1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân sách xã là một bộ phận của ngân sách nhà nước do Ủy ban nhân xã
xây dựng, quản lý và Hội đồng nhân xã quyết định, giám sát thực hiện. Đó là
một quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của chính quyền cấp xã để đảm bảo cho các
hoạt động quản lý nhà nước và góp phần thực hiện mục tiêu phát triển KTXH tại địa bàn, hoạt động của quỹ này thể hiện trên hai phương diện: Nguồn
thu vào quỹ và phân phối sử dụng các nguồn vốn đó.
Ngân sách xã có chức năng quản lý nhà nước về KT- XH, đảm bảo trật
tự an toàn xã hội trong phạm vi được phân cấp; thực hiện nhiệm vụ thu chi
của một cấp ngân sách và thực hiện luôn nhiệm vụ thu chi của một đơn vị
dự toán.
Ngân sách xã là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ quản lý kinh tế
tài chính của ngân sách nhà nước có vai trị tích cực trong quản lý, điều
hành và kiểm sốt các hoạt động tài chính, thu ngân sách phải đảm bảo
công bằng xã hội và là động lực của phát triển kinh tế, đồng thời phân bổ
và sử dụng nguồn lực tài chính, huy động được, đúng mục đích, đúng đối
tượng và có hiệu quả, khi kinh tế đã phát triển sẽ làm tăng nguồn thu và
quy mô của ngân sách.
Nhiệm vụ chủ yếu của ngân sách xã là huy động đầy đủ các khoản thu
vào ngân sách theo chế độ nhà nước quy định nhằm đảm bảo nhu cầu chi của
chính quyền cấp cơ sở theo phân cấp; Tích cực khai thác các khoản thu tại
chổ đi đôi với đầu tư tạo ra nguồn thu mới.
Với phương châm hướng về cơ sở, nhiều năm qua, huyện Hịa Vang ln
quan tâm đến mọi hoạt động trên địa bàn các xã, nhất là hoạt động tài chính
của xã, đặc biệt là thu, chi ngân sách để quản lý các nguồn thu, chi nhằm đảm
2
bảo công khai, minh bạch, tập trung và dân chủ nhằm hạn chế những tiêu cực,
lãng phí tham ơ, tham nhũng… cơ bản đã giải quyết các mâu thuẫn giữa nhu
cầu chi và khả năng thu, hạn chế tình trạng mất cân đối, lạm thu, thâm hụt
ngân sách
Theo Luật ngân sách Nhà nước được ban hành năm 1996, kể từ ngày 01
tháng 01 năm 1997 xã là một cấp ngân sách thuộc hệ thống ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên trong những năm qua, hoạt động thu ngân sách trên địa bàn xã
nhìn chung vẫn cịn những thất thốt, một số nguồn thu chưa tập trung vào
ngân sách Nhà nước, một số nguồn thu không đúng quy định, công tác chi
ngân sách bộc lộ nhiều bất cập, chưa công khai minh bạch, đã xuất hiện
những hạn chế, tiêu cực gây bức xúc, phiền hà cho người dân địa phương làm
ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước. Bên cạnh đó, cán bộ làm cơng tác
tài chính cấp xã vừa thiếu và yếu nghiệp vụ, chưa quen với cơ chế quản lý
mới, một số chủ trương, chính sách cần phải tiếp tục nghiên cứu để bổ sung
hoàn thiện, chế độ kế tốn quy định chưa phù hợp, chồng chéo, cơng tác quản
lý điều hành còn nhiều lúng túng.
Trong điều kiện nền kinh tế còn chậm phát triển, ngân sách nhà nước còn
hạn hẹp, việc tập trung đầy đủ và kịp thời vào ngân sách xã là nhiệm vụ quan
trọng góp phần tăng ngân sách, giảm trợ cấp từ ngân sách cấp trên, đảm bảo
cân đối thu chi, phát huy tự chủ tích cực của ngân sách xã.
Việc nghiên cứu đề ra những giải pháp để góp phần khắc phục những tồn
tại trong cơng tác quản lý tài chính- ngân sách xã là việc làm có ý nghĩa đối
với việc thực thi nhiệm vụ cấp xã và sự phát triển kinh tế- xã hội. Đặc biệt là
việc chấp hành pháp luật, tạo niềm tin trong nhân dân, mặt khác góp phần xây
dựng hệ thống ngân sách địa phương vững mạnh.
Với ý nghĩa trên, vấn đề “Ngân sách xã trên địa bàn huyện Hòa Vang,
thành phố Đà Nẵng” được chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên
ngành kinh tế chính trị.
3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - tài chính về ngân sách cần phải được
tổng hợp phản ánh đầy đủ vào ngân sách nhà nước. Mọi khoản thu chi của xã
phải được quản lý, hạch toán đầy đủ kịp thời, trung thực, khách quan.
Kể từ khi Quốc hội khóa IX thông qua luật ngân sách nhà nước năm
1996. Quốc hội khóa XI thơng qua luật ngân sách nhà nước sửa đổi (tháng
11/2002) và chính thức có hiệu lực vào tháng 5/2004 đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu về ngân sách cấp xã, phường, thị trấn được công bố - chẳng hạn
như:
- Ngân sách phường của thành phố Hà Nội thời kỳ đổi mới, luận văn
thạc sĩ của Đỗ Thị Lan Phương (2006-Hà Nội).
- Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học “Hồn thiện cơng tác
quản lý ngân sách xã, phường của thành phố Đà Nẵng”, Sở Tài chính vật giá
Đà Nẵng năm 2001.
- Tài liệu bồi dưỡng, Nghiệp vụ tài chính ngân sách phường, xã của Sở
Tài chính vật giá thành phố Đà Nẵng tháng 12 năm 2000.
- Luật ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thực hiện luật
ngân sách nhà nước (quyển I, Nxb Tài chính, năm 1996).
- Sáu mươi năm xây dựng và trưởng thành ngành Tài chính thành phố
Đà Nẵng, tháng 8/2005.
- Tài liệu hướng dẫn, tuyên truyền chiến lược cải cách hệ thống thuế
giai đoạn 2005- 2010 (Ban Tư tưởng TW- Tổng Cục thuế, tháng 3/2006).
- Bộ Tài chính: Những Văn bản mới về quản lý tài chính ngân sách xã
(Nxb Thống kê tháng 01/2001)…
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu đều tập trung đi sâu làm rõ thực
trạng, cách thức quản lý, hạch toán kế toán theo dõi qua mục lục ngân sách ở
phạm vi của từng địa phương riêng lẻ. Hiện chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ cụ thể về công tác ngân sách xã (thu, chi) cũng
4
như đánh giá sát đúng hiệu quả sử dụng ngân sách xã trong phát triển kinh tế
xã hội trên địa bàn huyện Hịa Vang-thành phố Đà Nẵng từ góc độ kinh tế
chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Luận văn chú trọng hướng tới mục tiêu hồn thiện chính sách, cơ chế lập
và thực hiện Ngân sách xã; định hướng phát triển, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
sử dụng ngân sách xã trong việc ổn định, phát triển kinh tế - xã hội ở huyện
Hòa vang, Thành phố Đà nẵng.
