiết kiệm là một dạng
đặc biệt để tích luỹ tiền tệ trong tiêu dùng cá nhân. Thực tế các chi nhánh của
hệ thống Ngân hàng No&PTNT Việt Nam huy động vốn tiền gửi tiết kiệm
dưới hai loại hình: loại khơng kỳ hạn và có kỳ hạn như sau:
Một là, đối với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: đây là khoản tiền gửi tiền
có thể rút tiền tùy theo u cầu mà khơng cần báo trước với bất kỳ ngày làm
việc nào của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam. Với thể thức tiền gửi tiết kiệm
này khách hàng có được các tiện ích như: chuyển khoản thanh tốn tiền vay
của chính chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm tại Ngân hàng No&PTNT Việt Nam;
hoặc chuyển khoản sang tài khoản khác do chính chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm
là chủ tài khoản tại NHNo; được sử dụng tài khoản tiền gửi tiết kiệm bằng
đồng Việt Nam để chuyển khoản thanh toán với ngân hàng khác; khách hàng
có thể giao dịch tại các chi nhánh thuộc NHNo theo quy định gửi nhiều nơi,
rút nhiều nơi và cịn được hưởng các dịch vụ thơng tin tài khoản nêu trên. Đối
tượng gửi tiền là các cá nhân người trong nước và nước ngoài, các loại tiền
gửi… như đã nêu trên [21].
16
Hai là, đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là khoản tiền gửi có sự thoả
thuận về thời hạn gửi, có mức lãi suất cao hơn loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ
hạn. Với thể thức huy động này, Ngân hàng No&PTNT Việt Nam đưa ra
nhiều loại, bao gồm tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn (trả lãi sau tồn bộ; trả lãi sau
định kỳ; có kỳ hạn trả lãi trước tồn bộ; có kỳ hạn trả lãi trước định kỳ; tiền
gửi tiết kiệm có kỳ hạn hưởng lãi bậc thang theo thời gian gửi hay hưởng lãi
bậc thang theo lũy tiến số dư tiền gửi; tiết kiệm gửi góp hằng tháng hay khơng
theo định kỳ; tiết kiệm bằng vàng; tiết kiệm bằng VNĐ được bảo đảm theo
giá USD hay được bảo đảm giá trị theo giá vàng hay bảo đảm theo giá vàng;
tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn lãi suất tự điều chỉnh tăng theo lãi suất cơ bản của
Ngân hàng Nhà nước; tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn rút gốc linh hoạt; tiết kiệm
học đường). Đối với mỗi thể thức, khi khách hàng tham gia, ngồi việc được
hưởng các tiện ích chung, cịn có những tiện ích riêng.
Thứ ba, huy động vốn qua phát hành các loại giấy tờ có giá:
Bao gồm các loại giấy tờ có giá ngắn và dài hạn bằng đồng Việt Nam và
ngoại tệ. Giấy tờ có giá là các giấy chứng nhận của Ngân hàng No&PTNT
Việt Nam phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một
khoản tiền trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện
cam kết khác giữa Ngân hàng No&PTNT Việt Nam và người mua.
Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới một năm, giấy
tờ có giá ngắn hạn gồm có: kỳ phiếu trả lãi trước; kỳ phiếu trả lãi sau tồn bộ;
tín phiếu trả lãi trước; tín phiếu trả lãi sau toàn bộ; các chứng chỉ tiền gửi và
giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Giấy tờ có giá dài hạn là giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở lên kể
từ khi phát hành đến khi hết hạn, bao gồm: các loại trái phiếu trả lãi trước, sau
và trả lãi định kỳ; các chứng chỉ tiền gửi và giấy tờ có giá dài hạn khác. Đây
chính là các giấy chứng nhận của ngân hàng phát hành để huy động vốn trong
đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời gian nhất định,
17
điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa Ngân hàng No&PTNT
Việt Nam và người mua.
