1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là một xu hướng tất yếu, một chủ trương đúng đắn và nhất quán
của Đảng ta. Điều này thể hiện ở chỗ, thứ nhất, với trình độ phát triển như
hiện nay của lực lượng sản xuất ở nước ta, sự tồn tại của kinh tế tư nhân vẫn
là nhu cầu khách quan, thứ hai, kinh tế tư nhân đã và đang tiếp tục chứng tỏ
vai trò động lực của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thứ
ba, sự phát triển của kinh tế tư nhân trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua đã
đóng góp khơng nhỏ vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội của đất
nước. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn. Một trong những nguyên nhân cơ bản tạo nên sự phát
triển của nền kinh tế nước ta là đã khơi dậy được tiềm năng của các thành
phần kinh tế thơng qua chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong
đó kinh tế tư nhân có vai trị quan trọng và tiếp tục được khuyến khích phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết hội nghị Trung ương lần
thứ 5 (khóa IX) nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích và
tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”, “các thành phần kinh tế kinh doanh
theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hộ chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh
lành mạnh”.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng
định “phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất,
kinh doanh. Các thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân
(cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu
tư nước ngồi hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hộ chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp
luật, cùng tồn tại và phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”.
2
Từ năm 1997 đến nay, tỉnh Vĩnh Phúc được chia tách từ tỉnh Vĩnh Phú
ra hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc, là tỉnh mới tái lập có vị trí địa lý thuận lợi
cho thương mại phát triển, những năm qua khu vực kinh tế tư nhân của tỉnh
Vĩnh Phúc đã vươn lên, phát triển nhanh chóng, góp phần duy trì tốc độ tăng
trưởng và phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh theo hướng bền vững. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2005- 2010 là 17,4%/ năm, trong đó
Cơng nghiệp- xây dựng tăng 20%, Thương mại- Dịch vụ tăng 19,5%, Nônglâm nghiệp- Thủy sản tăng 5,6%. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
không ngừng được cải thiện. Hệ thống chính trị được củng cố, an ninh- quốc
phòng được giữ vững.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại ở Vĩnh
Phúc đã huy động, khai thác và sử dụng ở mức đáng kể các nguồn lực của xã
hội và sản xuất- kinh doanh. Lợi nhuận trước thuế của lĩnh vực thương mại
năm 2009 đạt 5.957 tỷ đồng. Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực
thương mại cũng tạo thêm nhiều việc làm mới, trong giai đoạn 2005- 2010 tỷ
trọng lao động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ tăng từ 16 lên 18,6 %
trong tổng nguồn lao động của tỉnh. Những kết quả phát triển kinh tế tư nhân
trong lĩnh vực thương mại ở Vĩnh Phúc đã góp phần tăng nguồn thu cho ngân
sách, đã và đang chứng tỏ vị trí, vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế xã
hội nói chung và thương mại ở Vĩnh Phúc nói riêng.
Tuy nhiên, q trình phát triển thương mại ở Vĩnh Phúc theo hướng
hiện đại đang gặp nhiều cản trở như: Thiếu vốn, công nghệ, cơ sở vật chất kỹ
thuật lạc hậu, chất lượng nguồn lao động và khả năng cạnh tranh chưa cao.
Bên cạnh đó, những khó khăn vướng mắc về cơ chế chính sách cũng làm cho
kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại chưa phát huy hết được những tiềm
năng, thế mạnh của mình. Vì vậy, đề tài "Kinh tế tư nhân trong lĩnh vực
thương mại ở Vĩnh Phúc” đang là vấn đề cấp bách cần được nghiên cứu
nhằm phát huy vai trò tích cực của loại hình kinh tế này theo hướng phục vụ
3
q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh
Vĩnh Phúc.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại được hình thành và phát
triển cùng với sự vận động của cơ chế thị trường nên đã được các tổ chức và
các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Cho đến nay, đã có nhiều cơng trình
khoa học nghiên cứu có liên quan đến đề tài này dưới những góc độ khác
nhau như:
- Thương mại tư nhân ở Hà nội: Thực trạng và giải pháp phát triển của
PGS.TS Hồng Đức Thân, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 3/ 2003.
- Giải pháp khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân tham gia phát triển
thương mại của thạc sỹ Trần Ánh Tuyết, Tạp chí Thương mại, số 14/ 2004.
- Luận án tiến sỹ kinh tế của Nguyễn Thị Như Hà: Các thành phần kinh
tế trong lĩnh vực thương mại ở nước ta, H.2004.
- Luận án tiến sỹ kinh tế của Nguyễn Văn Tuấn: Chiến lược phát triển
thương mại trên địa bàn Hà Nội đến năm 2010, H. 2002.
- Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Huy Bắc: Kinh tế nhiều thành phần
trong lĩnh vực thương mại ở nước ta hiện nay: Thực trạng và phương hướng
phát triển, Hà Nội, 1995.
- GS.TS Hồ Văn Vĩnh (chủ biên): Kinh tế tư nhân và quản lý Nhà nước
đối với kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2003.
- Tiến sỹ Hà Huy Thành (Chủ biên): Thành phần kinh tế cá thể, tiểu
chủ và tư bản tư nhân - Lý luận và chính sách, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2002.
- Luận văn thạc sỹ của Ngô Quang Phúc: Kinh tế tư nhân trong lĩnh
vực thương mại ở thành phố Đà Nẵng, Hà Nội, 2006.
- Ngồi ra cịn có bài viết của các tác giả: PGS.TS Nguyễn Đình
Kháng; PGS.TS Phạm Ngọc Kiểm; TS. Nguyễn Công Nhự.....
4
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã phần nào làm rõ được
những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế tư nhân từ các phương diện khác
nhau và đề xuất những giải pháp nhất định đối với phát triển kinh tế tư nhân ở
nước ta. Nhưng đến nay chưa có cơng trình nào luận giải về kinh tế tư nhân
trong lĩnh vực thương mại ở Vĩnh Phúc một cách tồn diện, có hệ thống dưới
góc độ của khoa học kinh tế chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ hơn vị trí và vai trị của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương
mại đối với phát triển kinh tế- xã hội tỉnh Vĩnh Phúc. Trên cơ sở phân tích,
đánh giá thực trạng, rút ra những nhận định tổng quát về tình hình phát triển
của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại và đề xuất những phương
hướng và các giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tư nhân trong lĩnh vực
thương mại ở Vĩnh Phúc những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ khái niệm, vị trí, vai trị của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực
thương mại đối với phát triển kinh tế- xã hội cùng các nhân tố ảnh hưởng tới
sự phát triển của loại hình kinh tế này ở tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế tư nhân trong lĩnh vực
thương mại ở Vĩnh Phúc thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở đó tìm ra những mặt
mạnh, điểm yếu, khó khăn cản trở sự phát triển của kinh tế tư nhân trong lĩnh
vực thương mại ở Vĩnh Phúc hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp phát triển kinh tế tư nhân
trong lĩnh vực thương mại ở Vĩnh Phúc những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự vận động của các loại hình
kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại ở tỉnh Vĩnh Phúc.