Và, để đạt được mục tiêu đó, luận văn tập trung vào việc thực hiện 3
nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về ngân sách nhà nước và ngân
sách xã.
- Phân tích thực trạng về công tác lập và thực hiện ngân sách xã trên địa
bàn huyện Hòa Vang, đánh giá những tác động của ngân sách xã tới họat động
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
- Đề xuất những giải pháp về lập và tổ chức thực hiện Ngân sách xã để
nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách xã.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Ngân sách các xã trên địa bàn huyện Hòa Vang-TP Đà Nẵng từ năm 2005
đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các Nghị
quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam về Ngân sách Nhà nước và các văn bản
pháp quy khác có liên quan đến Ngân sách Nhà nước và ngân sách xã;
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng - lịch
sử, luận văn chú trọng sử dụng các phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị
học kết hợp với các phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh... để làm rõ
những vấn đề cần nghiên cứu.
5
6. Đóng góp mới của luận văn
- Đánh giá đúng thực chất, vai trò của ngân sách xã trên địa bàn huyện,
làm sáng tỏ cơ sở khoa học, góp phần thực hiện dân chủ, cơng khai hóa tài
chính ở cấp cơ sở khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý tài chính
ngân sách địa phương.
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo cân đối thu chi
ngân sách xã trên địa bàn huyện Hòa Vang-thành phố Đà Nẵng.
- Việc nghiên cứu đề tài sẽ giúp cho cán bộ chuyên trách và cơ quan
chuyên môn cấp huyện (phịng Tài chính-Kế hoạch) nắm bắt được tình hình
thực tiễn, các hoạt động tài chính cơ sở để có hướng giúp đỡ, hỗ trợ các xã
quản lý ngân sách xã theo những quy định hiện hành, ngăn ngừa tiêu cực,
lãng phí, tham nhũng… đưa cơng tác quản lý ngân sách ngày càng ổn định,
nề nếp, thật sự là nơi tin cậy của hệ thống chính trị cơ sở.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 10 tiết.
6
Chương 1
NGÂN SÁCH XÃ - NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CẤP CƠ SỞ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN SÁCH XÃ
1.1.1. Quan niệm và quá trình hình thành Ngân sách xã ở Việt nam
“Xã” đã xuất hiện từ những năm đầu của thế kỷ XI, đây là tổ chức có
những quy ước tập tục riêng của cộng đồng dân cư trong xã. Tuy đã hình
thành và phát triển lâu đời, nhưng ở nước ta phải đến năm 1980 theo điều 113
Hiến pháp nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì cấp xã mới được
xem là một cấp chính quyền độc lập trong hệ thống hành chính từ trung ương
đến tỉnh, huyện, xã.
Cũng như các đơn vị hành chính khác, xã có những chức năng, nhiệm vụ
quản lý nhà nước trên địa bàn xã. Ngân sách xã là một công cụ quan trọng để
phục vụ chính quyền cấp xã hồn thành chức năng nhiệm vụ của mình. .
Ban đầu khi chưa được coi là cấp hành chính độc lập, xã thành lập quỹ
riêng nhằm phục vụ việc chung. Quỹ đó được dùng để giải quyết những
cơng việc có liên quan đến đời sống sinh hoạt, sản xuất của nhân dân trong
xã, đồng thời thực hiện quan hệ với các cộng đồng khác và với chính quyền
nhà nước.
Ngay sau khi trở thành đơn vị hành chính hồn chỉnh, cùng với việc xây
dựng và cũng cố chính quyền cấp xã, vấn đề Ngân sách xã đã được Đảng và
Nhà nước đặc biệt quan tâm. Nhờ vậy, Ngân sách xã trở thành công cụ,
phương tiện vật chất biểu hiện dưới hình thức tiền tệ có tác dụng to lớn trong
sự nghiệp xây dựng đất nước.
Trước năm 1983, do chưa phân cấp nên ngân sách xã hoạt động theo
những quy định của “Điều lệ ngân sách xã” do Hội đồng Chính phủ ban hành
tại Nghị định 64/NĐ-CP ngày 08/4/1972. Bộ Tài chính ban hành Thơng tư số
14 TC/TDT về chế độ kế toán ngân sách xã. Những văn bản này giúp quản lý
7
ngân sách xã thống nhất. Nhờ đó ngân sách xã dần dần trở thành công cụ huy
động tài lực, vật lực để quản lý nhà nước và phát triển kinh tế xã hội trên địa
bàn xã. Tuy nhiên, trong gian đoạn này, ngân sách xã chưa phát huy đầy đủ
tính chủ động, sáng tạo của xã trong quản lý tài chính-ngân sách.
Cùng với việc cải tiến quản lý kinh tế-Tài chính nhằm khắc phục tình
trạng tập trung, quan liêu bao cấp, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định
số 138 HĐBT ngày 19/11/1983 về cải tiến chế độ phân cấp quản lý ngân sách
cho địa phương, trong đó cơ cấu ngân sách địa phương bao gồm 3 cấp: ngân
sách tỉnh, ngân sách huyện, ngân sách xã (phường, thị trấn). Ngân sách xã là
một bộ phận cấu thành của ngân sách huyện, ngân sách huyện là một bộ phận
cấu thành của ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Toàn bộ ngân
sách địa phương là một bộ phận của ngân sách nhà nước. Như vậy trước đây,
ngân sách xã nằm ngoài ngân sách nhà nước, nay được tổng hợp vào ngân
sách nhà nước. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp, bất cập của ngân sách xã và
cần có thời gian để tổ chức lại cơng tác tài chính-kế tốn, nên việc đưa ngân
sách xã vào hệ thống ngân sách nhà nước phải tiến hành từng bước. Trước
mắt, đưa vào dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước các khoản thu, chi
của ngân sách xã theo đúng chế độ chính sách nhà nước quy định. Đối với cấp
xã, mặc dù Nghị quyết trên đã xác định ngân sách xã là một cấp ngân sách
nằm trong hệ thống 4 cấp ngân sách nhà nước, nhưng thực tế ngân sách xã
vẫn được quản lý bằng phương thức “gán thu bù chi”, trợ cấp chênh lệch
được ghi vào chi khác của ngân sách địa phương để tổng hợp vào ngân sách
nhà nước, cịn số thu, chi của ngân sách xã thì tổng hợp vào một số kênh riêng
báo cáo về Bộ Tài chính.
Từ sau Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986),
đất nước ta đã bước vào thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo. Nhà nước định lại chế độ phân cấp quản lý thu chi ngân
sách cho phù hợp trên cơ sở khuyến khích đúng mức để phát triển nhanh
8
nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế, chống thất thu. Mặc khác, phải căn cứ vào
nguồn thu mà bố trí chi, khơng chi vượt q thu ngân sách, triệt để tiết kiệm
chi tiêu về mọi mặt. Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị quyết số
186/HĐBT ngày 27/11/1989 về phân cấp quản lý ngân sách cho địa phương.