Thứ tư, các hình thức huy động vốn khác:
Ngồi các hình thức huy động vốn nêu trên, các chi nhánh loại 1, loại 2
cịn được huy động vốn thơng qua hình thức đi vay từ các tổ chức tín dụng
khác khi được Tổng Giám đốc Ngân hàng No&PTNT Việt Nam cho phép. Đó
là khoản vay thơng thường mà các NHTM vay lẫn nhau trên thị trường tiền tệ.
1.1.2.2. Vai trò huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam
Thứ nhất, đảm bảo nguồn vốn để thực hiện các hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Huy động vốn có vai trị đặc biệt quan trọng đối với hoạt
động kinh doanh của ngân hàng, tạo nguồn vốn để ngân hàng mở rộng công
tác cho vay, cung cấp vốn cho nền kinh tế và không ngừng nâng cao hiệu quả
kinh doanh. Đối với NHTM nói chung và Ngân hàng No&PTNT Việt Nam
nói riêng vốn tiền tệ là ngun liệu chính không thể thay thế cho hoạt động
kinh doanh. Tuy nhiên, nguồn vốn tự có khơng thể đủ để đảm bảo cho ngân
hàng thực hiện được chức năng cung cấp vốn cho nền kinh tế và hoạt động
hiệu quả, do đó tình hình huy động vốn có vai trị quyết định tới hiệu quả hoạt
động của ngân hàng.
Trong những năm qua, nhờ đẩy mạnh huy động vốn, nhất là thông qua
các sản phẩm tiền gửi tiết kiệm của các chi nhánh, nguồn vốn huy động của
Ngân hàng No&PTNT Việt Nam tăng trưởng ổn định từ 20% đến 26%/năm,
cụ thể: năm 2003 nguồn vốn đạt 129.858 tỷ đồng; đến năm 2004 đạt 158.629
tỷ đồng, tốc độ tăng 22% so năm 2003; đến năm 2005 đạt 190.657 tỷ đồng,
tốc độ tăng 20% so năm 2004; đến năm 2006 đạt 233.900 tỷ đồng, tốc độ tăng
23% so năm 2005; đến năm 2007 đạt 295.062 tỷ đồng, tốc độ tăng 26% so
năm 2006; đến năm 2008 đạt 363.000 tỷ đồng, tốc độ tăng 23% so năm 2007;
đến năm 2009 đạt 434.331 tỷ đồng, tốc độ tăng 19,7% so năm 2008. Đến cuối
18
tháng 9/2010: với tổng nguồn vốn huy động đạt được là: 470.286 tỷ đồng,
tăng so đầu năm 35.955 tỷ đồng, tốc động tăng 8,28%. Trong đó nguồn huy
động từ dân cư đạt: 245.811 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 53%/tổng nguồn vốn và
chiếm 59% nguồn tiền gửi của khách hàng.
Với nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi huy động được, hệ thống Ngân hàng
No&PTNT Việt Nam đảm bảo đáp ứng cơ bản các nhu cầu về vốn kinh
doanh, từ đó góp phần tạo thuận lợi cho quá trình tái sản xuất của nhiều chủ
thể khác, tăng thu nhập, tăng tích lũy cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho việc
thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung mà Đảng và Nhà
nước đã đặt ra qua từng thời kỳ, đặc biệt là thực hiện mục tiêu chiến lược:
CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn.
Thứ hai, nguồn vốn huy động giúp ngân hàng chủ động trong kinh
doanh, quyết định năng lực cạnh tranh và quyết định sự tồn tại, phát triển
của ngân hàng. Nếu ngân hàng có lượng vốn lớn, sẽ hoàn toàn chủ động
trong hoạt động của mình, có thể chủ động mở rộng quan hệ tín dụng với các
thành phần kinh tế cả về qui mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian
và thời hạn cho vay, thậm chí trong việc điều chỉnh lãi suất cho vay để thu hút
khách hàng. Mặt khác, uy tín của ngân hàng cịn thể hiện ở khả năng cho vay
và đầu tư của ngân hàng, giúp cho ngân hàng có đủ khả năng tài chính để đảm
bảo cho khả năng thanh toán của ngân hàng đối với khách hàng; hoặc để kinh
doanh đa năng trên thị trường, góp phần thu hút được nhiều khách hàng, mở
rộng thị phần, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng… từ đó sẽ nâng
cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Như vậy, vốn huy động của ngân
hàng góp phần khơng nhỏ trong việc nâng cao vị thế của mình trên thị trường.