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 2005 đến 2010.
- Phạm vi nghiên cứu: Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
5
5. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước và
chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc về kinh tế tư nhân nói chung và kinh tế tư nhân
trong lĩnh vực thương mại nói riêng. Đồng thời kế thừa những lý luận có liên
quan đến đề tài của một số tác giả.
- Phương pháp nghiên cứu của luận văn:
Llà chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trừu
tượng hóa khoa học, phân tích- tổng hợp, kết hợp lơgíc với lịch sử, điều tra xã
hội học, tổng kết thực tiễn và so sánh.
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ hơn đặc điểm, vai trò của kinh tế tư nhân,
đồng thời đề ra một số giải pháp có ý nghĩa thực thi nhằm khuyến khích phát
triển kinh tế tư nhân, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại. Tài liệu có thể
làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan tham mưu của tỉnh Vĩnh Phúc và các
tỉnh khác phát triển kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương với 8 tiết.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN
TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI
1.1. KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại
Kinh tế tư nhân là loại hình kinh tế dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân về
các điều kiện sản xuất kinh doanh, đặc biệt là về tư liệu sản xuất. Kinh tế tư
nhân xuất hiện rất sớm trong lịch sử ngay từ khi hình thành sở hữu tư nhân
trong quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy. Kinh tế tư nhân là loại
hình kinh tế phổ biến trong nhiều phương thức sản xuất và vẫn tiếp tục có cơ
sở tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thuật ngữ kinh tế tư nhân gắn liền với vấn đề sở hữu. Mà sở hữu là mối
quan hệ giữa con người với con người trong việc chiếm hữu của cải vật chất.
Cùng với sự phát triển của lịch sử, đặc biệt với sự tồn tại của hai hệ thống
kinh tế xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, các quan hệ sở hữu lại càng trở
lên đa dạng hơn, phức tạp hơn. Nhìn chung có thể hiểu sở hữu trên hai
phương diện sau:
Thứ nhất, sở hữu là khái niệm để chỉ hình thức xã hội của chiếm hữu
của cải vật chất, được ghi trong luật pháp. Theo đó hai hình thức sở hữu cơ
bản là tư hữu và công hữu.
Thứ hai, sở hữu là khái niệm có nội hàm về quyền chiếm hữu, sử dụng
những tư liệu sản xuất và quyền phân chia lợi ích tài sản được luật pháp thừa
nhận. Theo cách hiểu này có các hình thức sở hữu khác nhau như sở hữu quốc
doanh, tập thể và cá thể.
Như vậy, sở hữu tư nhân là quyền hợp pháp của tư nhân trong việc
chiếm hữu, quyết định cách thức tổ chức sản xuất, chi phối và hưởng lợi từ
kết quả của quá trình sản xuất đó. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ sở
ra đời khu vực kinh tế tư nhân.
7
Khu vực kinh tế tư nhân có thể bao hàm các loại hình kinh doanh khác
nhau. Chẳng hạn, thuộc về khu vực kinh tế tư nhân có các cơ sở cá thể, tiểu
chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Các cơ sở sản xuất này hoạt động dưới hình
thức hộ kinh doanh các thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Xét về mặt
quan hệ sở hữu, kinh tế cá thể , tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đều thuộc
loại hình sở hữu tư nhân, khác với sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể. Nhưng
nếu xét về phương diện thành phần kinh tế thì kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh
tế tư bản tư nhân có thời kỳ chúng ta quan niệm là hai thành phần kinh tế khác
nhau, khác về trình độ phát triển lực lượng sản xuất và về bản chất quan hệ
sản xuất. Mặc dù vậy, do điều kiện của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, tại Đại hội X Đảng ta đã ghép hai bộ phận này thành một thành
phần là thành phần kinh tế tư nhân.
Theo Nghị quyết Đại hội X của Đảng: Kinh tế tư nhân ở nước ta là
thành phần kinh tế, bao gồm: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân
hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp
tư nhân.
Ngày nay, kinh tế tư nhân đang hoạt động trong nhiều thành phần kinh
tế, không những tham gia vào các hoạt động sản xuất trực tiếp mà cịn tích
cực hoạt động trong lĩnh vực lưu thông. Trên cơ sở chun mơn hóa lao động,
một bộ phận của kinh tế tư nhân tách ra để hoạt động trong lĩnh vực thương
mại và có vai trị rất lớn trong phát triển kinh tế- xã hội nước ta nói chung,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại là bộ phận của nền kinh tế tư
nhân đang thực hiện các hoạt động trực tiếp phục vụ lưu thông hàng hóa và
liên quan đến lưu thơng hàng hóa như mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây
dựng; tư vấn kỹ thuật; đầu tư tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; thăm dị, khai
thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng khơng, đường biển,
8
đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp
luật [39]. Hoạt động của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại dựa trên cơ
sở sở hữu tư nhân với mục tiêu chủ yếu là đảm bảo thực hiện lợi ích tư nhân.
Như vậy, kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại có thể hiểu là hình
thức vận động của một loại hình kinh doanh dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân về
vốn và các điều kiện kinh doanh cần thiết. Hoạt động của kinh tế tư nhân
trong lĩnh vực thương mại nhằm mục đích sinh lợi thơng qua mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sịnh lợi khác. Bản chất của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương
mại được quy định bởi tính chất của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đồng
thời chịu ảnh hưởng của những đặc điểm đặc thù của lĩnh vực thương mại.
Bản chất đó được thể hiện cụ thể hơn qua các đặc điểm của kinh tế tư nhân
trong lĩnh vực thương mại.