Việc ra đời Nghị quyết này đã nhấn mạnh phạm vi, trách nhiệm và quyền hạn
của chính quyền Nhà nước các cấp trong việc quản lý ngân sách, phân phối,
sử dụng công bằng, hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả cao, phục vụ các mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Trong Nghị quyết này, ngoài
những nội dung quy định để lại 100% cho ngân sách xã, quy định những
khoản thu cố định dành chung cho toàn bộ các địa phương như: Thuế nhà đất,
thuế mơn bài, lệ phí trước bạ, thuế sát sinh, còn quy định đối với UBND tỉnh,
thành phố cần quy định tỷ lệ điều tiết số thu về thuế công thương nghiệp cho
ngân sách xã trong phạm vi được hưởng của ngân sách địa phương.
Tuy nhiên, vấn còn khá nhiều xã chưa tổ chức khai thác hết tiềm năng
sẵn có, cịn bng lỏng thu các nguồn được giao, để thất thu lớn về thuế, lệ
phí, thu khác trên địa bàn xã. Cũng theo Nghi quyết này, còn khá nhiều khoản
chi tiêu của xã chưa hợp lý, đã ảnh hưởng đến việc khai thác nguồn thu trên
địa bàn xã, vẫn có tình trạng co kéo nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách
Trung ương và ngân sách địa phương. Khắc phục những hạn chế trên của
ngân sách xã, Chính phủ và Bộ Tài chính đã thực hiện phân cấp nguồn thu và
nhiệm vụ chi cho ngân sách địa phương (trong đó có ngân sách xã). Nhưng do
chưa có Luật ngân sách nhà nước nên hằng năm, Chính phủ đều phải điều
chỉnh tỷ lệ điều tiết một số khoản thu giữa ngân sách Trung ương và ngân
sách địa phương, thậm chí ngay trong cùng một năm cũng có sự điều chỉnh,
có nguồn thu năm nay để lại cho ngân sách địa phương, năm sau lại thu về
ngân sách Trung ương (như thuế cấp quyền sử dụng đất). Vì vậy, ngân sách
địa phương cụ thể là ngân sách xã khơng phát huy được tính năng động, sáng
tạo trong việc quản lý khai thác nguồn thu và chủ động bố trí chi tiêu hiệu
9
quả; các quy định của ngân sách xã chưa phù hợp với thực tế, một số địa
phương vẫn còn mang nặng dấu ấn đặc trưng của quỹ trước đây, do đó cịn
mang tính tuỳ tiện, thiếu nghiêm túc trong quản lý.
Để thống nhất quản lý nền tài chính Quốc gia, nâng cao tính chủ động và
trách nhiệm của chính quyền các cấp trong việc quản lý và sử dụng ngân sách
nhà nước, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm ngân sách,
tăng tích luỹ nhằm đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân, đảm bảo quốc phòng, an ninh, ngày 20.3.1996 Quốc hội (khóa
X) đã thơng qua Luật Ngân sách nhà nước. Luật này là mốc quan trọng trong
công tác quản lý và điều hành ngân sách nhà nước, tạo cơ sở pháp lý cao nhất
cho hoạt động ngân sách nhà nước. Từ đây, ngân sách xã mới được coi là cấp
ngân sách hoàn chỉnh, nằm trong hệ thống ngân sách nhà nước thống nhất. Chức
năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã ngày càng được mở rộng, nội dung thu
chi và quản lý ngân sách xã trở nên phong phú, phức tạp hơn, cũng có nghĩa là
trách nhiệm về mặt quản lý tài chính của chính quyền cấp xã ngày càng nặng nề
hơn. Tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khố XI ngày 16. 12. 2002 đã thơng qua luật
ngân sách nhà nước sửa đổi và chính thức có hiệu lực từ năm 2004. Ngân sách
xã là cấp ngân sách đầy đủ, được bố trí nguồn thu và nhiệm vụ chi phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ. Quy mô, cơ cấu ngân sách xã không chỉ phụ thuộc vào
chức năng và nhiệm vụ của chính quyền cấp xã mà cịn phụ thuộc vào khả năng
và thực tế phát triển kinh tế-xã hội ở địa bàn xã.
Trong điều kiện hiện nay việc thừa nhận sự tồn tại và hoạt động của ngân
sách xã là tất yếu khách quan. Chính vì vậy, trong cơ cấu tổ chức của hệ thống
ngân sách nhà nước ở hầu hết các quốc gia đều có cấp ngân sách xã (hoặc
vùng). Song vấn đề quan niệm về ngân sách xã lại chưa thống nhất. Ngay ở
nước ta, trong khuôn khổ các văn bản pháp quy về ngân sách xã cũng đã có sự
khác nhau - chẳng hạn như:
10
- Điều lệ ngân sách xã ban hành tháng 4/1972 đã ghi “Ngân sách xã là kế
hoạch thu chi tài chính của chính quyền cấp xã, để đảm bảo điều kiện vật chất
cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã làm trịn trách nhiệm, nhiệm
vụ của mình, đảm bảo việc chấp hành pháp luật, giữ vững trật tự trị an, bảo vệ
tài sản công cộng, bảo hộ quyền lợi hợp pháp của công dân, quản lý mọi hoạt
động kinh tế, văn hoá xã hội trong xã, động viên và giám sát các hợp tác xã và
công dân thi hành nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đối với nhà nước”.
- Thông tư số 14/TC/NSNN ngày 28/3/1997 của Bộ Tài chính về
“Hướng dẫn, quản lý thu, chi ngân sách xã, phường, thị trấn” lại xác định
“Ngân sách xã, thị trấn (sau đây gọi tắt là ngân sách xã) và ngân sách phường
là một bộ phận của ngân sách nhà nước do Uỷ ban nhân dân xã, phường (dưới
đây gọi chung là cấp xã) xây dựng, quản lý và Hội đồng nhân dân xã quyết
định, giám sát thực hiện”.
Chính vì vậy, địi hỏi phải có một quan niệm chuẩn về ngân sách xã, làm
cơ sở cho việc xác định các yêu cầu nhiệm vụ sau này.
Xét về nguồn gốc, ngân sách nhà nước - theo đó là ngân sách xã ra đời
khi có nhà nước và nền sản xuất hàng hố. Chừng nào cịn tồn tại cả hai điều
kiện trên thì khi đó ngân sách nhà nước vẫn tồn tại. Mặt khác, tổ chức bộ máy
nhà nước ở mọi quốc gia đều có sự phân cơng, phân cấp, quản lý kinh tế xã
hội cho mỗi cấp quản lý hành chính nên hệ thống ngân sách nhà nước bao giờ
cũng bao gồm một số cấp khác nhau. Số cấp ngân sách ở mỗi quốc gia nhiều
ít khác nhau là tuỳ thuộc vào tổ chức bộ máy quản lý kinh tế, tài chính cho
mỗi cấp đó. Song bao giờ cũng có cấp ngân sách gắn liền với cấp quản lý
hành chính ở cơ sở và được gọi chung là ngân sách xã.