Để có thể chiến thắng trong cạnh tranh thì ngồi việc phải có chiến lược
cạnh tranh hợp lý thì yếu tố vế khả năng tài chính ln giữ vai trò quyết định
cuối cùng. Thực tế đã chứng minh: quy mơ, trình độ nghiệp vụ, phương tiện
kỹ thuật hiện đại của ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Thu
19
hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng
nhanh chóng và ngân hàng có nhiều thuận lợi trong kinh doanh, đây là điều
kiện bổ sung thêm vốn tự có của ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất và quy
mô hoạt động của ngân hàng trên mọi lĩnh vực nhằm đáp ứng khả năng cạnh
tranh trên thương trường.
Đối với Ngân hàng No&PTNT Việt Nam, những thành tựu trong huy
động vốn đã tạo thuận lợi không ngừng mở rộng mạng lưới hoạt động. Ngày
nay Ngân hàng No&PTNT Việt Nam có 03 Văn phịng đại diện (Miền Nam,
Miền Trung, Campuchia); 03 đơn vị sự nghiệp (Trung tâm thẻ, Trung tâm
công nghệ thông tin, Trung tâm đào tạo); 02 trung tâm (Trung tâm thanh tốn,
Trung tâm phịng ngừa và xử lý rủi ro); 08 công ty trực thuộc; 01 Sở giao
dịch; 154 chi nhánh trực thuộc Ngân hàng No&PTNT Việt Nam (72 chi
nhánh loại 1, 82 chi nhánh loại 2); 779 chi nhánh loại 3 (chi nhánh hoạt động
hạn chế phụ thuộc chi nhánh trực thuộc Ngân hàng No&PTNT Việt Nam);
1.351 Phịng giao dịch [13]. Nhờ đó, Ngân hàng No&PTNT Việt Nam có điều
kiện thực hiện kinh doanh đa năng, đang dần phát triển thành tập đoàn tài
chính đa ngành, đa lĩnh vực trên cơ sở 3 trụ cột Ngân hàng - Chứng khoán Bảo hiểm. Theo đó, tồn hệ thống xác định một trong những mục tiêu lớn
phải ưu tiên, đó là: tiếp tục giữ vai trị chủ đạo, chủ lực trên thị trường tài
chính nơng thôn, luôn mãi là bạn đồng hành thủy chung và tin cậy của trên 10
triệu hộ gia đình.
Thứ ba, góp phần chuyển tải một cách tối ưu vốn tích luỹ thành vốn đầu
tư cuối cùng cho nền kinh tế. Tích luỹ và tiêu dùng đều có nguồn gốc từ thu
nhập. Ngồi yếu tố quy mơ của thu nhập, tiêu dùng trước tiên phụ thuộc vào
nhu cầu cuộc sống và kế đến lợi ích của tích luỹ. Mục đích cuối cùng của tích
luỹ là tiêu dùng cho tương lai. Tích luỹ của cơng chúng có thể tồn tại dưới các
hoạt động của tài sản nợ của NHTM. Đó là các khoản tiết kiệm hoặc các
khoản đầu tư vào ngân hàng. Một khi hiệu quả hoạt động của ngân hàng cao,
20
lãi suất huy động thỏa đáng thì tích luỹ của cơng chúng qua ngân hàng sẽ gia
tăng do lợi ích của tích luỹ so với lợi ích của tiêu dùng. Bên cạnh yếu tố lãi
suất có tính chất kích thích, chất lượng hoạt động của ngân hàng: thanh toán
chi trả nhanh, đảm bảo thuận tiện an tồn thì khơng những tích luỹ của cơng
chúng tập trung vào ngân hàng mà các khoản vốn này là nguồn vốn giúp cho
ngân hàng thực hiện các khoản mục đầu ra bên tài sản có tạo nên đầu tư cho
kinh tế.