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại
Kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại là bộ phận cấu thành quan
trọng trong cơ cấu thương mại nhiều thành phần ở nước ta. Mặc dù vận động
dưới nhiều hình thức khác nhau với những phạm vi khác nhau nhưng đều
mang những đặc trưng chung của kinh tế tư nhân và thể hiện những đặc thù
của lĩnh vực thương mại. Những đặc điểm đó bao gồm:
Một là, hoạt động kinh doanh của các chủ thể tư nhân trong lĩnh vực
thương mại dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân về vốn và các điều kiện kinh
doanh, vì vậy có mục tiêu kinh doanh là tối đa hóa lợi nhuận. Do chạy theo
lợi nhuận, thương nhân thường tập trung kinh doanh những mặt hàng có tỷ
suất lợi nhuận cao. Trong điều kiện môi trường thể chế cịn chưa chặt chẽ,
mục tiêu đó có thể dẫn tới những hành vi kinh doanh trái pháp luật như: gian
lận thương mại, kinh doanh hàng nhái, hàng giả, trốn thuế…. Ngồi ra, khi
sản xuất hàng hóa nhỏ cịn tương đối phổ biến, các chủ thể kinh tế tư nhân
kinh doanh thương mại có thể sử dụng các biện pháp không lành mạnh để
9
chèn ép những người sản xuất, đặc biệt thông qua công cụ giá cả, làm hạn chế
khả năng phát triển của những cơ sở sản xuất hàng hóa nhỏ. Do đó, để hạn
chế những hành vi tiêu cực của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại cần
có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước để bảo đảm cho loại hình kinh tế này
hoạt động đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, cơ chế quản lý đa dạng, có thể dưới hình thái trực tiếp hoặc
gián tiếp thông qua tách bạch tương đối giữa quyền sở hữu vốn và quyền
quản lý kinh doanh. Do đó, trong quá trình hoạt động kinh doanh, kinh tế tư
nhân trong lĩnh vực thương mại có khả năng tích tụ và tập trung vốn nhanh,
nên dễ hình thành các mơ hình kinh doanh quy mơ lớn dưới hình thái doanh
nghiệp thương mại tư nhân. Với ưu thế về vốn, trình độ tổ chức quản lý so với
hộ thương mại cá thể, tiểu chủ, các doanh nghiệp thương mại tư nhân có
nhiều khả năng hơn để tham gia vào tất cả các khâu kinh doanh thương mại
như: bán buôn, bán lẻ, xuất nhập khẩu, vì vậy sự phát triển của nó có vai trị
thúc đẩy sự hình thành và mở rộng các quan hệ thị trường lớn hơn so với
thương mại tiểu chủ, cá thể. Tuy nhiên, các loại hình kinh tế này thường tập
trung kinh doanh trên địa bàn các trung tâm kinh tế lớn, nơi tập trung các khu
công nghiệp, đầu mối giao thơng và khu đơng dân cư, vì vậy có tác động tích
cực chủ yếu tới sự phát triển của các vùng kinh tế trọng điểm. Để khuyến
khích sự phát triển của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại ở các vùng
xa trung tâm cần có những chính sách ưu đãi nhất định, đảm bảo cho loại hình
này kinh doanh có lãi.
Ba là, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế
tư nhân trong lĩnh vực thương mại là một loại hình thương mại có hiệu quả
bởi tính nhanh, nhạy và quyết đốn, do đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế, mở
rộng thị trường trong nước và thị trường thế giới. Kinh tế tư nhân trong lĩnh
vực thương mại có thể vừa thực hiện các hoạt động sản xuất, vừa thực hiện
các hoạt động lưu thông thuần túy. Nhưng phần đông các thương nhân không
10
trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm mà chỉ tham gia vào q
trình lưu thơng, trao đổi hàng hóa trên thị trường, phân phối sản phẩm đến
người tiêu dùng, tham gia vào quá trình phân công lao động của xã hội ở lĩnh
vực lưu thông là chủ yếu.
1.1.3. Loại hình kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại
Kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại tồn tại và hoạt động dưới
nhiều hình thức, có thể phân biệt các loại hình kinh tế tư nhân trong lĩnh vực
thương mại theo các tiêu chí:
1.1.3.1. Theo hình thức sở hữu: có thể phân biệt hai cấp độ tồn tại của
kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại như:
Một là, hộ kinh doanh cá thể: Là hình thức tổ chức kinh doanh thương
mại dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về vốn và các điều kiện kinh doanh. Loại
hình kinh doanh này thường được tổ chức theo kiểu gia đình. Các thành viên
tham gia vào quá trình kinh doanh có mối quan hệ chặt chẽ như quan hệ hôn
nhân, huyết thống. Cơ sở vật chất để kinh doanh chủ yếu dựa vào nguồn vốn
tự có của người chủ với việc sử dụng lao động của bản thân và gia đình, lao
động th mướn chỉ có vai trị bổ sung, nên quy mơ hoạt động nhỏ, phạm vi
kinh doanh hẹp, khó mở rộng thị trường và chủ yếu thích ứng với hoạt động
bán lẻ, làm đại lý cho các tổ chức thương mại khác. Bản thân người chủ có
thể làm đại lý tiêu thu cho một số hãng sản xuất hoặc tự đi gom hàng trên thị
trường, nhằm tạo nguồn hàng ổn định để cung cấp đến tận tay người tiêu dùng
như các sản phẩm rau quả, thực phẩm phục vụ cho nhà hàng, khách sạn. Trong
một số trường hợp kinh doanh thương mại gắn liền với sản xuất hàng hóa nhỏ,
tức là các bộ kinh doanh vừa sản xuất vừa tiêu thụ sản phẩm của mình.
Mục tiêu kinh doanh chủ yếu của thương mại cá thể, tiểu chủ xuất phát
từ nhu cầu giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho các thành viên trong gia đình,
họ hàng, vì vậy mục tiêu lợi nhuận là thứ yếu. Thực tế cho thấy, nhiều hộ kinh
doanh thương mại vẫn hoạt động kể cả trong những trường hợp sau khi hạch
11
tốn kinh doanh khơng có lãi hoặc lãi ít để đảm bảo việc làm cho các thành
viên trong gia đình. Khi mới chuyển sang cơ chế thị trường, hệ thống kinh
doanh của các hộ cá thể phát triển một cách nhanh chóng, len lỏi vào mọi ngõ
ngách và phục vụ mọi nhu cầu đời sống của người dân, đặc biệt đối với các
tầng lớp dân cư có thu nhập thấp.
Tuy nhiên, tính tự phát trong kinh doanh tự phát có thể tác động xấu tới
thị trường, đồng thời, những hạn chế về quy mô, vốn, chất lượng nguồn nhân
lực, phương thức tổ chức kinh doanh, trình độ cơng nghệ, khả năng tiếp cận
thị trường sẽ gây cản trở cho sự phát triển của thương mại cá thể, tiểu chủ,
đặc biệt trong tiến trình hội nhập sâu kinh tế quốc tế. Vì vậy, sự phát triển của
các hộ cá thể, tiểu chủ trong lĩnh vực thương mại rất cần tới sự giúp đỡ và
định hướng của nhà nước. Theo xu thế tập trung trong sản xuất và lưu thông,
các hộ cá thể, tiểu chủ kinh doanh trong lĩnh vực thương mại có thể tự khắc
phục dần những hạn chế trên bằng cách tự nguyện hợp tác, liên kết với nhau
và với các loại hình kinh tế khác dưới những hình thức thích hợp. Vì vậy, hợp
tác, liên kết là một trong những xu hướng vận động khách quan của các hộ cá
thể, tiểu chủ kinh doanh trong lĩnh vực thương mại. Cũng trong q trình đó,
một số hộ cá thể, tiểu chủ kinh doanh thương mại đứng vững trong cạnh
tranh… có thể trở thành tổ chức kinh doanh với quy mô lớn hoạt động theo
phương thức tư bản chủ nghĩa. Đó là q trình chuyển hóa thương mại cá thể,
tiểu chủ thành thương mại tư bản tư nhân.