Hơn hai mươi năm qua, chính quyền cấp xã đã khẳng định vai trị quan
trọng của mình, nhất là trong điều kiện thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, các xã đã thực hiện tốt các cơng cụ tài chính, trong đó ngân sách
xã đóng một vai trị quan trọng, tích cực giúp xã hồn thành tốt nhiệm vụ phát
11
triển kinh tế, chính trị, văn hố-xã hội. Qua q trình triển khai và thực hiện
các văn bản hướng dẫn của các cơ quan chức năng, nội dung thu chi của ngân
sách xã ngày càng được bổ sung hoàn thiện, phù hợp với tình hình thực tế.
Từ những phân tích trên, có thể nhận thấy Ngân sách xã ra đời là do
những tất yếu sau:
Thứ nhất, “Ngân sách xã là hệ thống những mối quan hệ kinh tế phát
sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của chính quyền
cấp xã nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của nhà nước ở cấp cơ
sở trong khuôn khổ đã được phân công, phân cấp quản lý”[20, tr.10-11], như
xây dựng và thực hiện các kế hoạch thuộc phạm vi xã, bao gồm: Sự nghiệp
kinh tế, sự nghiệp văn hố thơng tin, thể dục thể thao, y tế, giáo dục, quản lý
dân số hộ tịch, hộ khẩu, sinh tử, lập sổ địa chính, quản lý tài nguyên môi
trường, đất đai, quản lý lao động, quản lý và thi hành chính sách tài chính thuế, thu nợ cho nhà nước, xây dựng và quản lý thu chi ngân sách xã theo
Luật ngân sách nhà nước, đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự xã hội, chăm
lo cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, phát hiện và xử lý
hành vi vi phạm pháp luật theo phạm vi quyền hạn được phân công, phân cấp.
Thứ hai, ngân sách xã là tổng số thu, tổng số chi trong dự toán đã được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, phục vụ cho phần lớn các lĩnh vực
hoạt động kinh tế- xã hội trên địa bàn, được hình thành trên cơ sở phân chia
nguồn thu, đảm nhận nhiệm vụ chi và tổ chức thực hiện trong thời gian một
năm. Ngân sách xã cung cấp các phương tiện vật chất cho sự tồn tại và hoạt
động của bộ máy nhà nước ở cơ sở và đó chính là cơng cụ đặc biệt quan trọng để
chính quyền thực hiện quản lý toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội tại xã.
Hoạt động thu chi của ngân sách xã luôn gắn liền với chức năng, nhiệm
vụ của chính quyền xã đã được phân cấp đồng thời luôn chịu sự kiểm tra giám
sát của cơ quan quyền lực nhà nước ở cấp xã và của các cơ quan chức năng.
Chính vì vậy, các chỉ tiêu thu chi của ngân sách xã ln mang tính pháp lý.
12
Ẩn chứa đằng sau các hình thức thu, chi của ngân sách xã chính là quan
hệ giữa một bên là lợi ích chung của cộng đồng cấp cơ sở mà chính quyền xã
là người đại diện với một bên là lợi ích của chủ thể kinh tế, xã hội khác (có
thể là của tập thể hoặc của cá nhân) các quan hệ lợi ích này phát sinh trong cả
q trình thu và chi ngân sách xã.
Các quan hệ thu, chi ngân sách xã rất đa dạng và biểu hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau. Nhưng số thu hoặc số chi theo từng hình thức chỉ có thể
được thực thi một khi nó được ghi vào dự tốn và đã được các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt.
Thứ ba, ngân sách xã ra đời là tất yếu khách quan của quản lý nhà nước.
Tuy nhiên, tùy theo mơ hình tổ chức hành chính nhà nước, tùy theo thể chế
chính trị cũng như trình độ phát triển của nền kinh tế mà có những mơ hình
ngân sách cơ sở khác nhau với những chức năng và nhiệm vụ khác nhau.
Thứ tư, ngân sách xã là cấp ngân sách trong hệ thống ngân sách nhà
nước thống nhất do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố quy định cụ thể
nội dung thu, chi, Uỷ ban nhân dân xã xây dựng dự toán và thống nhất tổ
chức quản lý thực hiện dưới sự giám sát của Hội đồng nhân dân xã.
1.1.2. Bản chất của ngân sách xã
Ngân sách xã là phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế - chính
trị nhất định. Thơng thường, nó được thể hiện trong việc hình thành, phân
phối và sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung trong phạm vi xã,
thể hiện mối quan hệ giữa các chủ thể, phân phối thu nhập để thực hiện chức
năng nhiệm vụ theo quy đinh của pháp luật.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi chủ thể kinh tế là một chủ thể tài chính
- ngân sách. Ở mỗi quốc gia có nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
phổ biến đều có các nhóm chủ thể sau đây:
- Nhà nước - bao gồm các cấp, các ngành.
- Các doanh nghiệp trong các ngành thuộc các thành phần kinh tế.
13
- Dân cư - bao gồm các hộ gia đình và cá nhân người lao động độc lập.
- Các tổ chức chính trị xã hội như Đảng, các đồn thể quần chúng, các
hội nghề nghiệp, các tôn giáo.
Nhưng ở mỗi quốc gia có chế độ kinh tế - chính trị - xã hội khác nhau thì
bản chất của các chủ thể trong các nhóm trên đây cũng khác nhau, điều đó
quy định mặt chất của các mối quan hệ về phân phối, sử dụng thu nhập của
từng chủ thể để tái sản xuất ở các chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Chính
điều này quy định bản chất ngân sách của mỗi quốc gia nói chung và của ngân
sách xã nói riêng. Sự tác động qua lại của nguồn tài chính - ngân sách giữa
các chủ thể là biểu hiện việc bảo tồn mặt chất của mối quan hệ phân phối. Sự
thay đổi về lượng đến một giới hạn nào đó sẽ dẫn tới sự thay đổi về chất của
mối quan hệ phân phối giữa các chủ thể làm thay đổi bản chất của ngân sách
nhà nước các cấp.
1.1.3. Vai trò của ngân sách xã
Đổi mới kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi căn bản vai trò của
ngân sách nhà nước. Nếu như trước đây ngân sách nhà nước được coi là cơng
cụ tài chính quan trọng để Nhà nước “làm kinh tế” thì ngày nay nó được coi là
cơng cụ tài chính quan trọng để giúp Nhà nước thực hiện quản lý và điều tiết
vĩ mô nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, vai trị của ngân sách xã - ngân sách
nhà nước cấp cơ sở cũng phải thay đổi cho đồng bộ [20, tr.14].
Vai trò của ngân sách xã trong nền kinh tế thị trường, chủ yếu, thể hiện ở
các góc độ sau đây:
Một là, Ngân sách xã cung cấp các phương tiện vật chất cho sự tồn tại
và hoạt động của bộ máy nhà nước ở cơ sở
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng: Khi xã hội
có phân chia giai cấp thì đó chính là tiền đề cho sự xuất hiện của nhà nước.
Nhà nước ra đời với tư cách là một bộ máy cai trị nhằm duy trì quyền lực và
14
địa vị của giai cấp thống trị nên hoạt động của nó hầu như khơng tạo ra được
của cải cho xã hội để trang trải cho các chi phí của chính bộ máy nhà nước đó.