Ngân hàng trở thành cầu nối trực tiếp giữa người thừa vốn và người thiếu
vốn trên thị trường. Ngân hàng chủ động huy động vốn tích luỹ và vốn chi
tiêu có tính chất nhàn rỗi trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế có nhu cầu vốn
đầu tư, hiệu quả các vốn đầu ra cao và an tồn thì ngân hàng chủ động tăng
huy động vốn và ngược lại. Nói một cách khác, ngân hàng chủ động điều tiết
và phân phối vốn đầu tư trong nền kinh tế. Ngân hàng sẽ đầu tư vốn vào
những ngành nghề phát triển và thu hút vốn đầu tư đối với những ngành nghề
suy thoái.
Trong các năm qua, với nguồn vốn huy động được nêu trên, toàn hệ
thống NHNo đã thực hiện tốt vai trò chuyển tải một cách tối ưu nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi của dân cư và các tổ chức thành vốn đầu tư cho nền kinh tế
rất lớn, cụ thể: đến cuối tháng 9/2010, tổng dư nợ cho vay và đầu tư vốn đạt:
431.060 tỷ đồng; trong đó dư nợ cho vay nền kinh tế đạt: 391.580 tỷ đồng.
Với những thành tựu và kết quả tích tụ trong thời gian qua, thế và lực của
Ngân hàng No&PTNT Việt Nam đã được nâng lên một tầm cao mới. Ngân
hàng No&PTNT Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò chủ đạo, chủ lực trên
thị trường tài chính trong nước; đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển
kinh tế, tăng cường khối đồn kết cơng - nơng, củng cố hệ thống chính trị; có
ý thức và trách nhiệm cao trong việc chống lạm phát, thực thi chính sách tiền
tệ quốc gia. Ngân hàng No&PTNT Việt Nam chủ động tham gia đầu tư các
chương trình lớn của Chính phủ như: chương trình nhập khẩu phân bón;
21
chương trình đầu tư ngành thuỷ sản; chương trình sống chung với lũ; chương
trình khắc phục hậu quả lũ lụt; các dự án trọng điểm quốc gia như Nhà máy điện
ng bí, Khí đốt nam Cơn sơn, Thuỷ điện Sơn la, Lọc dầu Dung quất, Thuỷ
điện Sê san, ... với số vốn cho vay lên tới hàng chục ngàn tỷ đồng.
1.2. YÊU CẦU VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
1.2.1. Những yêu cầu cơ bản đặt ra đối với huy động vốn của Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
Để đảm bảo kinh doanh hiệu quả ngân hàng phải đặc biệt chú trọng quan
tâm công tác huy động vốn. Những yêu cầu cơ bản đặt ra đối với huy động
vốn của Ngân hàng No&PTNT hiện nay là:
1.2.1.1. Khai thác tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi,
phân tán từ mọi tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế trong xã hội
Một là, tìm kiếm nguồn vốn rẻ. Chi phí trả lãi được coi là chi phí lớn
nhất trong các chi phí của ngân hàng, trong đó lớn nhất là chi phí trả lãi đầu
vào cho tiền gửi có kỳ hạn và trả lãi trái phiếu và kỳ phiếu... Định kỳ ngân
hàng lập biểu về số dư và lãi suất tương ứng để xác định vốn huy động bình
quân và tính tốn chi phí trả lãi. Thơng thường có ba cách trả lãi: trả lãi trước,
trả lãi khi đến hạn và trả lãi nhiều lần theo định kỳ. Mỗi cách trả lãi khác nhau
sẽ ảnh hưởng đến chi phí khác nhau. Quản lý chi phí trả lãi là hoạt động
thường xuyên và quan trọng của các ngân hàng. Mỗi sự thay đổi về lãi suất
hay cơ cấu nguồn vốn đều có thể làm thay đổi chi phí trả lãi, từ đó ảnh hưởng
đến thu nhập của ngân hàng. Việc tính chi phí của từng nguồn vốn cụ thể cho
phép các nhà quản lý xác định nguồn vốn nào rẻ hơn, có nên thay đổi lãi suất
hay khơng, thu nhập từ tài sản tăng thêm có đủ bù đắp chi phí của nguồn vốn
tăng thêm hay không. Về nguyên tắc, những nguồn vốn có thời hạn càng ngắn
và tính ổn định thấp thì chi phí nguồn vốn cũng phải thấp tương ứng. Tính chi
phí một cách chính xác cho phép ngân hàng chủ động lựa chọn những nguồn
22
vốn khác nhau và đảm bảo doanh thu đủ bù đắp chi phí và đem lại tỷ lệ thu
nhập mong đợi.
