Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Chi ngân sách nhà nước đối với phát triển kinh tế xã hội ở huyện hải hà, tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.43 KB, 85 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống tài chính quốc gia, tài chính nhà nước (TCNN) giữ
vai trị chủ đạo, chi phối tồn bộ hệ thống tài chính. Sự vận động của các
quan hệ tài chính tập trung của Nhà nước được thể hiện ở ngân sách nhà
nước (NSNN). Tương ứng với mỗi cấp chính quyền nhà nước là một cấp
ngân sách nhà nước (NSNN). Ngân sách nhà nước là bộ phận quan trọng,
không những là điều kiện vật chất cần thiết để Nhà nước có thể thực hiện
được các chức năng nhiệm vụ của mình, mà cịn là cơng cụ để Nhà nước
tác động điều tiết vĩ mơ. Để có nguồn tài chính đảm bảo thực hiện đầy đủ
chức năng nhiệm vụ của Nhà nước ở mỗi cấp ngân sách, hàng năm mỗi
cấp chính quyền đều phải thực hiện việc lập và chấp hành dự toán thu, chi
ngân sách nhà nước sao cho có tác động tốt đến việc phát triển kinh tế xã
hội. Chính vì thế, NSNN đã, đang và sẽ còn là chủ đề nghiên cứu của
nhiều cơng trình khoa học.
Hải Hà là một huyện miền núi, biên giới nằm ở phía Đơng Bắc của tỉnh
Quảng Ninh với cơ cấu kinh tế là nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp tiểu thủ
công nghiệp và thương mại dịch vụ và đang có xu hướng dịch chuyển mạnh
sang cơ cấu nông lâm ngư nghiệp, dịch vụ thương mại và công nghiệp tiểu
thủ công nghiệp. Với điểm xuất phát là một huyện nông nghiệp là chủ yếu,
thu ngân sách thấp, thu không đủ chi hàng năm ngân sách tỉnh phải cân đối
trợ cấp trên 80%. Trong những năm gần đây, việc bố trí nguồn vốn NSNN cho
các lĩnh vực chi ở địa phương cịn dàn trải, tính bao cấp chưa được xoá bỏ
triệt để, hiệu quả đầu tư còn thấp; việc quản lý, sử dụng vốn đầu tư xây dựng
cơ bản và chi tiêu ngân sách còn nhiều thất thốt, lãng phí, tác động xấu đến
sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Xuất phát từ thực tế đó, là người trực
tiếp tham gia quản lý và phân bổ, giao dự toán chi NSNN của huyện Hải Hà,


2


tôi chọn đề tài “Chi Ngân sách nhà nước đối với phát triển kinh tế - xã hội
ở huyện Hải Hà tỉnh Quảng Ninh” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh
tế chính trị. Đây là vấn đề khơng chỉ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn ở huyện
Hải Hà, Quảng Ninh mà còn là vấn đề đang đặt ra cho các địa phương khác
trong cả nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có một số cơng trình nghiên cứu đã cơng bố liên quan đến NSNN và
quản lý chi NSNN như:
- Quản lý chi NSNN qua kho bạc nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa, Lương Quang Tịnh, Luận văn thạc sỹ năm 2000;
- Những biện pháp tăng cường quản lý chi Ngân sách nhà nước trên
địa bàn tỉnh Hải Dương, Đồn Thanh Bình, Luận văn cử nhân 2002;
- Phân phối qua ngân sách nhà nước nhằm phát triển kinh tế và đảm
bảo công bằng xã hội ở nước ta - Thực trạng và giải pháp, Đỗ Hoàng Anh
Tuấn, Vụ trưởng vụ NSNN - Bộ Tài chính 2004;
- Hồn thiện quy trình và phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sỹ kinh tế của Dương Ngọc Ánh,
Học viện Chính trị - Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004.
- Hoàn thiện quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Ninh Bình,
Luận văn thạc sỹ kinh tế của Dương Đức Quân, Học viện Chính trị - Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005.
- Giải pháp tăng cường quản lý chi ngân sách địa phương góp phần
thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh,
Luận văn thạc sỹ kinh tế của Trần Văn Lâm, Học viện Tài chính, Hà Nội, 2006.
- Đổi mới quản lý chi ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
góp phần thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luận văn thạc sỹ của Nguyễn
Thanh Toản, Học viện Chính trị - Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2007.


3

- Tác động chi Ngân sách nhà nước đến phát triển kinh tế - xã hội ở
tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị của Trần Văn Vinh, Học
viện Chính trị - Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2007.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác
nhau về quản lý NSNN và chi NSNN cũng như tác động chi NSNN đến phát
triển kinh tế xã hội nhưng chưa có cơng trình nào nghiên cứu tác động chi
NSNN đối với phát triển kinh tế - xã hội ở cấp huyện.
Vì vậy, đề tài nghiên cứu của luận văn được thực hiện trên cơ sở kế
thừa và phát triển những thành quả của các đề tài trước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu trong luận văn
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của luận văn: góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về chi
NSNN và tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội để làm cơ sở
cho việc đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện quan hệ phân
phối sử dụng các khoản chi NSNN để tác động tốt hơn đối với phát triển kinh
tế - xã hội ở huyện Hải Hà tỉnh Quảng Ninh.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về chi NSNN, tác động của chi NSNN
đối với phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chi NSNN trong 5 năm gần đây đối với
việc phát triển kinh tế - xã hội ỏ huyện Hải Hà tỉnh Quảng Ninh, qua đó rút ra
những thành cơng, những hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện mối quan hệ phân phối, sử
dụng các khoản chi NSNN để tác động tốt hơn đối với việc phát triển kinh tế xã hội ở huyện Hải Hà tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu trong luận văn
Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện dưới góc độ khoa học Kinh tế chính trị nên đối
tượng nghiên cứu của đề tài là các quan hệ kinh tế trong phân phối và sử dụng



4
các khoản chi NSNN (giữa tỉnh và huyện, giữa huyện và các xã) có tác động
trực tiếp và gián tiếp đối với viêc phát triển kinh tế - xã hội của huyện Hải Hà
tỉnh Quảng Ninh.
Phạm vi nghiên cứu: Trong luận văn chỉ nghiên cứu các khoản chi
thuộc NSNN địa phương của huyện Hải Hà tỉnh Quảng Ninh, Chi NSNN địa
phương bao gồm: chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi khác, trọng tâm
là nghiên cứu cơ cấu các khoản chi cho đầu tư phát triển.
Về thời gian: tập trung chi NSNN ở huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh
giới hạn trong giai đoạn 5 năm từ năm 2006 đến năm 2010 và đề xuất định
hướng, giải pháp cho giai đoạn 2011-2020.
5. Phương pháp nghiên cứu trong luận văn
Cơ sở phương pháp luận: Vận dụng phương pháp duy vận lịch sử để
nghiên cứu và trình bày các nội dung lý luận và thực tiễn.
Phương pháp nghiên cứu mang tính kỹ thuật: Luận văn sử dụng các
phương pháp như thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh,... để đưa ra các kết
quả nghiên cứu.
6. Những đóng góp khoa học trong luận văn
- Làm rõ các quan hệ kinh tế trong chi NSNN, rút ra những kết luận về
việc phân bổ và sử dụng các khoản chi NSNN đảm bảo phát triển kinh tế xã hội
cả nước nói chung và huyện Hải Hà tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
- Phân tích đánh giá thực trạng chi NSNN ở huyện Hải Hà Quảng Ninh,
qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm hồn thiện việc phân phối và sử dụng các
khoản chi NSNN trên địa bàn huyện nhằm đạt và vượt các mục tiêu kinh tế - xã
hội đã đề ra giai đoạn 2011- 2015 và các năm tiếp theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương.