Nguồn để trang trải các khoản chi phí của bộ máy nhà nước chỉ có thể
được đảm bảo từ ngân sách nhà nước. Viêc hình thành cấp ngân sách xã trong
hệ thống ngân sách nhà nước thì đương nhiên chi phí của bộ máy nhà nước ở
cấp xã phải do ngân sách xã đảm bảo. Nhờ đó mà lương, sinh hoạt phí của
cơng chức, viên chức, các khoản chi tiêu cho quản lý hành chính hay mua sắm
các trang thiết bị cho văn phòng mới có thể thực hiện được. Vì vậy có thể nói
khơng có các khoản chi của ngân sách xã thì bộ máy Nhà nước ở cơ sở không
thể tồn tại và phát triển với tư cách là bộ máy quản lý Nhà nước mọi hoạt
động bao gồm kinh tế, xã hội trên địa bàn xã.
Hai là, Ngân sách xã là công cụ đặc biệt quan trọng để
chính quyền xã thực hiện quản lý toàn diện các hoạt động bao
gồm kinh tế xã hội tại địa phương
Xã là một cấp chính quyền cơ sở của bộ máy quản lý Nhà
nước, nó trực tiếp giải quyết các mối quan hệ giữa Nhà nước với
dân nên mọi chính sách, chế độ của nhà nước được thực thi ở mức
độ nào, mọi sự quan tâm của Nhà nước tới dân, tâm tư nguyện vọng
của người dân như thế nào đều được bộc lộ ở đây. Một cơng cụ đắc
lực để giúp chính quyền xã giải quyết được các quan hệ trên là ngân
sách xã [20, tr.16].
Vai trò của ngân sách xã biểu hiện ở hoạt động thu chi: Thông qua thu
ngân sách xã mà các nguồn thu được tập trung nhằm tạo lập quỹ ngân sách xã
đồng thời giúp chính quyền xã thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát điều chỉnh
trong các hoạt động kinh doanh, dịch vụ và các hoạt động khác đi theo đúng
hành lang pháp luật. Việc kiểm tra, kiểm sốt thơng qua ngân sách xã được
thể hiện qua cơ cấu ngành nghề kinh doanh, qua sự luân chuyển hàng hóa…
15
từ đó có những điều tiết, kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
phát triển theo hướng tích cực.
Mặt khác, thu ngân sách xã cịn góp phần thực hiện các chính sách xã hội
như: đảm bảo cơng bằng giữa những người có nghĩa vụ đóng góp cho ngân
sách xã, có sự trợ giúp cho những đối tượng nộp khi họ gặp khó khăn hoặc
thuộc diện cần ưu đãi theo chính sách của nhà nước thơng qua xét miễn, giảm
số thu. Ngồi ra, việc áp dụng đúng các hình thức và mức phạt đối với các tổ
chức, cá nhân vi phạm trật tự, an toàn xã hội đã được coi như một liệu pháp
kinh tế buộc họ phải nghiêm chỉnh thực hiện tốt nghĩa vụ của mình trước
cộng đồng.
Thu ngân sách xã có vai trị rất quan trọng trong việc góp phần thực hiện
các mục tiêu kinh tế- xã hội tại địa bàn do chính quyền nhà nước cấp cơ sở
quản lý. Đồng thời xét trên phương diện quan hệ giữa hai mặt hoạt động (thu,
chi) của ngân sách xã thì thu ngân sách xã cịn có ảnh hưởng mang tính quyết
định đến chi ngân sách xã, bởi lẽ ‘lường thu mà chi” đã trở thành phương
châm điều hành ngân sách nhà nước ta nói chung và ngân sách xã nói riêng.
Thơng qua chi ngân sách xã mà các hoạt động của Đảng bộ, chính quyền và
các đồn thể chính trị, xã hội ở xã được duy trì và phát triển một cách liên tục
và ổn định, nhờ đó mà nâng cao hiệu lực quản lý ở cơ sở.
Với các khoản chi sự nghiệp giáo dục và y tế từ ngân sách xã đã thiết
thực góp phần vào việc nâng cao dân trí, nâng cao sức khỏe cho người dân
ngay từ những bước ban đầu. Mọi vấn đề thường nhật liên quan đến sức
khỏe của người dân ở địa phương về cơ bản đã được giải quyết thông qua
mạng lưới y tế xã, thơn bản. hay vấn đề xóa mù chữ, chống mù chữ, giáo
dục mầm non tại mỗi địa phương đã phát triển nhờ sự trợ giúp đắc lực của
ngân sách xã.
Các khoản chi nhằm thực hiện các chính sách xã hội tại địa bàn mỗi xã
như: chi cứu tế xã hội nhằm hỗ trợ cho các gia đình, cá nhân gặp khó khăn
16
vượt qua những thử thách khắc nghiệt của cuộc sống để có thể hịa nhập với
cộng đồng; chi thăm hỏi, trợ cấp cho các gia đình Thương binh Liệt sĩ đã thể
hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” - một truyền thống quý báu của dân tộc
Việt Nam ta. Chi ngân sách xã để xây dựng và phát triển hệ thống truyền
thanh, truyền hình nhằm mở mang văn hóa, nâng cao nhận thức cho người
dân, góp phần loại trừ các hủ tục lạc hậu và từng bước xây dựng nông thơn
mới theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước.
Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” ngân sách xã đã
cùng với nhân dân giải quyết tốt các vấn đề “điện, đường, trường, trạm”. Nhờ
đó hệ thống giao thông liên xã, liên thôn thường xuyên được nâng cấp hoặc
xây dựng mới, các cụm dân cư theo quy hoạch thị tứ dần dần được hình thành
đã tác động tích cực tới sự giao lưu và phát triển kinh tế. Nhờ thế, cơ cấu kinh
tế ở nông thôn từng bước đã có sự thay đổi theo hướng từ kinh tế thuần nơng
mang tính tự cấp, tự túc là chính sang cơ cấu kinh tế có sự kết hợp giữa nông
nghiệp- công nghiệp - thương mại, dịch vụ mang tính sản xuất hàng hóa.
Thực hiện khẩu hiệu: “Ly nơng bất ly hương”.
Từ các phân tích kể trên cho thấy chi ngân sách xã có vai trị rất tích
cực tới sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở nơng thơn, xúc tiến q trình
đơ thị hóa nơng thơn nhằm từng bước xóa đi sự cách biệt quá xa giữa nông
thôn và thành thị. Mặt khác, xét trong mối quan hệ biện chứng giữa thu và
chi thì chi ngân sách tốt sẽ tác động trực tiếp tới việc bồi dưỡng phát triển
nguồn thu của nó.
Trong hệ thống ngân sách nhà nước thì ngân sách xã được coi
là ngân sách cấp cơ sở. Tại đây thể hiện rất sống động các quan hệ
của nhà nước với dân. Mọi chủ trương chính sách của nhà nước
mang tính khả thi như thế nào, mọi hiệu lực quản lý của nhà nước
đạt được ở mức độ nào đều được thể hiện rất rõ ở cấp này. Chính vì
17
vậy, có thể nói ngân sách xã có vị trí rất quan trọng trong hệ thống
ngân sách nhà nước [20, tr.22-23].