Hai là, tạo ra nguồn vốn ổn định và cơ cấu phù hợp: cơ cấu vốn cần đa
dạng thể hiện ở việc duy trì một tỷ lệ giữa vốn huy động ngắn hạn và dài hạn,
giữa vốn nội tệ và ngoại tệ. Một ngân hàng có chất lượng huy động vốn cao sẽ
có nguồn vốn dồi dào và cơ cấu vốn cân đối, tránh cho ngân hàng rơi vào tình
trạng căng thẳng về tài chính trong điều kiện mơi trường kinh doanh thường
xuyên thay đổi. Hơn nữa ngân hàng phải dự đoán xu hướng biến đổi cơ cấu
nguồn vốn huy động. Yếu tố này cũng rất quan trọng trong việc xây dựng kế
hoạch sử dụng vốn của ngân hàng. Mỗi loại nguồn vốn có điểm mạnh, điểm
yếu riêng biệt trong việc huy động và khai thác. Do đó sự biến động về cơ cấu
vốn sẽ kéo theo sự biến đổi trong cơ cấu cho vay, đầu tư, bảo lãnh… và kéo
theo sự thay đổi lợi nhuận, rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Sự biến đổi cơ
cấu vốn huy động phụ thuộc một phần vào kế hoạch điều chỉnh của ngân hàng
và những nhân tố bên ngồi ngân hàng địi hỏi ngân hàng phải thường xuyên
nghiên cứu và tiếp cận thị trường.
Ba là, xây dựng qui mô và sự tăng trưởng nguồn vốn ổn định: quy mơ
vốn huy động có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng.
Ngân hàng muốn mở rộng hoạt động cần có quy mơ vốn phù hợp, trong đó
vốn huy động là một bộ phận quan trọng. Khơng thể nói đến chất lượng huy
động vốn tốt nếu việc huy động không đáp ứng được nhu cầu về khối lượng
vốn kinh doanh. Khối lượng vốn phải đạt tới qui mô nhất định theo kế hoạch
huy động của ngân hàng. Để thực hiện tốt vấn đề này cần kết hợp hài hoà các
yếu tố khác như lãi suất, chính sách Marketing khách hàng, các hình thức huy
động vốn…
Tuy nhiên khơng phải cứ có nguồn vốn lớn đã là tốt, nó cần phải phù hợp
với qui mô hoạt động của ngân hàng, mức vốn tự có, khả năng cho vay và đầu
tư của ngân hàng… Hơn nữa việc mở rộng hoạt động chỉ thực sự an toàn khi
23
nguồn vốn huy động ln có tốc độ tăng trưởng ổn định. Nếu qui mô vốn hiện
tại lớn nhưng ngân hàng khơng kiểm sốt, khơng dự đốn được xu hướng của
các dòng tiền gửi vào và rút ra trong giai đoạn tiếp theo thì sẽ rất khó khăn
trong việc cho vay và đầu tư và mất đi sự chủ động của mình.