Hai là, các loại hình doanh nghiệp thương mại dựa trên sở hữu tư
nhân lớn về vốn và các điều kiện kinh doanh như công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh. So với các doanh nghiệp thương mại
thuộc các thành phần kinh tế khác, doanh nghiệp thương mại tư nhân thường
có tính linh hoạt và khả năng thích ứng cao, do có khả năng lựa chon quy mơ
phù hợp và tổ chức kinh doanh tối ưu. Cơ chế quản lý linh hoạt cho phép
nhanh chóng lựa chon quy mô, phương hướng, quyết định kinh doanh phù
12
hợp với năng lực hiện có, cơ chế thu hút, sử dụng và trả cơng theo hiệu quả
kinh tế.
Tính đa dạng về quy mô, luôn tạo ra những ưu thế lớn cho doanh
nghiệp thương mại tư nhân có thể len lỏi vào những nơi xã hội cần, đáp ứng
một cách linh hoạt những nhu cầu đa dạng, phong phú, muôn màu, mn vẻ
của người tiêu dùng. Các hình thức tồn tại có thể là doanh nghiệp tư nhân,
cơng ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, với quy mô
vốn và số lượng lao động nhỏ, thích hợp với những khả năng tài chính, năng
lực quản lý của doanh nghiệp tư nhân, đồng thời cũng có thể thành lập những
tập đoàn kinh tế lớn hoạt động xuyên quốc gia.
Đặc trưng bao quát của các doanh nghiệp thương mại tư nhân là đầu tư
tập trung vào các hoạt động dễ sinh lợi và thường tập trung kinh doanh trên
các địa bàn là các trung tâm kinh tế lớn, nơi tập trung khu công nghiệp, đầu
mối giao thông và khu đơng dân cư nên có tác động tích cực đến sự phát triển
các vùng kinh tế trọng điểm. Để phát triển kinh tế trong lĩnh vực thương mại
ở các vùng xa trung tâm, Nhà nước cần có các chính sách ưu đãi nhất định
đảm bảo cho loại hình kinh doanh này phát triển. Tiềm năng trí tuệ, kinh
nghiệm quản lý, tay nghề và những kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh, bí
quyết tích lũy được truyền lại qua nhiều đời trong từng gia đình, dịng họ sẽ là
nguồn sáng vơ tận cho sự tăng trưởng kinh tế, nếu có chính sách sẽ khơi dậy
được hết tiềm năng trong loại hình này.
Các loại hình doanh nghiệp này có rất nhiều lợi thế và chính các lợi
thế đó cũng trở thành tiềm lực cho sự phát triển, nó thích ứng với mọi ngành
nghề, mọi trình độ từ thủ cơng đến đến tự động hóa, tin học hóa, với mọi
quy mơ từ nhỏ đến lớn, phù hợp với mọi địa bàn từ thành thị đến nơng thơn;
hình thức sản xuất và phương pháp huy động vốn rất đa dạng cho phép huy
động nguồn lực nội sinh; tổ chức bộ máy gọn nhẹ, có tính năng động, nhạy
bén; hiệu quả sản xuất, kinh doanh cao, thu hồi vốn nhanh, có khả năng đổi
13
mới cơng nghệ cao; họ có mối quan hệ kinh tế trong và ngồi nước, vì thế
rất năng động.
Tuy nhiên, lợi ích tư nhân có thể đi ngược lại với lợi ích xã hội. Ý thức
chấp hành luật kém, tự phát, quá coi trọng lợi ích cá nhân dẫn đến những việc
làm phi pháp như trốn lậu thuế, làm hàng giả, hàng cấm, chụp giật; khơng
thích cơng khai các thơng tin của mình; khó tìm đến sự hợp tác trong mọi hoạt
động, từ chối những lĩnh vực kinh doanh không đem lại lợi nhuận cao như
trong lĩnh vực cơng ích; gây ơ nhiễm mơi trường; tạo lên sự phân hóa trong xã
hội, khoảng cách giàu nghèo tăng lên. Sự đa dạng về số lượng, quy mô, phạm
vi hoạt động của các doanh nghiệp thương mại tư nhân cũng làm nảy sinh
những khó khăn, phức tạp trong việc giám sát, quản lý hoạt động của chúng.
Sự phá sản của một số doanh nghiệp thương mại tư nhân có thể kéo theo
những hậu quả tiêu cực đối với bộ phận người lao động. Hạn chế về vốn và
khả năng tích lũy đang cản trở đối với công nghệ, làm giảm đáng kể sức cạnh
tranh của doanh nghiệp thương mại tư nhân nước ta, đặc biệt trong bối cảnh
hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng. Do đó, sự phát triển của chúng tiếp tục
cần tới sự quan tâm của nhà nước.
1.1.3.2. Theo tính chất và phạm vi hoạt động kinh doanh: kinh tế tư
nhân trong lĩnh vực thương mại có các hình thức:
Một là, kinh doanh nội địa, bao gồm các hoạt động thu mua, bán buôn,
bán lẻ.
Hoạt động thu mua là một đòi hỏi khách quan đối với nền sản xuất
hàng hóa nhỏ. Việc tồn tại và phát triển lực lượng tiểu thương làm đại lý thu
gom hàng hóa là cần thiết. Đó là cơng việc tập trung các nguồn hàng từ các
kênh sản xuất khác nhau để thực hiện các hoạt động kinh doanh tiếp theo. Tuy
nhiên, khi đòi hỏi phải thu gom một số lượng hàng hóa lớn thì bản thân hoạt
động thu mua lại đòi hỏi tiềm lực kinh tế, năng lực kinh doanh của các chủ
thể thu mua phải ở mức đủ lớn mà thương mại cá thể tiểu chủ khó có thể đáp
14
ứng.Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu trên các hộ tư thương buộc phải liên kết hợp
tác với nhau hoặc liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp thương mại tư nhân
có tiểm lực tài chính mạnh hơn. Hoạt động thu mua phát triển sẽ có tác dụng
khơi thơng nguồn hàng, thúc đẩy sản xuất phát triển và phục vụ tốt hơn cho
nhu cầu tiêu dùng.
Hoạt động bán buôn là khâu phát luồng hàng hóa tới các kênh bán lẻ và
một phần bán trực tiếp cho các chủ thể sản xuất (các yếu tố đầu vào). Mục
tiêu của các nhà bán bn là tiêu thu được khối lượng hàng hóa lớn trong thời
gian ngắn nhất. Mơ hình này địi hỏi phải có những nhà bn lớn đáp ứng
được đầy đủ các điều kiện kinh doanh trong cơ chế thị trường như: quy mô
vốn đầu tư lớn, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, tiện lợi cho việc chế biến bảo
quản và vận chuyển hàng hóa, kênh phân phối rộng, kinh nghiệm kinh doanh
phong phú. Do đó ở khâu này chủ yếu là các doanh nghiệp thương mại tư
nhân tham gia hoạt động.