Điều này được lý giải như sau:
- Thứ nhất, xã là một đơn vị hành chính cơ sở ở nơng thôn. Hội đồng
nhân dân xã với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước tại địa phương được
quyền ban hành các Nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn và các
Nghị quyết có liên quan đến quản lý ngân sách xã mình.
- Thứ hai, chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp liên hệ với dân, giải quyết
tồn bộ mối quan hệ và lợi ích giữa nhà nước với dân trên cơ sở các văn bản
pháp quy hiện hàn. Ngân sách xã là công cụ đắc lực cho chính quyền xã trong
q trình thực hiện các nhiệm vụ trên. Nếu chỉ xét trên góc độ kinh tế thì quy
mơ và mức độ thực hiện các nhiệm vụ của chính quyền xã đạt ở mức độ nào
phụ thuộc rất lớn vào khả năng nguồn vốn mà ngân sách xã thực có.
- Thứ ba, cơ cấu thu chi ngân sách xã thể hiện hầu hết các khoản thu, chi
ngân sách địa phương đã được phân định. Đặc biệt có những khoản thu mà
chỉ có ngân sách xã quản lý và khai thác thì mới đạt hiệu quả cao như: Thuế
sử dụng đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất và các khoản thu
hoa lợi công sản hoặc có những khoản chi mà chỉ có ngân sách xã thực hiện
thì mới đảm bảo tính kịp thời, đúng đối tượng như chi để thực hiện chính
sách đãi ngộ của nhà nước đối với người có cơng cách mạng, chi để cứu tế,
chi để thực hiện việc chăm sóc sức khỏe ban đầu tại y tế xã, chi để duy tu, bảo
dưỡng các cơng trình cơng cộng tại xã… Qua đó cho thấy muốn nâng cao
hiệu lực của các chính sách thu, chi ngân sách nhà nước thì nhất thiết phải
phát huy tốt vai trò của ngân sách xã trong mọi hoạt động của hệ thống ngân
sách nhà nước.
Ngân sách xã vừa là một cấp ngân sách vừa là một đơn vị dự toán đặc
biệt. Điều này thể hiện như sau:
18
+ Ngân sách xã là một cấp ngân sách trong hệ thống ngân sách nhà nước
đã được xác định cụ thể tại trong Nghị định 87/NĐ-CP ngày 19/12/1996 và
Nghị định 51/1998/NĐ-CP ngày 18/7/1998 của Chính phủ, quy định chi tiết
về phân cấp quản lý, lập chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước.
+ Ngân sách xã là một đơn vị dự tốn đặc biệt vì dưới nó khơng có đơn
vị dự tốn nào trực thuộc và nó vừa phải tạo nguồn kinh phí thơng qua các
khoản thu ngân sách xã được phân định, vừa phải duyệt cấp, chi trực tiếp và
tổng hợp các khoản chi trực tiếp đó vào chi ngân sách xã. Hay nói một cách
cụ thể hơn, ngân sách xã vừa quản lý ngân sách thông qua các nghiệp vụ thuế,
tài vụ, tài sản và các hoạt động kinh tế, xã hội khác thuộc địa bàn xã. Chính vì
vậy, chi tiêu ở xã có những khoản phải chuẩn bị chi và thực hiện kiểm soát
đúng quy định của pháp luật song cũng có những khoản phải thuận chi. Bởi
vậy, quản lý chi tiêu ngân sách xã không thể gị bó trong hạn mức kinh phí
như của một cấp dự tốn thơng thường khác.
1.1.4. Ngun tắc cơ bản trong quản lý ngân sách xã
Với chủ trương phân cấp cho cơ sở, trong những năm qua, các tỉnh thành
phố đã thực hiện phân cấp mạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy,
ngân sách xã ngày càng khẳng định vai trị, vị trí quan trọng của mình đối với
mọi hoạt động của xã. Với nguồn ngân sách đầy đủ, dồi dào sẽ giúp cho chính
quyền xã giải quyết tốt nhiều vấn đề phát sinh từ cơ sở như chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, các vấn đề xã hội, đảm bảo an ninh trật tự…Để phát huy tốt về vai trị
của mình về quản lý nhà nước, quản lý ngân sách xã phải đáp ứng 4 nguyên tắc:
tính trách niệm, tính minh bạch, tính tiên liệu và sự tham gia của xã hội.
Thứ nhất: Tính trách nhiệm - bao gồm: trách nhiệm giải trình về các
hoạt động ngân sách và việc lường trước được các tác động có thể xảy ra khi
đưa ra các quyết định về ngân sách.
Tính trách nhiệm được xem xét trên 2 khía cạnh: trách nhiệm đối với cơ
quan quản lý cấp trên và trách nhiệm đối với công chúng, đối với xã hội.
19
Tăng cường trách nhiệm giải trình địi hỏi phải có sự phân công rõ ràng
trong quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước với
ngân sách nhà nước. Nói cách khác, tăng cường trách nhiệm giải trình gắn
liền với quá trình quy trách nhiệm trong quản lý ngân sách.
Thứ hai: Tính minh bạch - nghĩa là, mọi thơng tin về tài chính và ngân
sách đều phải được cơng khai hóa, đảm bảo cho mọi tầng lớp nhân dân có thể
tham gia theo dõi và giám sát các hoạt động ngân sách. Minh bạch tài chính ở
đây không chỉ là các thông tin về ngân sách được cơng bố mà cịn phải được
cơng bố những thơng tin đó một cách kịp thời, đáng tin cậy và dễ hiểu. Tính
minh bạch được xem là cơ sở thiết yếu cho cải tiến cơng tác quản lý tài chính
hiệu quả và hiệu lực.
Thứ ba:Tính tiên liệu - thể hiện ở chỗ, mọi đạo luật và quy định về ngân
sách phải rõ ràng, có báo trước và được thực thi một cách thống nhất, có hiệu
lực. Thiếu khả năng tiên liệu này thì các cơ quan cơng quyền cũng như khu
vực tư nhân thiếu sự định hướng để quyết định các hoạt động của mình.
Thứ tư: Các hoạt động của nhà nước là nhằm phục vụ xã hội, vì vậy một
ngân sách tốt là một ngân sách phản ảnh lợi ích của các tầng lớp, các bộ phận
cộng đồng dân cư.
Sự tham gia của người dân được thực hiện trong suốt chu trình ngân
sách, từ lập dự tốn, chấp hành đến quyết toán ngân sách thể hiện nguyên tắc
dân chủ trong quản lý ngân sách. Sự tham gia đầy đủ sẽ làm cho ngân sách
minh bạch hơn, các thông tin ngân sách trung thực, chính xác hơn. Đồng thời
việc tăng cường sự tham gia của người dân sẽ tạo điều kiện thực hiện sự giám
sát của người dân, của xã hội đối với hoạt động của nhà nước.