5
Chương 1
CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ TÁC ĐỘNG
CỦA NÓ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

1.1.1. Chi ngân sách nhà nước
- Khái niệm chi NSNN
Quan niệm phổ biến hiện nay coi chi NSNN là một loại hoạt động phân
phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. Như vậy, có thể hiểu chi
NSNN diễn ra trong hai quá trình:
Quá trình phân phối các nguồn lực tài chính hình thành những quỹ nhỏ
và từ các quỹ nhỏ đó đưa chúng vào sử dụng theo yêu của các cơ quan, đơn vị
công quyền. Trong thực tế tùy theo đặc điểm của từng ngành, từng lĩnh vực và
từng giai đoạn và yêu cầu đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hôi mà người
ta phân chia quỹ NSNN thành những qũy như quỹ giáo dục, đào tạo, quỹ khoa
học cơng nghệ, quỹ mơi trường...Từ đó, theo u cầu của từng ngành, từng
lĩnh vực mà người ta đưa chúng vào sử dụng theo nguyên tắc, yêu cầu riêng
của mỗi quỹ, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực.
Quá trình sử dụng trực tiếp từ nguồn NSNN khơng thơng qua q trình
phân phối. Trong thực tế có những khoản chi NSNN mà khơng thơng qua q
trình phân phối mà sử dụng trực tiếp từ nguồn NSNN như chi đầu tư xây
dựng cơ bản hoặc chi cho các trương trình kinh tế có mục tiêu.
Chính vì thế, chi NSNN là những hoạt động cụ thể về mặt tài chính,
chứ khơng dừng lại những định hướng chung mà phải phân bổ cho từng mục
tiêu, từng công việc, từng lĩnh vực cụ thể thuộc chức năng nhiệm vụ của Nhà
nước. Nói chung mỗi một chế độ xã hội, mỗi một giai đoạn lịch sử khác nhau



6
có những khoản chi và mức độ chi của từng khoản khác nhau Cho dù có sự
khác nhau về khoản chi, mức chi của từng khoản, song chúng đều có một số
đặc điểm chung.
- Những đặc điểm chung của chi NSNN
Thứ nhất, khoản chi, mức chi của NSNN luôn gắn chặt với chức
năng ,nhiệm vụ của Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử.
Trong mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, vai trị của Nhà nước
bao trùm tất cả các hoạt động kinh tế, xã hội của đất nước. Nhà nước trực tiếp
hoạt động kinh tế. Nhà nước chăm toàn bộ đời sống tinh thần, vật chất của
từng lớp nhân dân. Nhà nước đảm đương mọi hoạt động dịch vụ cơng. Với
vai trị như vậy, tất yếu quy mô chi NSNN gia tăng, phần do tổ chức bộ máy
quá cồng kênh, phần do gia tăng các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước,cơ
cấu các khoản chi NSNN trở nên phức tạp, nhiều khoản chi của NSNN đáng
ra có thể chuyển giao cho các thành phần kinh tế khác.
Ngược lại, trong nền kinh tế hổn hợp vừa có sự kết hợp giữa bàn tay vơ
hình của cơ chế thị trường và bàn tay hữu hình-sự quản lý của Nhà nước thì
vai trị của Nhà nước có nhiều thay đổi căn bản. Nhà nước không thực hiện
bao cấp tràn lan, không trực tiếp thực hiện các hoạt động kinh tế. Nhà nước
chỉ thực hiện đầu tư vào các hàng hóa, dịch vụ cơng xét thấy những hàng hóa,
dịch vụ cơng đó khu vực tư nhân khơng có khả năng, khơng muốn và khơng
được phép đầu tư. Với vai trị như vậy, tất yếu chi NSNN cũng sẽ có nhiều
thay đổi cả về quy mơ và cơ cấu.Từ những phân tích trên cho thấy một trong
những đặc điểm của chi NSNN là gắn với chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
qua mỗi giai đoạn lịch sử.
Thứ hai, tiêu chí để xem xét hiệu quả của chi NSNN là sự so sánh lợi
ích kinh tế, xã hội tồn cục với chi phí bỏ ra. Nghĩa là việc xem xét hiệu quả
của các khoản chi NSNN phải đứng trên quan điểm lợi ích tồn cục, lợi ích
của đất nước, phải tính đến tính chất lan tỏa của một khoản chi cụ thể đối với



7
tất cả các mặt hoạt động kinh tế xã hội. Hơn nữa, việc xem xét hiệu quả của
khoản chi NSNN khơng chỉ dừng lại khía cạnh kinh tế mà cịn cả khía cạnh xã
hội. Đây là đặc điểm quan trọng cho thấy hiệu quả của các khoản chi NSNN
khác với hiệu quả các khoản chi của các doanh nghiệp, của thành phần kinh tế
phi nhà nước. Chỉ tiêu duy nhất đánh giá hiệu quả của khu vực phi nhà nước
là lợi nhuận. Lợi nhuận là mục tiêu tối thượng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của các thành phần kinh tế phi nhà nước. Đối với các thành phần kinh
tế phi nhà nước hoạt động kinh doanh mà khơng có lợi nhuận đồng nghĩa với
vấn đề phá sản không thể tồn tại. Những sự khác biệt đó, hồn tồn khơng
mang ý nghĩa tuyệt đối, trong một số khoản chi NSNN cần phải được xem xét
đánh giá hiệu quả bằng chỉ tiêu lợi nhuận, nhất là trong cơ chế thị trường. Dù
có những khoản chi như vậy, song nhìn tổng thể khi xem xét hiệu quả các
khoản chi NSNN phải đứng trên góc nhìn vĩ mơ, lấy lợi ích tồn cục, lợi ích
đất nước làm tiêu chí cơ bản để đánh giá hiệu quả.
Thứ ba, chi NSNN là những khoản chi khơng hồn trả trực tiếp. Nói
chung những khoản cấp phát từ NSNN cho các ngành, các cấp, cho các hoạt
động văn hóa, xã hội, giúp đỡ người nghèo... khơng địi hỏi phải ngang giá
hoặc hoàn lại cho Nhà nước mà kết quả hoạt động đó thúc đẩy kinh tế xã hội
phát triển tạo tiền đề cho tăng thu NSNN, đó là hình thức hồn trả gián tiếp.
Đặc điểm này giúp ta phân biệt các khoản chi NSNN với tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng được thiện theo nguyên tắc có vay có trả cả gốc lẫn lãi
theo từng khoản tín dụng. Tất nhiên, đối với một số khoản chi NSNN vẫn
mang dáng dấp tín dụng. Song đây là tín dụng đặc biệt với lãi suất thấp hoặc
khơng có lãi suất, thời gian cho vay dài, chẳng hạn như khoản chi giải quyết
việc làm, chi xóa đói giảm nghèo...Thực chất đây là những khoản cho vay đặc
biệt của NSNN.
Thứ tư, chi NSNN với sự vận động của các phạm trù giá trị như lãi

suất, tỷ giá, tiền lương, giá cả ln có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.