Bốn là, điều hành tốt nguồn vốn phục vụ kinh doanh: trong hoạt động
ngân hàng thường xuyên xảy ra tình trạng khơng cân đối về vốn giữa các chi
nhánh trong cùng hệ thống, giữa các ngân hàng. Nếu có cơng tác quản lý huy
động vốn hợp lý thì ngân hàng sẽ linh hoạt hơn trong việc giải quyết tình
trạng thừa thiếu tạm thời này. Một số biện pháp thường sử dụng như điều
chuyển vốn giữa các chi nhánh (trong trường hợp mất cân đối nội bộ), vay các
ngân hàng khác, vay Ngân hàng Trung ương… Chất lượng huy động ở đây
thể hiện ở việc đưa ra quyết định lựa chọn đúng đắn, có lợi nhất đối với ngân
hàng, đảm bảo sự chủ động trong kinh doanh.
1.2.1.2. Không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong huy động vốn
Trong nền KTTT cạnh tranh là hiện tượng phổ biến và khách quan.
Ngành ngân hàng là một trong những ngành có mức độ cạnh tranh cao và
ngày càng phức tạp. Ở nước ta, kể từ năm 1990 đến nay hệ thống ngân hàng 2
cấp được thiết lập, hàng loạt các NHTM cổ phần, các ngân hàng liên doanh, các
chi nhánh ngân hàng nước ngoài lần lượt ra đời. Đến cuối năm 2008, thị trường
Việt Nam có 4 NHTM Nhà nước, 01 ngân hàng chính sách, 01 ngân hàng phát
triển, 06 ngân hàng liên doanh, 39 NHTM cổ phần, 46 chi nhánh ngân hàng
nước ngồi, 10 cơng ty tài chính, 13 cơng ty cho thuê tài chính, 988 quỹ tín dụng
nhân dân cơ sở. Chính sự xuất hiện của các loại hình tổ chức tín dụng này đã làm
cho “thị trường ngân hàng” sôi động hẳn lên và lúc này các khách hàng đã thực
sự có quyền lựa chọn cho mình một ngân hàng phục vụ tốt nhất.
Trong điều kiện hội nhập, chỉ ngân hàng nào tạo được sự thoả mãn của
khách hàng, chỉ ngân hàng nào có được một thương hiệu mạnh mới có khả
24
năng tồn tại trong môi trường cạnh tranh khốc liệt ngày nay. Do đó, cũng như
các NHTM khác, Ngân hàng No&PTNT Việt Nam phải không ngừng nâng
cao sức cạnh tranh của mình bằng cách khơng những củng cố hoạt động tín
dụng, mà cịn phát triển mở rộng các dịch vụ ngân hàng có tính tiện ích cao
đối với mọi đối tượng khách hàng trên cơ sở áp dụng khoa học cơng nghệ
hiện đại vào q trình kinh doanh, trong đó có cơng tác huy động vốn.
Khi thành lập, Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam (ngày nay là
Ngân hàng No&PTNT Việt Nam) phải đối mặt với mn vàn khó khăn tưởng
chừng không vượt qua nổi. Trong tổng số trên 36.000 cán bộ lúc đó chỉ có
10% trình độ đại học, cao đẳng còn lại là trung cấp, sơ cấp hoặc chưa được
đào tạo. Tổng tài sản chưa tới 1.500 tỷ đồng. Tổng nguồn vốn 1.056 tỷ đồng,
trong đó vốn huy động chỉ chiếm 42% còn lại 58% phải vay từ Ngân hàng Nhà
nước. Tổng dư nợ 1.126 tỷ đồng, trong đó 93% là ngắn hạn; tỷ lệ nợ xấu trên
10%. Khách hàng là các doanh nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã phần lớn là
làm ăn thua lỗ, lao động thiếu việc làm, nguy cơ phá sản luôn rình rập.