Ngoài những nguyên tắc cơ bản nêu trên, chính quyền cấp xã cần thực
hiện nghiêm túc ba nguyên tắc cụ thể sau để thực hiện tốt nhiệm vụ thu, chi
ngân sách.
20
Một là, tổ chức thực hiện ngân sách xã theo nguyên tắc dân chủ, công
khai, hiệu quả và tiết kiệm.
Ngân sách xã là một quỹ tiền tệ từ nguồn thu trên địa bàn, từ các khoản
đóng góp theo quy định và đóng góp tự nguyện của người dân trong xã và các
tổ chức, từ nguồn bổ sung cân đối ngân sách cấp trên, đây là nguồn quỹ tiền
thuộc sở hữu tập thể nhưng được giao cho chính quyền xã tổ chức quản lý và
phân phối đảm bảo theo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước, đảm
bảo công bằng xã hội. Vì vậy, hằng năm Hội đồng nhân dân xã cần xây dựng
dự tốn và được cấp có thẩm quyền quyết định. Các chương trình, dự án do
nhà nước tổ chức, cá nhân đầu tư trực tiếp cho xã, các khoản tiền uỷ quyền
cho xã thực hiện, cần tổ chức thanh tra, kiểm tra và phải thông báo kết quả
thu, chi ngân sách cho nhân dân biết.
Dự án huy động sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân cho ngân
sách xã để xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội trước khi trình Hội đồng nhân dân
xã hoặc cơ quan có thẩm quyền quyết định phải lấy ý kiến nhân dân, sau khi
thực hiện phải thông báo kết quả cho nhân dân biết. Vấn đề thu ngân sách xã
phải được quy định chặt chẽ về thủ tục, những khoản đóng góp thường xuyên
hay bất thường của nhân dân trong xã phải được cơng bố cơng khai về mục
đích thu chi nguồn ngân sách này.
Hai là, mọi nguồn thu, chi ở xã phải được phản ánh vào ngân sách xã để
Hội đồng nhân dân xã thảo luận, quyết định và kiểm tra thực hiện chi tiêu
Ngân sách xã phải qua Kho bạc Nhà nước. Xã không được đặt ra các chế độ
thu, chi riêng hoặc giữ nguồn thu để lập quỹ riêng ngoài ngân sách trái quy
định của nhà nước. Luật Ngân sách nhà nước quy định:
Các tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ thu, nộp ngân sách nhà nước
và quản lý các khoản thu, chi tài chính phải tổ chức hạch toán kế
toán, lập báo cáo kế toán và quyết toán các khoản thu chi của ngân
sách nhà nước và các khoản thu chi tài chính theo quy định của pháp
21
luật về kế toán, thống kê theo chế độ kế toán và mục lục ngân sách
nhà nước [19, tr.32-33].
Mục tiêu trong công tác thu, chi ngân sách của mỗi xã là ngày càng nâng
cao hiệu quả sử dụng sử dụng ngân sách xã, nghĩa là cần tăng nguồn thu ngân
sách. Tuy nhiên, chúng ta khơng phải thực hiện mục đích này bằng mọi cách
mà tuân theo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước, phù hợp với thực
tế địa phương, phải kết hợp hài hồ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội.
Ba là, cân đối ngân sách xã phải đảm bảo chi không vượt quá tổng
nguồn thu, kể cả nguồn thu bổ sung từ ngân sách cấp trên, nghiêm cấm đi vay
hoặc chiếm dụng vốn dưới mọi hình thức để cân đối ngân sách xã.
Nội dung của ngân sách xã bao gồm các nguồn thu và nhiệm vụ chi,
trong đó các khoản thu này được xây dựng dựa trên phân cấp quản lý kinh tế xã hội của xã để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ chi thường xuyên theo quy
định. Tuy nhiên, nhìn chung, số xã tự cân đối nhiệm vụ này rất ít, nên ngân
sách cấp trên phải bổ sung với mục đích để cân đối ngân sách xã giữa nhiệm
vụ chi thường xuyên và thu của xã hoặc bổ sung có mục tiêu thực hiện những
chương trình kế hoạch của huyện, của thành phố. Nhưng chính quyền xã cần
thực hiện nhiệm vụ chi sao cho không vượt quá tổng thu ngân sách của xã.
Trong suốt quá trình thực hiện thu, chi ngân sách phải đảm bảo được sự
cân đối, cố gắng chi ít hơn tổng thu, tránh thâm hụt ngân sách để có nguồn
kinh phí bố trí cho các hoạt động văn hóa, xã hội, phúc lợi của xã.
1.1.5. Nội dung ngân sách xã
Là một cấp trong hệ thống ngân sách nhà nước, ngân sách xã có những
nguồn thu và chi cụ thể. Theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và theo
phân cấp quản lý của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố thì nguồn ngân sách
xã là hệ thống các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân
phối và sử dụng quỹ tiền tệ của nhà nước. Qũy này được xây dựng trên có sở
các nguồn thu vào ngân sách xã để thực hiện các nhiệm vụ chi. Nguồn thu
22
ngân sách sẽ quyết định chi ngân sách. Nhưng thông qua việc thực hiện
nhiệm vụ chi cũng có tác động trở lại nguồn thu, nó sẽ tạo động lực cho việc
thực hiện tốt nguồn thu, tạo thêm những nguồn thu mới cho xã.
Nội dung của ngân sách xã sẽ được Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố
đề xuất phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của xã, thời kỳ ổn định
của nội dung thu, chi ngân sách nói chung và ngân sách xã nói riêng là trong 3
năm. Sau ba năm ổn định ngân sách, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố sẽ
nghiên cứu, điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế sao cho ngày càng tăng
nguồn thu, nâng cao tính chủ động cho ngân sách xã. Đồng thời nhiệm vụ chi
ngày càng rõ ràng và minh bạch hơn.
1.1.5.1. Về nguồn thu của ngân sách xã
Ngay từ khi Luật ngân sách nhà nước (sửa đổi 2002) có hiệu lực, theo
định kỳ 3 năm, nguồn thu của ngân sách xã do Hội đồng nhân dân cấp thành
phố quyết định, phân cấp theo phạm vi nguồn thu ngân sách địa phương được
hưởng. Thu ngân sách xã bao gồm các khoản thu của ngân sách nhà nước
phân cấp cho ngân sách xã và các khoản huy động đóng góp của tổ chức cá
nhân theo nguyên tắc tự nguyện để xây dựng các cơng trình, kết cấu hạ tầng
và thực thi những nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội tại xã.
Là một bộ phận trực thuộc ngân sách địa phương, ngân sách xã được Hội
đồng nhân dân tỉnh, thành phố phân cấp nguồn thu dựa trên ba nguyên tắc cơ
bản sau:
Một là, phải phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế, quốc phòng- an ninh
của nhà nước và chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước cấp xã.
Hai là, phải phù hợp với việc phân định nguồn thu giữa ngân sách Trung
ương và ngân sách địa phương.