8
Chi NSNN có thể thúc đẩy sự vận động tích cực của các phạm trù giá trị cũng
có thể làm sai lệch sự vận động của các phạm trù giá trị gây ảnh hưởng tiêu
cực đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Ngược lại sự vận động của các
phạm trù giá trị có thể ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu các khoản chi. Đây là
đặc điểm quan trọng cần phải được nhận thức đầy đủ khi bố trí các khoản chi
của NSNN. Việc bố trí các khoản chi của NSNN phải cân nhắc đến xu hướng
vận động của các phạm trù giá trị một cách tinh tường. Từ nhận thức rõ đặc
điểm này, Nhà nước sử dụng chi NSNN như là một công cụ để điều chỉnh các
giai đoạn của chu kỳ kinh tế.
Tóm lại, việc nghiên cứu những đặc điểm cơ bản, chủ yếu trên đây của
chi NSNN có ý nghĩa quan trọng trong việc bố trí, quyết định và quản lý các
khoản chi NSNN cho dù các khoản chi đó thuộc NSTW hay NSĐP.
- Vai trò của chi ngân sách nhà nước.
Suy cho cùng chi NSNN là việc Nhà nước tung một khoản tiền vào thị
trường để thực hiện các mặt hoạt động kinh tế xã, hội mà xã hội giao cho Nhà
nước đảm nhận. Đồng tiền của NSNN được tung vào khâu lưu thơng nó có
thể đóng vai trị tích cực mà cũng có thể đóng vai trị tiêu cực đối q trình
phát triển kinh tế xã hội.
Vai trị tích cực của nó có thể làm cho kinh tế tăng trưởng, giải quyết tốt
cơng ăn việc làm, hạn chế thất nghiệp, kìm chế tình trạng lạm phát, khơi phục
hoạt động kinh tế của các thành phần khác khi nền kinh tế ở vào giai đoạn suy
giảm. Vai trị tích cực này chỉ có thể có được khi các cơ quan cơng quyền
quyết định các khoản chi đúng đắn, thích ứng với điều kiện cụ thể của qúa
trình phát triển kinh tế, xã hội, biết bố trí các khoản chi đúng lúc đúng nơi.
Tuy nhiên, nếu bố trí, quyết định các khoản chi khơng đúng đắn, lãng phí,
khơng hiệu quả thì cũng có thể dẫn đến tiêu cực, lạm phát tăng, cơ cấu kinh tế

què quặt, tăng trưởng kinh tế giảm sút, mất cân đối lớn trong nền kinh tế, nợ
nần chồng chất, nguy cơ khủng hoảng nợ cơng khó tránh khỏi.


9
1.1.2. Phân loại các khoản chi ngân sách nhà nước
Phân loại chi NSNN là sự sắp xếp các khoản chi NSNN có những điểm
giống nhau về tính chất, nội dung thành một nhóm. Mục đích phân loại chi
NSNN là để so sánh đối chiếu, phân tích các nhóm chi NSNN, từ đó tìm ra
biện pháp bố trí, quản lý các nhóm chi một cách hợp lý. Đặc biệt, trong điều
kiện hội nhập kinh tế, phân loại các khoản chi NSNN để từ đó có thể cung cấp
những thơng tin cần thiết về chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế,
tài chính nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư của nước ngồi.
Trong thực tế, tùy theo những mục đích khác nhau mà người ta lựa
chọn các tiêu thức phân loại chi NSNN. Sau đây là một số tiêu thức chủ yếu
phân loại chi NSNN mà ngân sách Việt nam đang áp dụng:
Tiêu thức thứ nhất, dựa vào cách phân loại theo ngành kinh tế quốc dân.
Đây là cách phân loại dựa vào chức năng của Chính phủ, của các cấp
chính quyền đối với nền kinh tế, xã hội thể hiện qua các ngành kinh tế như:
nông-lâm- thủy lợi; thủy sản; công nghiệp khai thác mỏ; công nghiệp chế biến
xây dựng; khách sạn....
Phân loại chi NSNN theo ngành kinh tế nhằm mục đích so sánh chi
NSNN giữa các nước được thuận lợi theo Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA)
và Cẩm năng thống kê tài chính của Chính phủ do Liên Hợp Quốc xây dựng.
Hơn nữa, việc phân loại chi theo ngành kinh tế cịn tạo điều kiện phân tích,
đánh giá chính sách chi ngân sách của Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử,
xem chính sách chi đó có phù hợp với chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước
đảm nhận hay không.
Cách phân loại thứ hai, dựa vào nội dung kinh tế của các khoản chi NSNN.
Căn cứ vào nội dung kinh tế, người ta có thể phân các khoản chi thành 4 nhóm:

Nhóm 1: nhóm chi thường xuyên
Theo quan niệm hiện hành nhóm chi thường xuyên là nhóm chi có tính
chất tiêu dùng nhằm thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên của Nhà nước, có
thời gian tác dụng ngắn. Thuộc nhóm chi thường xuyên bao gồm các khoản chi:


10
+ Chi thanh toán cho cá nhân như: tiền lương, tiền công, phụ cấp
lương, học bổng sinh viên, tiền thưởng, phúc lợi tập thể, các khoản chi mang
tính chất đóng góp thêm của ngân sách: chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
kinh phí cơng đồn...
+ Chi mua sắm hàng hóa,dịch vụ phục vụ cho hoạt động của các cơ
quan công quyền như: chi điện, nước, vệ sinh môi trường, vật tư văn phịng,
dịch vụ thơng tin, tun truyền, hội nghị, cơng tác phí, chi phí nghiệp vụ
chun mơn của từng cơ quan đơn vị.
+ Chi trả lãi tiền vay, các khoản lệ phí liên quan đến khoản vay của
Nhà nước.
+ Các khoản chi khác như chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, chi xử lý
tài sản được xác lập quyền sở hữu của Nhà nước...
Nhóm 2, chi đầu tư phát triển là nhóm chi có thời gian tác dụng dài,
nhóm chi làm tăng cơ sở vật chất của xã hôi, tạo điều kiện làm tăng nguồn thu
của NSNN. Thuộc vào nhóm chi đầu tư phát triển bao gồm các khoản chi:
+ Chi đầu tư xây dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội
khơng có khả năng thu hồi vốn như cơng trình giao thơng, điện lực, bưu chính
viễn thơng...
+ Chi mua sắm hàng hóa,vật tư dự trữ của Nhà nước.
+ Chi đầu tư hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước
+ Chi góp vốn cổ phần liên doanh vào các doanh nghiệp cần thiết có
sự tham gia của Nhà nước
+ Chi cho các chương trình quốc gia, dự án của Nhà nước.

Ngồi ra 2 nhóm chi chính trên đây, chi NSNN cịn được phân ra
nhóm chi: Chi cho vay hỗ trợ quỹ và tham gia góp vốn của Chính phủ; chi trả
nợ gốc của Nhà nước.
Trong số 4 nhóm chi trên, chi NSĐP chủ yếu thuộc 2 nhóm chi: chi
thường xuyên và chi đầu tư phát triển.