Cho đến nay, bằng những giải pháp mang tính đột phá và cách làm mới,
Ngân hàng No&PTNT Việt Nam thực sự khởi sắc. Đến cuối năm 2007, tổng
tài sản đạt đạt 325.802 tỷ đồng tương đương với 20 tỷ USD gấp gần 220 lần
so với ngày đầu thành lập. Tổng dư nợ và đầu tư nền kinh tế đạt 281.000 tỷ
đồng, trong đó: cho vay nơng nghiệp, nơng thơn chiếm trên 70% với trên 10
triệu hộ gia đình; cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm trên 36% với gần 3
vạn doanh nghiệp dư nợ. Tổng nguồn vốn 295.048 tỷ đồng và gần như hoàn
toàn là vốn huy động. Ngân hàng No&PTNT Việt Nam vinh dự được Chương
trình Phát triển liên hợp quốc (UNDP) xếp số 1 trong 200 doanh nghiệp lớn
nhất đang hoạt động tại Việt Nam.
Đến cuối tháng 9/2010: với tổng nguồn vốn huy động đạt được là:
470.286 tỷ đồng, trong đó nguồn huy động từ dân cư đạt: 245.811 tỷ đồng,
chiếm tỷ trọng 53%/tổng nguồn vốn và chiếm 59% nguồn tiền gửi của khách
25
hàng. Tổng dư nợ cho vay và đầu tư vốn đạt: 431.060 tỷ đồng; dư nợ cho vay
nền kinh tế đạt: 391.580 tỷ đồng. Tỷ lệ dư nợ chiếm 84,6% so tổng nguồn
vốn. Dư nợ xấu: 15.738 tỷ đồng, tỷ lệ 4,02%/ tổng dư nợ. Hiện nay Ngân
hàng No&PTNT đã có quan hệ đại lý với trên 900 ngân hàng và tổ chức tài
chính quốc tế ở 110 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Trong chiến lược phát triển, Ngân hàng No&PTNT Việt Nam sẽ trở
thành một tập đoàn ngân hàng tài chính đa ngành, đa sở hữu, hoạt động đa
lĩnh vực. Theo đó, tồn hệ thống xác định những mục tiêu lớn phải ưu tiên, đó
là: tiếp tục giữ vai trị chủ đạo, chủ lực trên thị trường tài chính nông thôn,
luôn mãi là bạn đồng hành thủy chung và tin cậy của trên 10 triệu hộ gia đình;
xúc tiến cổ phần hóa các cơng ty trực thuộc, tiến tới cổ phần hóa Ngân hàng
No&PTNT Việt Nam theo định hướng và lộ trình thích hợp; đẩy mạnh tái cơ
cấu ngân hàng; giải quyết triệt để vấn đề nợ xấu; đạt hệ số an toàn vốn theo
tiêu chuẩn quốc tế; phát triển hệ thống cơng nghệ thơng tin; đa dạng hóa sản
phẩm; nâng cao chất lượng dịch vụ; chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao;
đảm bảo các lợi ích của người lao động và phát triển thương hiệu - văn hóa
Ngân hàng No&PTNT Việt Nam.
1.2.1.3. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN con người
Trong nghiệp vụ huy động vốn, các NHTM cung cấp nhiều sản phẩm
tiền gửi khác nhau, chẳng hạn như: tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn,
tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi dưới hình thức phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân
hàng... Mỗi loại sản phẩm lại có những đặc điểm riêng phù hợp với những
nhu cầu đa dạng của khách hàng. Hiện nay, hệ thống Ngân hàng No&PTNT
Việt Nam đang áp dụng 32 sản phẩm về nghiệp vụ huy động vốn (xem phụ
lục 1). Việc duy trì và mở rộng đa dạng hóa các sản sẩm huy động vốn có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc mở rộng kinh doanh và gia tăng lợi
nhuận của ngân hàng. Vì lý do đó, các ngân hàng đã tập trung mọi nỗ lực