Hoạt động bán lẻ là khâu cuối cùng của q trình hoạt động kinh doanh
thương mại. Hàng hóa sau khi bán đã ra khỏi lĩnh vực lưu thông và đi vào lĩnh
vực tiêu dùng, giá trị và giá trị sử dụng được thực hiện. Đây là hoạt động kinh
doanh thương mại đáp ứng nhu cầu phong phú, đa dạng, tỉ mỉ của nhiều đối
tượng khách hàng khác nhau và nó là hình thức phổ biến, len lỏi vào mọi ngõ
ngách của cuộc sống. Hoạt động ở khâu bán lẻ cần có một mạng lưới rộng
khắp với nhiều quy mơ khác nhau.
Trong điều kiện nền kinh tế cịn chưa phát triển cao, hoạt động này chủ
yếu được thực hiện bởi thương mại cá thể, tiểu chủ. Đó là loại hình phù hợp
với các địi hỏi của nhu cầu thị trường khi thu nhập của người tiêu dùng chưa
cao, vì vậy khơng thể nóng vội xóa bỏ loại hình này mà ngược lại phải
khuyến khích, tạo điều kiện cho nó kinh doanh theo pháp luật, góp phần phục
vụ sản xuất và đời sống tốt hơn. Việc thu hẹp hay khuyến khích mở rộng hoạt
động kinh doanh của thương mại tư nhân phụ thuộc vào trình độ phát triển
15
của nền kinh tế (cụ thể là do nhu cầu thị trường quyết định), không thể phụ
thuộc vào sự chủ quan của con người. Tuy nhiên, khi nền kinh tế phát triển,
hội nhập, trong hệ thống bán lẻ các siêu thị lớn với các ưu thế về nguồn hàng,
chất lượng, phong cách phục vụ, sẽ ra tăng vai trò và có xu thế thay thế các
cửa hàng nhỏ lẻ.
Hai là, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Cũng là các hành vi mua, bán trên thị trường, nhưng hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu có tính đặc thù là các hành vi mua, bán được thực hiện
chủ yếu ở thị trường nước ngồi. Với chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ kinh tế đối ngoại thì các đối tác trong quan hệ kinh tế cũng hết
sức đa dạng với tiềm lực kinh tế mạnh, có khả năng cạnh tranh cao, có bề dày
kinh nghiệm. Trong cơ chế cũ, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu do các
doanh nghiệp thương mại Nhà nước thực hiện. Khi chuyển sang cơ chế mới
và trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế thì các thành phần kinh tế tham
gia hoạt động kinh tế đối ngoại là xu hướng tất yếu. Để thúc đẩy kinh tế trong
nước phát triển thì việc huy động các thành phần kinh tế tham gia hoạt động
xuất nhập khẩu trong sự quản lý của nhà nước là chủ trương hết sức đúng đắn.
Tuy nhiên, thương mại tư nhân nước ta khi tham gia hoạt động kinh doanh
xuất nhập khẩu gặp phải rất nhiều khó khăn do tiềm lực kinh tế yếu, chưa có
kinh nghiệm, khả năng nắm bắt và xử lý thơng tin thị trường nước ngồi chưa
kịp thời, công tác xúc tiến thương mại tổ chức chưa thường xuyên. Đặc biệt là
trình độ ngoại ngữ, hiểu biết hệ thống pháp luật và thông lệ thương mại quốc
tế của đội ngũ doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu khi tham gia kinh
doanh xuất nhập khẩu.
1.1.4. Vai trò của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại
Thứ nhất, thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế.
Sản xuất và lưu thông là những khâu quan trọng của tái sản xuất trong
kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường. Thương mại là lĩnh vực phục vụ lưu
16
thơng hàng hóa, có vai trị là cầu lối giữa sản xuất với tiêu dùng, bao gồm tiêu
dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân. Nếu lưu thơng trì trệ sẽ gây cản trở việc duy
trì và mở rộng việc sản xuất, ảnh hưởng tiêu cực tới phát triển kinh tế xã hội.
Kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại với tư cách là hoạt động
chun mơn hóa trên cơ sở phân cơng lao động, một mặt, có chức năng cung
ứng cho các chủ thể sản xuất kinh doanh khác những tư liệu sản xuất cần
thiết, tạo điều kiện cho tái sản xuất của các chủ thể đó được tiến hành một
cách thuận lợi, ví dụ như thu mua nông sản cho các nhà máy chế biến và xuất
khẩu, cung ứng phân bón, thuốc trừ sâu cho nơng dân…Mặt khác, giúp cho
các nhà sản xuất thực hiện giá trị sản phẩm nhanh chóng, rút ngắn được thời
gian lưu thơng, làm tăng tốc độ tái sản xuất. Thông qua hoạt động của mình,
kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại không những đảm bảo cho những
doanh nghiệp sản xuất về các yếu tố đầu vào, mà còn mở đường tiêu thụ sản
phẩm cho chúng, thúc đẩy sản xuất theo hướng hàng hóa, phục vụ thị trường.
Do đó, kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại là yếu tố quan trong thúc
đẩy kinh tế thị trường phát triển.
Thông qua việc mua, bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, kinh tế tư
nhân trong lĩnh vực thương mại có vai trò quan trọng trong việc mở rộng khả
năng tiêu dùng, nâng cao mức hưởng thụ của các cá nhân và doanh nghiệp,
góp phần sản xuất và đẩy mạnh phân cơng lao động xã hội, thực hiện cách
mạng khoa học công nghệ trong các ngành kinh tế quốc dân. Vai trò của kinh
tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại được thể hiện biến đổi tỉ trọng của kinh
tế tư nhân trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội. Đóng góp của
kinh tế tư nhân trong tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ ở Việt Nam tăng
nhanh từ 399.870,7 tỷ đồng năm 2005 lên 1.279.200,1 tỷ đồng năm 2010. Về
cơ cấu tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ của thành phần kinh tế tư nhân
rất cao, bình quân trên 83% trong 5 năm liền (2005- 2010), có năm tới 86,8%
(Xem phụ lục 1). Năm 2010, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dich vụ xã hội cả
17
nước; tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội của kinh tế tư nhân chiếm
83%. (Xem phụ lục 1, phụ lục 2).
Ngày nay, trong xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế diễn ra mạnh mẽ,
hội nhập sâu nền kinh tế quốc tế, giao lưu giữa các nước về kinh tế, tài chính,
đầu tư, thương mại …, quốc gia nào mà khơng hội nhập thì sẽ đánh mất cơ
hội phát triển và dẫn đến tụt hậu. Khi kinh doanh thương mại phát triển vượt
khỏi biên giới quốc gia, thì trong xuất nhập khẩu (thương mại quốc tế) càng
có tác dụng to lớn, nó tiếp thu nguồn lực từ bên ngoài và mở rộng thị trường
cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước, xuất khẩu hàng hóa ra nước ngồi.