11
Việc phân loại các khoản chi thành nhóm chi thường xuyên và nhóm
chi đầu tư phát triển là hết sức cần thiết trong quản lý NSNN. Bởi lẽ nó cho
phép đánh giá, so sánh các khoản chi thường xuyên phải bỏ ra cho hoạt động
động kinh tế-xã hội của Nhà nước, làm cơ sở để xác định hiệu quả hoạt động
của các đơn vị, hơn nữa, về mặt kỹ thuật quản lý hai nhóm chi này cũng có
những điểm khác nhau. Trong khi chi đầu tư phát triển kỹ thuật lựa chọn các
dự án là dựa trên sự phân tích đánh giá chi phí và lợi ích trong dài hạn. Nếu
muốn tăng trưởng kinh tế trong dài hạn thì tất yếu phải ưu tiên bố trí nhóm chi
đầu tư phát triển cụ thể là cho các chương trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế-xã hội. Mặt khác, cách phân loại này cũng góp phần cung cấp thơng
tin cần thiết cho quản lý NSNN, đáp ứng mục đích thống kê tài chính của
Chính phủ, đồng thời giúp cho việc kiểm soát tuân thủ các tiêu chuẩn định
mức chi của Nhà nước và phân tích kinh tế bảo đảm cân đối giữa các nhóm
mục chi.
Cách phân loại thứ ba, dựa vào tổ chức hành chính
Phân loại theo tổ chức bộ máy hành chính là cách thiết để xác định rõ
trách nhiệm quản lý chi tiêu công của từng bộ, ngành, cơ quan, đợn vị và
cũng rất cần thiết cho việc quản lý ngân sách hàng ngày của KBNN. Dựa vào
tổ chức bộ máy hành chính nhà nước phân các khoản chi NSNN theo bộ, tổng
cục, cục, sở, ban hoặc cơ quan đơn vị thụ hưởng NSNN theo cấp quản lý từ
trung ương đến tỉnh, huyện, xã.
Cách phân loại thứ tư, dựa theo đơn vị dự tốn.

Mục đích của cách phân loại này là nhằm làm rõ trách nhiệm quản
lý NSNN của từng cấp và nhằm thực hiện công tác kế toán, kiểm toán,
quyết toán NSNN. Hiện nay ở nước ta người ta phân các đơn vị dự toán
thành 3 cấp:
- Đơn vị dự toán cấp I là đơn vị dự toán trực tiếp nhận dự toán NSNN
do Thủ tướng hoặc Ủy ban nhân dân giao. Đơn vị dựa toán cấp I có trách


12
nhiệm thực hiện phân bổ, giao dự toán cho đơn vị cấp dưới trực thuộc đồng
thời chịu trách nhiệm trước Nhà nước về tổ chức, thực hiện công tác kế tốn,
quyết tốn NSNN của đơn vị mình và cơng tác kế toán, quyết toán ngân sách
của các đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc
- Đơn vị dự toán cấp II là đơn vị dự toán cấp dưới của đơn vị dự toán
cấp I, được đơn vị dự toán cấp I giao dự tốn chi và có trách nhiệm phân bổ
dự toán được giao cho đơn vị dự toán cấp III trong hợp được ủy quyền của
đơn vị dự toán cấp I, đồng thời chịu trách nhiệm về công tác kế tốn, quyết
tốn ngân sách của đơn vị mình và đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc.
- Đơn vị dự toán cấp III là đơn vị trực tiếp sử dụng các khoản chi
NSNN, là đơn vị được đơn vị dự toán cấp I hoặc đơn vị dự toán cấp II giao dự
tốn chi, có trách nhiệm tổ chức cơng tác kế tốn, quyết tốn NSNN của đơn
vị mình hoặc của đơn vị sử dụng NSNN (nếu có).
Tóm lại, trong thực tế, tùy theo yêu cầu quản lý và phân tích tình hình
sử dụng chi NSSS mà có nhiều tiêu thức phân loại chi NSNN khác nhau.Trên
đây là một số cách phân loại chủ yếu.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi ngân sách nhà nước
Qua phân loại các khoản chi NSNN có thể nhìn nhận các khoản chi
NSNN dưới những góc độ khác nhau, song mức độ, cơ cấu chi của NSNN
chịu sự chi phối bởi nhiều nhân tố khác nhau.Nghiên cứu, hiểu rõ các nhân tố
đó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc bố trí và quản lý NSNN của chính

quyền trung ương cũng như chính quyền địa phương. Có thể kể ra một số
nhân tố chủ yếu, chi phối phối đến mức độ cơ cấu chi NSNN sau đây:
Nhân tố thứ nhất, quy mô, cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của
bộ máy nhà nước.
Quy mô, cơ cấu chi NSNN phản ánh quy mô, cơ cấu, chức năng,
nhiệm vụ của bộ máy Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử của quá trình
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.


13
Ở Việt Nam, trong mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước
có vai trị bao trùm tồn bộ hoạt động kinh tế, xã hội của đất nước. Nhà nước
trực tiếp làm kinh tế, Nhà nước trực tiếp cung cấp tồn bộ các dịch vụ cơng
cộng cho người dân. Nhà nước chăm lo từng cây kim, sợi chỉ cho người dân.
Tóm lại Nhà nước hầu như làm tất cả. Chính với chức năng, nhiệm vụ bao
trùm như vậy của Nhà nước cho nên quy mô bộ máy lớn, cơ cấu tổ chức phức
tạp. Gánh nặng chi NSNN ngày càng lớn, cơ cấu chi NSNN cũng theo đó trở
nên phức tạp.
Chuyển sang kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, nhiệm vụ
phát triển kinh tế, xã hội tất yếu có sự phân chia giữa Nhà nước với các thành
phần kinh tế khác.Vai trò kinh tế, xã hội của Nhà nước có nhiều thay đổi. Nhà
nước chỉ đảm đương cung cấp những hàng hóa, dịch vụ cơng cộng cơ bản
theo nguyên tắc chỉ những hàng hóa, dịch vụ công cộng nào mà khu vực tư
nhân không thể đảm đương, không muốn đảm đương và không được phép
đảm đương. Nhà nước tập trung nhiều hơn vào nhiệm vụ có tính chất xã hội.
Với sự thay đổi đó, tất yếu quy mơ và cơ cấu chi NSNN cũng có nhiều thay
đổi. Chi NSNN chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu, cơ
bản không có khả năng thu hồi vốn, tập trung chi nhiều hơn cho vấn đề bảo
đảm an sinh xã hội, các khoản chi NSNN chủ yếu hướng vào việc thực hiện
các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Trong bối cảnh cải cách hành

chính, thu hẹp đầu mối tổ chức bộ máy nhà nước, chi NSNN cho bộ máy quản
lý theo đó cũng phải được thu hẹp.
Nhân tố thứ hai, thực trạng tình hình kinh tế, xã hội của đất nước.
Thực trạng tình hình kinh tế, xã hội của một nước được phản ánh qua
các chi tiêu kinh tế, xã hội như: tốc độ tăng trưởng kinh tế; thu nhập bình
quân đầu người; năng suất lao động, doanh lợi của nền kinh tế, khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế, tình trạng đói nghèo...Nếu những chỉ tiêu trên phát triển
theo chiều hướng tích cực ổn định và bền vững là tiền đề quan trọng cho việc