Ba là, phải căn cứ vào nhiệm vụ chi, khả năng thu từ các nguồn ngân
sách nhà nước trên địa bàn, phân cấp tối đa nguồn thu tại chỗ, đảm bảo các xã
23
có nguồn thu cân đối được nhiệm vụ chi thường xuyên; các xã có nguồn thu
khá cần dành để đầu tư phát triển, hạn chế bổ sung từ ngân sách cấp trên.
Về cơ bản, nguồn thu của ngân sách gồm các khoản thu ngân sách xã
được hưởng 100%, các khoản thu phân chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách xã
với ngân sách cấp trên và thu bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách xã.
Các khoản thu ngân sách xã hưởng 100%:Là các khoản thu giành cho
xã sử dụng toàn bộ để chủ động về nguồn tài chính, đảm bảo các nhiệm vụ chi
thường xuyên. Căn cứ quy mô nguồn thu, chế độ phân cấp quản lý kinh tế-xã
hội và nguyên tắc đảm bảo tối đa nguồn thu tại chỗ để cân đối cho các nhiệm
vụ chi thường xuyên, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố xem xét dành cho
ngân sách xã hưởng 100% các nguồn thu từ các khoản phí, lệ phí do cấp có
thẩm quyền giao cho xã tổ chức thu theo quy định của Luật pháp. Trong đó,
phí là khoản tiền mà tổ chức cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân
khác cung cấp dịch vụ được quy định trong danh mục phí.
Chính quyền cấp xã có quyền quyết định các biện pháp thực hiện thống
nhất kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, nên xã cũng có các khoản thu và các
hoạt động sự nghiệp kinh tế, văn hóa xã hội trên địa bàn xã, đó là phần nộp
vào ngân sách nhà nước theo quy đinh của pháp luật do xã quản lý.
Theo phân cấp, xã quản lý và sử dụng hợp lý có hiệu quả đất cơng sản
được để lại nhằm phục vụ các nhu cầu cơng ích của xã nên xã có nguồn thu
đấu thầu, thu khốn theo mùa vụ từ quỹ đất cơng ích và hoa lợi cơng sản khác
theo quy định của Pháp luật.
Ngồi ra xã còn được hưởng theo tỷ lệ 100% các khoản huy động đóng
góp của tổ chức, cá nhân gồm các khoản huy động đóng góp theo pháp luật
quy định, các khoản đóng góp theo nguyên tắc tự nguyện để đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng xã hội do Hội đồng nhân dân xã quyết định đưa vào ngân sách
xã quản lý, nguồn viện trợ khơng hồn lại của các tổ chức, cá nhân ở nước
ngoài trực tiếp hỗ trợ cho ngân sách xã theo quy định của pháp luật. Thu phạt
24
xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực theo pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính, thu về quản lý sử dụng tài sản công do xã quản lý, cho thuê tài
sản không cần dùng, thanh lý tài sản…
Và cũng như các cấp ngân sách khác, ngân sách xã được hưởng 100%
nguồn thu kết dư ngân sách từ năm trước.
Các khoản thu phân cấp chia theo tỷ lệ % giữa ngân sách xã với ngân
sách cấp trên, gồm nguồn thu từ thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế nhà đất,
thuế môn bài từ các cá nhân, hộ kinh doanh từ bậc 4-bậc 6 trên địa bàn xã và
lệ phí trước bạ nhà, đất. Đối với các khoản thu trên, tỷ lệ ngân sách xã được
hưởng tối thiểu là 70%. Căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi của xã mà Hội
đồng nhân dân thành phố có thể quyết định tỷ lệ ngân sách xã được hưởng
cao hơn, có thể đến 100%.
Ngồi ra, xã cịn thu thuế của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh ngoài
quốc doanh như thuế: giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu
thụ đặc biệt (thuế thu đối với sản xuất trong nước vào các mặt hàng bái lá,
vàng mã, hàng mã, dịch vụ kinh doanh karaoke…).
Nguồn thu bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách xã, hằng năm
căn cứ vào quyết toán ngân sách năm trước, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành
phố có thể bổ sung thêm ngân sách cho xã, khi mà tổng nguồn thu từ, thuế,
phí, lệ phí phân chia theo Luật ngân sách nhà nước đã dành 100% cho xã và
các khoản thu ngân sách xã hưởng 100% nhưng vẫn chưa cân đối được nhiệm
vụ chi. Thu bổ sung để cân đối ngân sách là khoản thu được xác định trên cơ
sở dự toán chi được chuyển giao và các nguồn thu phân cấp, nếu thiếu, được
ngân sách cấp trên cấp bổ sung. Số thu này do Hội đồng nhân dân ( nay do
UBND huyện quyết định sau khi đã báo cáo UBND thành phố, tỉnh để đảm
bảo cân đối chung và được giao ổn định trong 3 năm. Hằng năm được tăng
thêm một phần theo tỉ lệ trượt giá do UBND tỉnh, thành phố quyết định và thu
bổ sung theo mục tiêu được giao hàng năm (không giao ổn định) do ủy ban
25
nhân dân huyện xem xét trên cơ sở đề nghị của xã và mục tiêu của ngân sách
cấp trên.
1.1.5.2. Về nhiệm vụ chi ngân sách xã
Chính quyền xã muốn thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội,
công tác quản lý quy hoạch, giải phóng mặt bằng bảo đảm trật tự giao thông
nông thôn, trật tự xây dựng trên địa bàn theo phân cấp quản lý của tỉnh, thành
phố văn cứ vào nguồn thu của mình, chính quyền xã thực hiện chi ngân sách
để hoàn thành các nhiệm vụ nêu trên. Những nhiệm vụ chi ngân sách xã được
thực hiện theo phân cấp quản lý kinh tế-xã hội của Hội đồng nhân dân tỉnh,
thành phố gồm chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên.
Đối với nhiệm vụ chi ngân sách xã phục vụ nhiệm vụ đầu tư phát triển là
nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội
của xã từ nguồn huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân cho từng dự án
nhất định theo quy định của pháp luật, do Hội đồng nhân dân xã quyết định
đưa vào ngân sách xã quản lý.
Chi đầu tư xây dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội khơng
có khả năng thu hồi vốn trực tiếp theo phân cấp của cấp tỉnh, thành phố.
Đối với các khoản chi ngân sách xã phục vụ nhiệm vụ thường xuyên,
đây là khoản chi chủ yếu của chính quyền cấp xã phục vụ cho hoạt động của
hệ thống chính trị ở xã, chi sự nghiệp kinh tế, y tế, văn hóa thơng tin, thể dục
thể thao, giáo dục, dân qn tự vệ, trật tự an toàn xã hội…
Một là, các khoản chi phục vụ hoạt động của cơ quan Đảng, nhà nước và
Mặt trận Tổ quốc Việt nam, các đoàn thể, Hội phụ nữ, Đồn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh ở xã gồm: Chi tiền lương, tiền cơng, đóng bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế và các khoản phục cấp khác theo quy định của nhà nước cho
cán bộ cơng chức cấp xã, tiền sinh hoạt phí cho đại biểu Hội đồng nhân dân,
tiền cơng tác phí cho cán bộ công chức xã. Các khoản chi về hoạt động văn