Do đó, kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại có vai trị là cầu nối gắn kết
nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới.
Thứ hai, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Những năm qua thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần, tình hình kinh tế- xã hội của nước ta diễn biến theo chiều hướng tích
cực. Tính từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục tăng. Thời
kỳ 2001- 2005 Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm là 7,5%
và hai năm 2006- 2007 đạt tốc độ tăng trưởng GDP trên 8%, các năm 20082010, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính- kinh tế tồn cầu, tốc độ
tăng trưởng vẫn đạt 6,31% (năm 2009 đạt 5,32% và năm 2010 đạt 6,78%);
bình quân 5 năm 2006- 2010 đạt 7,1%/ năm [1, tr.19].
Như vậy, Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh
tế nhanh so với các nước trong khu vực và trên thế giới, theo đánh giá của
Ngân hàng phát triển Châu Á- ADB thì năm 2010 kinh tế Singapore tăng
14,7%, Trung Quốc tăng 10,3%, Philippines tăng 7,9%, Thailan tăng 7,8%,
Malaysia tăng 7,2%; Việt Nam tăng 6,78%, Indơnexia tăng 6%) [40]. Trong
đó, đối với kinh tế tư nhân của Việt Nam ( kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể)
năm 2010 đã đóng góp 42,31% GDP, với 883.274 tỷ đồng [42].
Kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại phát triển đã góp phần rất
lớn trong việc tích lũy vốn và đầu tư, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
18
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội (theo giá thực tế) giai
đoạn từ 2005- 2010 là 3.435.779 tỷ đồng , tăng bình quân hàng năm là
16,09%/ năm; trong đó, khu vực kinh tế tư nhân đã tích lũy vốn đầu tư giai
đoạn 2005- 2010 là 1.245.739 tỷ đồng, chiếm 36,25% tổng số vốn đầu tư tồn
xã hội và tăng bình qn hàng năm là 15,03%/ năm. Riêng lĩnh vực thương
mại và khách sạn, nhà hàng tổng vốn đầu tư từ năm 2005- 2010 là 227.526 tỷ
đồng, chiếm 18,26% tổng số vốn đầu tư khu vực kinh tế tư nhân và tăng bình
quân hàng năm 14,31%/ năm [46] đây là nguồn vốn quan trọng để góp phần
tích lũy và đầu tư phát triển, từ đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại đã thúc đẩy
các ngành sản xuất phát triển, là yếu tố quyết định đến quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế nước ta tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực,
tỷ trọng ngành cơng nghiệp và xây dựng trong cơ cấu GDP tăng từ 36,7% năm
2000 lên 40,3 % năm 2010; tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 24,5%
xuống còn khoảng 19,9 % và tỷ trọng dịch vụ giữ vững 38,9% [1, tr.20].
Thứ ba, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, tạo thu nhập cho
người lao động.
Hiện nay vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động là một trong
những mục tiêu kinh tế vĩ mô của nhà nước ta, là nhiệm vụ thường xuyên,
liên tục có tính cấp bách của các cấp chính quyền. Đây là vấn đề hết sức phức
tạp, đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của cả xã hội. Bởi vì một trong
những nguyên nhân sinh ra các tệ nan xã hội như: trộm cắp, mại dâm, ma
túy…, là do con người có khả năng lao động mà khơng có việc làm, phải tìm
kế sinh nhai một cách bất hợp pháp, dễ gây ra sự mất ổn định xã hội và nó
cũng sẽ khơng đảm bảo được mơi trường cho sự phát triển kinh tế- xã hội ổn
định. Vì vậy, giải quyết việc làm cho người lao động, tạo thu nhập, từng bước
nâng cao dần đời sống cho người dân khơng chỉ là vấn đề kinh tế mà nó cịn
có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
19
Trong điều kiện nguồn nhân lực vẫn đang phổ biến là lao động giản
đơn, kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại có nhiều ưu thế trong tạo việc
làm như:
- Mơ hình tổ chức của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại đơn
giản, gon nhẹ phần lớn sử dụng lao động trong gia đình.
- Kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại ở nước ta hiện nay quy mơ
cịn nhỏ, trình độ cơng nghệ chưa cao nên chủ yếu là sử dụng lao động phổ
thông. Người lao động không phải qua trường lớp đào tạo chuyên môn mà chỉ cần
sự hướng dẫn của người chủ, hay sự chỉ bảo của những người đi trước có nhiều
kinh nghiệm là cũng có thể tham gia hoạt động kinh doanh thương mại được.
- Kinh doanh thương mại đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn để mua hàng
hóa, nhưng trong thực tế, kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại có thể
làm đại lý hoặc mua chịu hàng hóa được nên nhiều khi chỉ cần một lượng vốn
đủ để trang bị những điều kiện kinh doanh cần thiết thì cũng có thể tổ chức
kinh doanh được.
- Với những ưu điểm trên, trong 5 năm qua (2005- 2010) thành phần
kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại ở nước ta đã tạo ra được số lượng
việc làm mới đáng kể cho người lao động, từ 5.902,5 nghìn người năm 2005
lên 7.076,7 nghìn người năm 2010; như vây trong năm năm kinh tế tư nhân
trong lĩnh vực thương mại đã tạo được việc làm cho 1.165,2 nghìn người
được thể hiện qua (Phụ lục 3), đã góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp chung
của cả nước từ 5,1% năm 2005 xuống còn 2,88 năm 2010 [43].
Cùng với vai trò tạo việc làm, kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương
mại đã góp phần tạo thu nhập và nâng cao đời sống vật chất cho người lao
động, góp phần thực hiện xóa đói, giảm nghèo nhất là vùng nơng thơn, miền
núi thông qua tác động gián tiếp bằng cách tạo lập thị trường đầu ra cho sản
phẩm của các hộ nông dân. Tỷ lệ hộ nghèo của cả nước đã giảm từ 22% năm
2005 xuống còn 9,45% năm 2010 và phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản nước
ta khơng cịn hộ nghèo.
20
Thứ tư, đóng góp cho ngân sách ngày càng tăng.
Kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại đã đóng góp đáng kể nguồn
thu cho ngân sách quốc gia. Tổng nguồn thu ngân sách nhà nước ở trong nước
(không kể từ dầu thô) từ 119.826 tỷ đồng bằng 52,48% năm 2005 tăng lên
269.656 tỷ đồng bằng 60,96% năm 2009. Trong tổng thu ngân sách nhà nước
ở trong nước thì nguồn thu từ cơng, thương nghiệp, dịch vụ ngồi quốc doanh
cũng tăng từ 14,13% bằng 16.938 tỷ đồng năm 2005 lên 17,73% bằng 47.833
tỷ đồng năm 2009. Như vậy, khu vực kinh tế cơng, thương nghiệp, dịch vụ
ngồi quốc doanh chiếm một phần đáng kể trong tổng nguồn thu ngân sách
quốc gia chiếm 17,73% năm 2009, nó đứng vị trí thứ ba, sau nguồn thu từ
doanh nghiệp nhà nước 31,09% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
18,78% (nguồn thu trong nước không kể từ dầu thô) [45]. Như vậy, nguồn thu
ngân sách Nhà nước có sự đóng góp đáng kể của kinh tế tư nhân trong lĩnh
vực thương mại để đầu tư, phát triển và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã
hội đất nước phục vụ quốc tế dân sinh. Do đó, chúng ta cần tạo mọi điều kiện
thuận lợi tốt nhất cho kinh tế tư nhân nói chung và trong lĩnh vực thương mại
nói riêng phát triển. Bằng những kết quả hoạt động kinh doanh đã đạt được,
kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại ngày càng khẳng định vai trị của
mình đối với sự phát triển kinh tế đất nước.
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH TẾ TƯ
NHÂN TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI
1.2.1. Nhân tố về văn hóa kinh doanh thương mại, vốn, nguồn nhân
lực đối với hoạt động kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại
Trong những năm qua, kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại của
Việt Nam không ngừng nâng cao năng lực, khai thác tối đa các yếu tố, các thế
mạnh của mình như nguồn vốn, nguồn nhân lực, kinh nghiệm quản lý... nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngày nay, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, điều kiện cạnh tranh trong nước và quốc tế ngày càng gay gắt hơn thì kinh
21
tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại cần phải khơng ngừng nâng cao năng lực
của mình nhằm chiếm lĩnh và mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước, do
đó những yếu tố, điều kiện tác động đến các chủ thể kinh doanh:
Nguồn vốn tích lũy: tiết kiệm của nhân dân để đầu tư phát triển kinh
doanh là nguồn vốn lớn và có nhiều tiềm năng, nó tác động rất lớn tới hoạt
động kinh doanh của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại. Năm 2010,
nguồn vốn đầu tư ở khu vực kinh tế tư nhân cả nước đạt 299.487 tỷ đồng, tỷ
trọng đầu tư của khu vực này so với tổng số vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn
2005- 2010 chiếm bình quân 36,6%/ năm [46]. Trong đó nguồn vốn đầu tư
tồn xã hội của ngành thương mại và dịch vụ khách sạn, nhà hàng năm 2010
là 93.010 tỷ đồng, chiếm 11,20% so với tổng số vốn đầu tư toàn xã hội của
kinh tế tư nhân. Như vậy thông qua hoạt động của kinh tế tư nhân nói chung
và kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại, nguồn vốn tích lũy trong dân đã
thúc đẩy mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh, đầu tư cơ sở vật chất, trung
tâm thương mại, siêu thị, mở rộng mặt bằng kinh doanh, nâng cao chất lượng
sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh, mở rộng mạng lưới kinh doanh của các
chủ thể kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại. Nguồn vốn đầu tư trong
nước nói chung và nguồn vốn đầu tư của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực
thương mại thực sự là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của nước ta.
- Về nguồn lao động: cùng với số vốn tích lũy, nguồn lao động ở nước
ta rất lớn, người lao động luôn nhệt tình, cần cù, chịu khó, hăng say lao động,
thơng minh sáng tạo, đây là nguồn lực rất quan trọng tác động trực tiếp đến sự
phát triển kinh tế của đất nước, là lực lượng tiếp cận khoa học công nghệ mới,
phương thức kinh doanh hiện đại. Nếu có cơ chế chính sách phù hợp sẽ thu
hút được một lực lượng lao động có trình độ làm việc ở khu vực kinh tế tư
nhân trong lĩnh vực thượng mại; đồng thời sẽ đào tạo được nguồn nhân lực có
chất lượng cho thương mại tư nhân, đáp ứng được yêu cầu tiếp cận khoa học
cơng nghệ trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Năm 2010 lao
22
động làm việc trong các thành phần kinh tế của cả nước là 49.048,5 nghìn
người (khơng bao gồm lực lượng an ninh quốc phịng). Trong đó khu vực
kinh tế tư nhân lao động đang làm việc có 42.214,6 nghìn người chiếm
86,06% tổng số lao động đang làm việc ở các thành phần kinh tế của cả nước,
riêng lao động đang làm việc ở lĩnh vực thương mại và dịch vụ khách sạn, nhà
hàng là 7.362 nghìn người, chiếm 17,43% tổng số lao động đang làm việc ở
khu vực kinh tế tư nhân, lao động đang làm việc trong lĩnh vực thương mại
giai đoạn từ 2005-2010 tăng 32,61% bình quân tăng 5,43%/năm, năm 2005
tăng cao nhất 10,57%. Tỷ lệ thất nghiệp cũng giảm xuống đáng kể, tỷ lệ thất
nghiệp năm 2005 là 5,3% giảm xuống còn 2,88% (năm 2010) [43], [44].
- Về văn hóa kinh doanh thương mại: tiềm năng trí tuệ, kinh nghiệm
quản lý, tay nghề và kinh nghiệm sản xuất kinh doanh bí truyền được tích lũy
qua nhiều đời trong từng gia đình, dịng họ sẽ là nguồn sáng tạo vơ tận cho sự
tăng trưởng kinh tế, nếu có chính sách đúng, phù hợp sẽ tác động tích cực và
khơi dậy hết tiềm năng vốn có của kinh tế tư nhân nói chung và kinh tế tư
nhân trong lĩnh vực thương mại, đáp ứng được yêu cầu của quá trình hiện đại
hóa thương mại, nâng cao được trình độ quản lý bằng công nghệ tiên tiến hiện
đại, tiếp thu thành tựu khoa học cơng nghệ của thế giới.
Ngồi vốn, lao động, kinh nghiệm quản lý đất đai, tài nguyên tuy
không nhiều nhưng phong phú, đa dạng cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
chuyển đổi cây trồng vật nuôi, thâm canh tăng vụ trong nơng nghiệp cịn dồi
dào, ngành nghề trong nơng thơn cịn tiềm ẩn. Đó là điều kiện cho kinh tế tư
nhân phát triển. Việt Nam có hơn 2 triệu người định cư, sinh sống làm ăn ở
nước ngồi, đó là nguồn lực quan trọng. Nếu có chính sách đúng họ có thể trở
thành cầu nối chuyển vốn, khoa học cơng nghệ, máy móc thiết bị về đầu tư
phát triển kinh tế trong nước thông qua khu vực kinh tế tư nhân. Kinh tế tư
nhân nói chung, trong đó kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại nói riêng
chủ yếu là khai thác nguồn vốn tự có, sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu
23
tại chỗ, do đó nó rất phù hợp với phương thức phát triển kinh tế của nước ta
giai đoạn hiện nay.