14
tăng nguồn thu của NSNN thì tất yếu khả năng chi NSNN cho hoạt động kinh
tế, xã hội có điều kiện được cải thiện, ngược lại khi các chỉ tiêu trên phát triển
không thuận lợi,không những nguồn thu của NSNN giảm sút mà nhu cầu chi
NSNN đòi hỏi phải gia tăng để bảo đảm cho nền kinh tế không rơi vào tình
trạng suy giảm, thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân, khơi phục lại tồn dụng
nhân cơng của nền kinh tế.
Như vậy, có thể nói tình trạng kinh tế xã hội của đất nước vừa tạo
thuận lợi, vừa đặt ra nhiều thách thức đối với chi NSNN trong một mơ hình
kinh tế hổn hợp vừa có sự kết hợp giữa bàn tay hữu hình và bàn tay vơ hình.
Nhân tố thứ ba, sự vận động của phạm trù giá trị trong nền kinh.
Trong nền kinh tế thị trường, xuất hiện rất nhiều phạm trù giá trị như
tiền lương, lãi suất, tiền tệ, tỷ gía, giá cả hàng hóa, dịch vụ...Ở một góc độ
nào đó sự vận động của các phạm trù giá trị là nhiệt kế của nền kinh tế. Khi
nền kinh tế khỏe mạnh thì sự vận động của phạm trù này theo hướng tác
nhân chi phối đến hiện trạng tích cực. Ngược lại, khi nền ốm kinh tế yếu
thì sự vận động của các phạm trù giá trị theo chịu hướng tiêu cực. Sự vận
động của các phạm trù giá trị không chỉ phản ánh mà là tác nhân chi phối
đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Khi sự vận động của
các phạm trị giá trị theo hướng tiêu cực sẽ có ảnh hưởng khơng tốt đến q

trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Để đảm bảo cho quá trình phát
triển kinh tế xã hội ổn định, bền vững, địi hỏi phải có sự can thiệp nhất
định của Nhà nước vào sự vận động của các phạm trù giá trị. Nhà nước có
thể sử dụng nhiều cơng cụ pháp luật, hành chính,kinh tế để can thiệp.
Trong nền kinh tế thị trường công cụ quan trọng là công cụ kinh tế. Nhà
nước có thể sử dụng cơng cụ chi NSNN để can thiệp. Quy mô, cơ cấu chi
NSNN tất yếu vừa phản ánh sự vân động của các phạm trù giá trị vừa chịu
sự chi phối nhất định của hiện trạng vận động của các phạm trù giá trị . Nói
chung khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát, giá cả đầu vào tăng cao


15
bắt buộc mức chi NSNN cho một hoạt động nào đó phải gia tăng cho dù khối
lượng các hoạt động đó khơng thay đổi.
Nhân tố thứ tư, hội nhập với nền kinh tế thế giới, thực hiện các cam
kết quốc tế trong lĩnh vực tài chính,ngân sách.
Mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới là một xu hướng tất yếu của
thời đại. Mở cửa, hội nhập với nền kinh tế bên ngồi mang đến luồng sinh khí
mới cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, song hội nhập, mở
cửa bắt buộc phải tuân thủ những quy định của quốc tế trong lĩnh vực kinh tế,
tài chính. Chẳng hạn như khi chúng ta trở thành thành viên thứ 150 của WTO,
bắt buộc chung ta phải cắt giảm thuế quan, không được dùng các biện pháp
phi thuế quan để bảo vệ nền sản xuất nội địa, không được dùng các biện pháp
biện pháp tài trợ về tài chính cho hàng hóa xuất khẩu, đối xử bình đẳng trong
quan hệ thương mại theo các nguyên tắc của thương mại tự do....Chính sự
tham gia vào một sân chơi chung của quốc tế với những quy định ràng buộc
đã có ảnh hưởng đến quy mơ và cơ cấu chi NSNN.
Tóm lại, trong thực tế, quy mơ, cơ cấu chi NSNN chịu nhiều nhân tố
ảnh hưởng. Tuy nhiên 4 nhân tố trên đây là 4 nhân tố cơ bản chi phối đến chi
NSNN nói chung và chi NSĐP nói riêng. Nghiên cứu 4 nhân tố trên có ý

nghĩa thực tế rất quan trọng trong việc bố trí và quản lý các khoản chi NSNN.
Mặt khác, ở một góc độ nào đó, 4 nhân tố trên đây cũng có phần chi phối đến
các nguyên tắc của chi NSNN nói chung.
1.1.4. Các nguyên tắc chi ngân sách nhà nước
Trong một nền kinh tế hổn hợp, chi NSNN có vai trị cực kỳ quan
trọng đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Do đó, khơng
thể bố trí các khoản chi NSNN một cách tùy tiện, thiếu sự phân tích hồn
cảnh cụ thể làm ảnh hưởng xấu đến q trình phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước.Vì vậy, việc tổ chức, bố trí các khoản chi NSNN phải tuân thủ các
nguyên tắc nhất định. Những nguyên tắc đó là:


16
Một là, phải gắn chặt khả năng thu để bố trí các khoản chi.
Thực hiện nguyên tắc này nhằm bảo đảm tính cân đối của NSNN một trong những yêu cầu quan trọng trong điều hành NSNN. Một ngân sách
mất cân đối đưa đến nhiều hệ lụy khó lường cho quá trình phát triển kinh tế,
xã hội của đất nước như lạm phát, khủng hoảng nợ cơng...Do đó, phấn đấu để
có một NSNN cân đối ln là mục tiêu thường trực của mọi Nhà nước. Để có
một ngân sách cân đối khơng thể bố trí các khoản chi NSNN mà khơng có
nguồn thu bảo đảm. Trong bối cảnh khủng hoảng nợ cơng đang là vấn đề
nóng bỏng của thế giới và hiệu quả của các khoản chi NSNN đang làm đau
đầu đối với Nhà nước thì cần phải hết sức thực hiện nguyên tắc này trong việc
bố trí các khoản chi NSNN.
Hai là, tổ chức, bố trí các khoản chi NSNN phải bảo đảm nguyên tắc
tiết kiệm và hiệu quả.
Các khoản chi NSNN nói chung có đặc điểm là bao cấp và khối lượng
chi lớn. Đã là bao cấp nên về mặt tâm lý các cơ quan, đơn vị thụ hưởng
NSNN thì ít quan tâm đến u cầu tiết kiệm và hiệu quả. Trong thực tế, trải
qua thời gian dài với quan điểm chi với bất cứ giá nào miễn là được việc nhất
là trong thời kỳ chiến tranh đã hằn sâu trong tư tưởng của một bộ phận quản

lý, gây ra lãng phí, kém hiệu quả trong việc sử dụng các khoản chi của NSNN
đặc biệt là trong XDCB. Hơn nữa, như chúng ta biết nguồn lực tài chính của
NSNN là kết quả lao động cuả nhân dân, nhân dân đóng góp là để phục vụ
nhân dân, khơng cho phép một ai sử dụng phung phí nguồn lực đó vì lợi ích
của mình.
Đương nhiên, để thực hiện ngun tắc tiết kiệm hiệu quả cần thiết
phải bố các khoản chi của NSNN một cách hợp lý, phải xây dựng thứ tự ưu
tiên các khoản chi, phải dựa trên những tiêu chuẩn, định mức chi được xây
dựng có căn cứ khoa học và thực tiễn, tổ chức các khoản chi theo chương
trình mục tiêu.


17
Ba là, tổ chức, bố trí, phân bổ các khoản chi NSNN phải có trọng điểm.
Nhu cầu chi NSNN rất đa dạng, song nguồn lực tài chính của NSNN
thì có hạn. Do đó, khơng thể bố trí các khoản chi NSNN một cách tràn lan
mà phải bố trí, phân bổ các khoản chi NSNN phải có trọng điểm, nghĩa là
phải trên cơ sở phân tích, đánh giá, xem xét các nhiệm vụ phát triển kinh
tế, xã hội do Nhà nước đảm nhận, nhiệm vụ là trọng tâm, cấp bách và có
tác động lớn đến việc thực hiện các nhiệm vụ khác để bố trí phân bổ các
khoản chi của NSNN.
Có thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc này, mới bảo đảm cho các
khoản chi của NSNN tiết kiệm hiệu quả, đồng thời các cấp chính quyền
khơng bị động khi nguồn lực tài chính từ NSNN cịn eo hẹp.
Bốn là, thực hiện nguyên tắc “ nhà nước và nhân dân cùng làm” trong
việc bố trí một số khoản chi của NSNN.
Trong một nền kinh tế hổn hợp, sự kết hợp giữa Nhà nước với các
thành phần kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội là nét mới của nền
kinh tế hổn hợp, nhất là trong việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ cơng cộng. Sự
phối hợp giữa khu vực tư nhân với Nhà nước trong việc cung cấp hàng hóa,

dịch vụ cơng cộng khơng chỉ giám bớt gánh nặng cho NSNN mà là nâng cao
ý thức, trách nhiệm của nhân dân, của các thành phần kinh tế trong việc giữ
gìn, khai thác có hiệu quả các cơng trình cơng cộng phục vụ cho quá trình
phát triển kinh tế xã hội. Ở đây các khoản chi của NSNN đóng vai trị như là
một vốn “mồi” để khuyến khích, tạo điều kiện thu hút nguồn đầu tư vốn của
các khu vực khác nhằm phát triển các hàng hóa, dịch vụ cơng cộng.
Năm là, trong việc bố trí, phân bổ các khoản chi NSNN phải dựa trên
cơ sở phân cấp quản lý kinh tế xã hội cho chính quyền các cấp.
Phân cấp nhiệm vụ quản lý kinh tế, xã hội cho từng cấp chính quyền là
một trong những nét mới trong điều hành của Nhà nước, nó vừa phát huy lợi
thế của từng vùng, từng miền, từng địa phương vừa nâng cao trách nhiệm của
từng cấp chính quyền trong q trình điều hành đất nước. Trong phân cấp


18
quyền hạn và trách nhiệm điều hành đất nước cho các cấp chính quyền đã xác
định rõ phạm vi mức độ, lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội mà từng cấp chính
quyền phải đảm nhận. Theo đó việc bố trí các khoản chi NSNN phải phù hợp
với phạm vi, mức độ thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xá hội mà từng
cấp chính quyền đảm nhận. Thốt ly ngun tắc này khơng những gây khó
khăn cho các cấp chính quyền trong việc thực hiện nhiệm vụ mà cịn dẫn đến
sự bố trí các khoản chi NSNN chồng chéo, lãng phí.
Sáu là, ln có sự phân tích, đánh giá sự vận động của các phạm trù
giá trí trong nền kinh tế.
Quan hệ giữa chi NSNN với các phạm trù giá trị vận động trong nền
kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau. Việc bố trí quy mơ,
mức độ, cơ cấu của từng khoản chi NSNN dựa trên kết quả phân tích đánh giá
sự vận động của các phạm trù giá trị không chỉ có tác dụng bố trí các khoản
chi NSNN bảo đảm được nguồn tài chính của NSNN cho yêu cầu phát triển
kinh tế xã hội mà cịn có tác dụng thơng qua việc bố trí các khoản chi để góp

phần điều chỉnh sự vận động của các phạm trù giá trị theo hướng có lợi cho
q trình phát triển kinh tế, xã hội.
1.2. TÁC DỤNG CÁC KHOẢN CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI

1.2.1. Tổng quan về tác dụng các khoản chi ngân sách nhà nước
đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước nói chung và của
từng địa phương nói riêng
Về đại thể, chi NSNN có hai tác dụng cơ bản đối với quá trình phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước: (i) cung cấp nguồn lực tài chính để trang
trải các phí tổn trong q trình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội
do Nhà nước đảm nhận, (ii) góp phần điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô
của Nhà nước.


19
a. Cung cấp nguồn lực tài chính
Để thực hiện nhiệm vụ kinh tế, xã hội, tất yếu Nhà nước phải có
nguồn kinh phí. Nguồn kinh phí để Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế,
xã hội được lấy từ NSNN thơng qua việc bố trí các khoản chi NSNN. Chi
NSNN thực chất là Nhà nước lấy nguồn lực tài chính từ NSNN để trang trải
các phí tổn phát sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kinh tế, xã hội của
mình. Khơng có các khoản chi NSNN, Nhà nước không thể thực hiện được
các nhiệm vụ kinh tế, xã hội do mình đảm nhận. Tuy nhiên việc lấy nguồn lực
tài chính từ NSNN thơng qua việc bố trí các khoản chi NSNN để trang trải
các phí tổn phát sinh trong q trình thực hiện nhiệm vụ khơng phải được
thực hiện một cách tùy tiện mà đòi phải cân nhắc, tính tốn sao cho bảo đảm
được u cầu tiết kiệm và đạt được hiệu quả cao. Với yêu cầu chi phí ít nhất,
nhưng đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình thực thi nhiệm vụ kinh tế,
xã hội của Nhà nước. Đó là ngun tắc cần tính đến trong việc bố trí các

khoản chi của NSNN.
b, Chi NSNN là một trong những cơng cụ quan trọng góp phần điều
chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước
Trong lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế, đã có khơng ít học
thuyết kinh tế phủ định vai trị can thiệp của Nhà nước đối với sự vận động
của nền kinh tế thị trường, họ cho rằng Nhà nước càng ít can thiệp thì nền
kinh tế càng phát triển tốt. Điển hình cho tư tưởng này là trường phái tự do cổ
điển mà người đại diện nổi bật là Adam Smith. Theo ông khi nguyên tắc tự do
thị trường được tơn trọng thì cung cầu sẽ tự động điều chỉnh một cách hài
hịa. Nói cách khác, Nhà nước chỉ có thể thực hiện những nhiệm vụ giới hạn.
Học thuyết kinh tế của trường phái tự do cổ điển đã có tác dụng nhất định
trong những năm 30 trở về trước đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội ở
các nước châu Âu. Tuy nhiên, sự xuất hiện khủng hoảng kinh tế trong hệ
thống các nước tư bản sau những năm 30, người nhận thấy vai trò tự điều