1.2.2. Nhân tố kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại xuất hiện rất sớm trong lịch
sử nhân lọai dưới hình thái thương nhân. Cơ sở tồn tại và vận động của tư bản
thương nhân là sự tồn tại của lưu thơng hàng hóa và lưu thơng tiền tệ. Do đó,
quan hệ hàng hóa tiền tệ có tác động quyết định tới sự hình thành của kinh tế
tư nhân trong lĩnh vực thương mại.
Tác động của kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường tới kinh tế tư nhân
trong lĩnh vực thương mại phụ thuộc vào trình độ phát triển của bản thân sản
xuất hàng hóa. Trong thời kỳ đầu của sản xuất hàng hóa, khi sản xuất nhỏ
chiếm ưu thế, khi sản xuất chưa sáp nhập được với lưu thơng thành một yếu
tố của nó, q trình lưu thơng do tư bản thương nhân đảm nhận có vai trị nối
liền các lĩnh vực sản xuất khác nhau, do đó có vị thế chi phối đối với sản xuất.
Tuy nhiên, khi sản xuất hàng hóa lớn đã thay thế sản xuất hàng hóa nhỏ hay
kinh tế hàng hóa đã phát triển tới trình độ cao là kinh tế thị trường, q trình
sản xuất hồn tồn dựa trên lưu thơng, làm cho lưu thông trở thành một yếu
tố, một giai đoạn quá độ của sản xuất; lưu thông do thương nhân đảm nhận
chỉ đơn thuần là sự thực hiện sản phẩm đã được sản xuất ra với tư cách hàng
hóa và sự thay thế các yếu tố sản xuất của nó đã được sản xuất ra với tư cách
là hàng hóa. Do đó, khi kinh tế thị trường đã phát triển, kinh tế tư nhân trong
lĩnh vực thương mại khơng cịn giữ vị thế chi phối đối với sản xuất, mà ngược
lại phụ thuộc vào sản xuất, có chức năng phục vụ q trình lưu thơng các sản
phẩm do sản xuất tạo ra.
Đối với nước ta, kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại được khôi
phục và phát triển trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa kể từ sau đổi mới. Đó cũng đồng thời là
q trình chuyển dần nền kinh tế mang nặng tính hiện vật, sang sản xuất hàng
24
hóa với sự hình thành và phát triển các loại hình thị trường, từ thị trường hàng
hóa tiêu dùng tới các thị trường tư liệu sản xuất, thị trường vốn, khoa học
công nghệ... Sự tham gia của kinh tế tư nhân vào lĩnh vực thương mại cũng
nhờ đó được mở rộng dần ra, từ những hình thái kinh doanh nhỏ lẻ, chủ yếu
tập trung vào bán lẻ hàng tiêu dùng, tới những hình thái kinh doanh lớn hiện
đại trong các thị trường tư liệu sản xuất, trở thành chủ thể cung cấp chủ yếu
các yếu tố đầu vào cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đã được sản xuất ra. Sự
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta những
năm qua với sự lớn mạnh không ngừng của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực
thương mại đã chứng tỏ rằng, sự tồn tại, vận động và phát triển của kinh tế tư
nhân trong lĩnh vực thương mại là tất yếu khách quan.
Tính tất yếu khách quan của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại
được quy định bởi, thứ nhất sự hoạt động của các quan hệ thị trường, thứ hai
sự tồn tại khách quan của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại với tư
cách là một hình thức quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực
lượng sản xuất, nó là một chủ thể của kinh tế thị trường, nếu khơng có kinh tế
thị trường thì khơng có thương mại. Cũng như các lĩnh vực khác của nền kinh
tế, thương mại là một lĩnh vực đầu tư có thể mang lại lợi nhuận. Trong cơ cấu
thương mại nhiều thành phần, mỗi thành phần kinh tế đều có vị trí, vai trị
nhất định trên thị trường. Sự tồn tại của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương
mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta không
những là tất yếu khách quan mà hoạt động của nó có vai trị tích cực thúc đẩy
kinh tế thị trường phát triển.
Kinh tế thị trường tác động tích cực tới sự phát triển của kinh tế tư nhân
trong lĩnh vực thương mại, nó tạo động lực và cơ hội cho mọi người tham gia
kinh doanh, mua bán, huy động được mọi nguồn lực trong xã hội như vốn, lao
động, khoa học công nghệ, trình độ tay nghề, kinh nghiệm quản lý... Thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển, giải phóng sức sản xuất, kết cấu hạ kinh tế được
25
mở rộng và phát triển như mạng lưới chợ, hệ thống siêu thị, trung tâm thương
mại, sự mở rộng và phát triển kinh tế thương mại đến vùng sâu, vùng xa, nơi
hẻo lánh; đồng thời thúc đẩy mở rộng, hợp tác giao lưu kinh tế giữa nước ta
với các nước trên thế giới.
1.2.3. Nhân tố mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế
Tồn cầu hóa kinh tế ngày nay là xu hướng khách quan, lôi cuốn các
nước tham gia, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng
sức ép cạnh tranh và tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, tạo ra cơ
hội lớn cho các quốc gia tranh thủ phát triển rút ngắn, đồng thời cũng tạo ra
những thách thức không nhỏ đối với các nền kinh tế hội nhập. Hội nhập kinh
tế quốc tế thể hiện sự tham gia, gắn kết nền kinh tế của một nước vào các nền
kinh tế khu vực và toàn cầu, đã và đang đặt chủ thể kinh tế trong nước, trong đó
có kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại vào môi trường hoạt động mới.
Hội nhập tạo thuận lợi mở ra thị trường mới, thị trường nước ngồi, từ
đó có tác động mở rộng phạm vị hoạt động cho kinh tế tư nhân trong lĩnh vực
thương mại, tạo cơ hội cho kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại của Việt
Nam có thể thâm nhập vào các thị trường các nước khác và không ngừng lớn
mạnh. Thực tế cho thấy, kể từ khi thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc
tế, các họat động xuất khẩu của Việt Nam không ngừng được mở rộng, kinh tế
tư nhân trong lĩnh vực thương mại ngày càng gắn với thị trường nước ngồi,
khơng ít doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân đã lớn lên nhờ hoạt
động xuất nhập khẩu.
Tuy nhiên, hội nhập kinh tế cũng đặt ra những thách thức mà mỗi
doanh nghiệp phải thông qua. Các chủ thể tư nhân kinh doanh thương mại
trong điều kiện hội nhập không những phải cạnh tranh với các đối thủ trong
nước thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, mà còn phải đối mặt với những
đối thủ cạnh tranh nước ngồi, khơng những tại các thị trường nước ngoài mà
cả ngay tại thị trường trong nước.