20
chỉnh của kinh tế thị trường theo học thuyết của trường phái tự do cổ điển
khơng cịn thích hợp, nó khơng có khả năng san bằng các chu kỳ kinh tế.
Khủng hoảng kinh tế không thể giải quyết bằng thuyết tự điều chỉnh của
kinh tế thị trường mà phải có sự can thiệp của Nhà nước. Từ đó một lý
thuyết kinh tế mới xuất hiện- lý thuyết trọng cầu của M.J Keynes ra đời.
Trong cuốn sách nổi tiếng có tựa đề “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất
và tiền tệ”của mình, M.J keynes đã biện minh cho vai trị can thiệp kinh tế
của Nhà nước bằng các lập luận mang tính lý thuyết. Nếu như trường phái
tự do cổ điển nhấn mạnh đến vai trò quyết đinh cho quá trình phát triển
kinh tế là từ phía cung, thì ngược lại M.J Keynes lại cho rằng vai trò quyết
định là từ phía cầu. Ơng cho rằng cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 30
của thế kỷ XX ở các nước tư bản có ngun nhân từ phía cầu, do cầu tiêu
dùng, cầu đầu tư thiếu hụt. Từ đó, ơng đưa ra chính sách chống khủng

hoảng với ba biện pháp cơ bản:
Thứ nhất, duy trì cầu bằng cách loại trừ khả năng giảm tiền lương.
Theo M.J Keynes giảm tiền lương là một biện pháp nguy hiểm vì biện
pháp này sẽ gây ra tình trạng thiểu phát. Vì vậy, ngược lại, phải khuyến khích
duy trì cầu thơng qua tiền lương và giảm thuế.
Thứ hai, cần tiến hành một chương trình tổng thể với nền kinh tế
thông qua sự can thiệp của Nhà nước.
M.J Keynes khuyến cáo Nhà nước có thể trực tiếp khắc phục tình
trạng thiếu đầu tư tư nhân bằng một chính sách đẩy mạnh đầu tư của Nhà
nước, đặc biệt thơng qua các dự án cơng trình lớn. Đầu tư của Nhà nước, nhất
là đầu tư vào các chương trình dự án lớn sẽ có tác động kích thích thơng qua
tiền lương được phân phối và mức tăng sức mua do các hoạt động đầu tư
mang lại. Sức mua sẽ được nhân lên thông qua việc làm phát sinh từ các đơn
đặt hàng của các doanh nghiệp tham gia vào các cơng trình lớn.
Thứ ba, cần có sự tác động tới các bộ phận tiền tệ của nền kinh tế.


21
Keynes cho rằng tiền tệ không đơn thuần phản ánh hiện trạng nền kinh
tế mà bản thân tiền tệ cũng có thể làm thay đổi các thơng số của nền kinh tế.
Với quan điểm này, Keynes nhấn đến tầm quan trọng đến vấn đề lãi suất.
Theo ơng khơng có cơ chế thị trường nào mà tự thân nó có thể thường xun
điều chỉnh lãi suất với tình hình cơng nghệ, với hiệu suất của chi phí tư bản và
tâm lý của doanh nghiệp. Tác động của chính quyền thơng qua sự can thiệp
của NHTW là không thể thiếu. Cùng với vấn đề lãi suất, Keynes cũng nhấn
mạnh đến sự cần thiết phải duy trì một đồng tiền đặt dưới sự điều tiết. Ơng
cho rằng trong hồn cảnh thiểu phát, khơng nên ngần ngại tăng khối lượng
tiền tệ trong khâu lưu thông. Thâm hụt NSNN theo ông là một trong những
công cụ để tạo ra lượng tiền mới, tạo cơ sở cho hoạt động kinh tế.
Nói chung, những gợi ý về ba giải pháp của Keynes trong chính sách

khủng hoảng đều nhấn mạnh đến vai trò can thiệp của Nhà nước. Trong giai
đoạn nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, ngoài những giải pháp mang tính chất
phi kinh tế, nhất thiết Nhà nước phải sử dụng chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ. Trong chính sách tài khóa, có chính sách chi tiêu của NSNN. Tuy
theo sự diễn biến của nền hinh tế thiểu phát, hay lạm phát, Nhà nước sử dụng
chính sách chi NSNN cho thích hợp. Ở Việt nam trong giai đoạn từ cuối năm
2009 đến đầu năm 2010, nền kinh tế rơi vào tình trạng suy giảm, Nhà nước đã
vận dụng lý thuyết kinh tế của Keynes, tăng các khoản chi nhằm kích thích
cầu đầu tư và tiêu dùng từng bước phục hồi nền kinh tế. Ngược lại, vào
giữa năm 2010 và suốt trong năm 2011 nền kinh tế Việt nam rơi vào tình
trạng lạm phát, Nhà nước thặt chặt các khoản chi NSNN nhằm bảo đảm
cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững. Đó là nét chung trong
việc sử dụng chính sách chi của NSNN để điều chĩnh quá trình kinh tế theo
lý thuyết của Keynes, song trong thực tế hồn tồn khơng đơn giản như vậy
mà là việc sử dụng chính sách chi NSNN để điều chỉnh hoạt động kinh tế là
cả vấn đề nghệ thuật phải có sự phân tích tỷ mỷ hiện trạng của nền kinh tế


22
theo thời gian đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ với cơng cụ chính
sách tiền tệ và các cơng cụ khác. Nếu chỉ sử dụng chính sách chi NSNN
một cách đơn giản máy móc khơng những khơng bảo đảm cho nền kinh tế
phát triển ổn định, bền vững mà ngược lại làm cho nền kinh tế rơi vào tình
trạng phát triển mất cân đối, các mục tiêu kinh tế vĩ mơ của Nhà nước khó
có thể thực hiện một cách dễ dàng.
Qua phân tích trên cho thấy chi NSNN có tác động rất lớn đến tình
hình kinh tế của đất nước. Tác động tích cực hay tiêu cực của nó đến nền kinh
tế tùy thuộc vào nghệ thuật điều hành ngân sách của Nhà nước.
Tóm lại, trên đây là những phân tích tổng quan về tác động các
khoản chi NSNN đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội, tuy nhiên do

tính đặc thù của từng khoản chi của NSNN mà phạm vi, mức độ tác động
của các khoản chi đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội có những điểm
khác nhau.
1.2.2. Tác dụng của một số khoản chi ngân sách nhà nước chủ yếu
đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung và ở
địa phương nói riêng
1.2.2.1 Đối với khoản chi đầu tư phát triển
Chi đầu tư phát triển của NSNN là một quá trình phân phối, sử dụng
một phần vốn tiền tệ từ quỹ NSNN để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã
hội, phát triển sản xuất và dự trữ vật tư của Nhà nước nhằm thực hiện mục
tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội.
Đặc điểm cơ bản chi đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN là: Chi đầu tư
phát triển là khoản chi lớn nhưng không ổn định; xét trên phương diện mục
đích kinh tế, xã hội và thời gian tác dụng là khoản chi có tính chất tích lũy;
phạm vi và mức độ chi luôn gắn liền với việc thực hiện mục tiêu kế hoạch
phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ. Từ những đặc
điểm cơ bản của chi đầu tư phát triển, cho thấy chi đầu tư phát triển có tác


23
dụng rất quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội trên nhiều
phương diện. Cụ thể:
- Thông qua chi đầu tư phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật và năng lực
sản xuất phục vụ cho nền kinh tế được tăng cường, đổi mới, hoàn thiện, hiện
đại hóa; góp phần quan trọng hình thành và điều chỉnh cơ cấu của nền kinh tế.
Yếu tố có tính quyết định đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội của
một quốc gia là cơ sở vật chất kỹ thuật. Nói đến cơ sở vật chất kỹ thuật là nói
đến hệ thống giao thông đường sá, sân bay, hải cảng, điện lực, viễn thơng; nói
đến cơ sở trường học, bệnh viện, máy móc thiết bị...Một đất nước mà cơ sở
vật chất nghèo nàn, lạc hậu thì khơng thể phát triển kinh tế, xã hội. Muốn có

cơ sở vật chất đồng bộ, hiện đại đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội
điều tất phải đầu tư xây dựng. Đối với nước chuyển đổi mơ hình từ kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý như ở nước ta
trong khi tiềm năng nguồn vốn của các thành phần kinh tế phi nhà nước cịn
hạn chế ,thì nguồn vốn đầu tư của Nhà nước xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật
đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Chi NSNN cho đầu tư xây dựng các cơ sở vật
chất là sự thể hiện vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của đất nước. Thông qua chi NSNN cho đầu tư phát triển
không chỉ tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật mà còn tác dụng lơi kéo, kích thích
các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư làm tăng thêm cơ sở vật chất của nền
kinh tế. Ở khía cạnh này, có thể coi nguồn vốn NSNN chi cho xây dựng cơ cở
vật chất như là nguồn vốn “mồi” nhất là trong xây dựng các cơng trình phúc
lợi cơng cộng.
Hơn nữa, chi NSNN cho đầu tư phát triển không chỉ tạo ra cơ sở vật
chất mà cịn có tác dụng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việc thúc đẩy
cơ cấu kinh tế theo hướng nào ngồi các chính sách thì cịn tùy thuộc vào quy
mô, cơ cấu chi đầu tư phát triển của NSNN và tác dụng lan tỏa của từng
khoản chi đó. Chẳng hạn nếu quy mơ và cơ cấu chi đầu tư chú trọng đến việc


24
phát triển hệ thống điện lực thì khơng những cơ sở vật chất của điện lực gia
tăng mà có thể tạo điều kiện gia tăng cơ sở vật chất của các ngành khác khác
nhu nông nghiệp, giao thông vận tải....
- Thơng qua chi đầu tư phát triển từ NSNN góp phần thực hiện mục
tiêu ổn định kinh tế vĩ mô.
Như chúng ta biết mục tiêu tối thượng của kinh tế vĩ mô là bảo đảm
cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, bền vững, kìm chế được lạm phát, xã hội
có đầy đủ cơng ăn, việc làm, bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế.
Chi đầu tư phát triển từ nguồn NSNN góp phần thực hiện mục tiêu tối

thượng đó của kinh tế vĩ mơ. Mỗi một khi nền kinh tế lâm vào tình trạng suy
giảm, đầu tư của các thành phần kinh tế suy giảm, thất nghiệp gia tăng, doanh
lợi của nền kinh tế giảm sút, tăng trưởng của nền kinh tế chậm lại thậm chí trở
về âm. Trong bối cảnh đó sự gia tăng chi đầu tư phát như là một giải pháp
quan trọng giúp nền kinh tế hồi phục trở lại, làm cho đầu tư của xã hội sôi
động hơn, giảm bớt nạn thất nghiệp, niềm tin của xã hội đối sự lãnh đạo của
Nhà nước gia tăng. Ngược lại khi nền kinh tế lâm vào lạm phát cao, giá cả
tăng đột biến đời sống người làm cơng ăn lương gặp khó khăn, sự thối lui
các khoản chi đầu tư phát triển từ NSNN cũng là một biện pháp cứu vãn nền
kinh tế, góp phần đưa nền kinh tế ra khỏi cơn lốc của lạm phát, bảo đảm cho
nền kinh tế tăng trưởng trong thế ổn định và bền vững.
Tuy nhiên, những phân tích trên đây về tác dụng của chi đầu tư phát tư
nguồn NSNN mới nghiêng về khía cạnh tác động tích cực, song thực tế khơng
phải cứ bố trí các khoản chi đầu tư phát triển nào đều mang đến tác dụng tích
cực đối với nền kinh tế, nhất là việc bố trí các khoản chi cho đầu tư xây dựng
cơ bản. Đặc điểm xây dựng cơ bản là địa điểm sản xuất không ổn định; chu
kỳ sản xuất dài; sản phẩm mang tính chất đơn chiếc; tiến hành hoạt động
ngồi trời chịu ảnh hưởng nhiều các yếu tố tự nhiên; điều kiện làm việc năng
nhọc. Những đặc đặc điểm đó nếu khơng được nghiên cứu kỹ mà cứ bố trí các


25
khoản chi đầu tư xây dựng cơ bản có thể dẫn đến những tác động tiêu cực đối
đối với nền kinh tế, thất thốt, lãng phí khó tránh khỏi.
Tóm lại, tác dụng kinh tế, xã hội đối với khoản chi đầu tư phát triển từ
nguồn NSNN là làm thay đổi cơ sở vật chất kỹ thuật đối với nền kinh tế và
đồng thời tác động đến các mục tiêu kinh tế vĩ mơ của Nhà nước theo hai
trạng thái tích cực và tiêu cực. Tác dụng tích cực hay tiêu cực của các khoản
chi đầu tư phát triển của NSNN tùy thuộc vào cách thức, phương pháp tổ
chức bố trí các khoản chi đầu tư phát triển của Nhà nước có phù hợp với diễn

biến thực tiễn hay khơng, có được quản lý chặt chẽ hay không?
1.2.2.2. Tác dụng của các khoản chi thường xuyên
Chi thường xuyên của NSNN là quá trình phân phối, sử dụng vốn
NSNN để đáp ứng các nhu cầu chi gắn liền với thực hiện các nhiệm vụ của
Nhà nước về lập pháp, hành pháp, tư pháp và một số dịch vụ công cộng mà
Nhà nước vẫn phải cung cấp cho người dân. Đó là những khoản chi cho các
hoạt động sự nghiệp thuộc lĩnh vực văn - xã; sự nghiệp kinh tế; chi cho hoạt
động quản lý nhà nước; chi cho các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội và các tổ chức khác được cấp kinh phí từ NSNN; chi quốc phịng, an ninh,
trật tự an tồn xã hội. Đặc điểm chủ yếu của các khoản chi thường xun là có
tính ổn định, tác dụng trong một khoảng thời gian ngắn, gắn chặt với cơ cấu
tổ chức bộ máy Nhà nước và sự lựa chọn của Nhà nước.
Nghiên cứu các khoản chi và đặc điểm của khoản chi thường xuyên,
có thể khẳng định các khoản chi thường xuyên của NSNN có tác dụng to lớn
đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước nói chung và của từng
địa phương nói riêng, nhất là tác dụng ở khía cạnh xã hội. Cụ thể:
Thứ nhất, xét ở góc độ kinh tế chi thường xun của NSNN có tác
dụng kích thích cầu tiêu dùng.
Q trình tái sản xuất mở rộng bao gồm quá trình phân phối, tiêu dùng
và sản xuất. Ba q trình đó có mối liên quan mật thiết với nhau. Nếu một


×